So have you ever wondered what it would be like to live in a place with no rules? That sounds pretty cool.
Bạn đã từng thắc mắc sẽ như thế nào khi sống ở một nơi không hề có luật lệ chưa? Nghe có vẻ khá cool nhỉ.
(Laughter)
(Cười)
You wake up one morning, however, and you discover that the reason there are no rules is because there's no government, and there are no laws. In fact, all social institutions have disappeared. So there's no schools, there's no hospitals, there's no police, there's no banks, there's no athletic clubs, there's no utilities.
Một buổi sáng, bạn thức dậy, bạn phát hiện ra lý do tình trạng vô luật lệ là vì không có chính phủ, do đó không có luật pháp. Trên thực tế, tất cả các cơ quan đều biến mất. Không có trường học, không có bệnh viện, không có cảnh sát, không có ngân hàng, không có câu lạc bộ thể hình, không có bất kỳ dịch vụ nào.
Well, I know a little bit about what this is like, because when I was a medical student in 1999, I worked in a refugee camp in the Balkans during the Kosovo War. When the war was over, I got permission -- unbelievably -- from my medical school to take some time off and follow some of the families that I had befriended in the camp back to their village in Kosovo, and understand how they navigated life in this postwar setting.
Tôi biết một chút về việc nó thế nào, vì khi tôi còn là một sinh viên y năm 1999, tôi làm việc trong một trại tập trung ở Balkans khi xảy ra cuộc chiến Kosovo. Khi cuộc chiến kết thúc, tôi được phép -- khó tin -- từ trường y cho nghỉ một thời gian và theo một số gia đình mà tôi quen ở trại trở về ngôi làng của họ ở Kosovo, và hiểu ra được việc họ lèo lái cuộc sống sau chiến tranh thế nào.
Postwar Kosovo was a very interesting place because NATO troops were there, mostly to make sure the war didn't break out again. But other than that, it was actually a lawless place, and almost every social institution, both public and private, had been destroyed. So I can tell you that when you go into one of these situations and settings, it is absolutely thrilling ... for about 30 minutes, because that's about how long it takes before you run into a situation where you realize how incredibly vulnerable you are.
Kosovo sau chiến tranh là một nơi rất thú vị vì quân đội NATO ở đó, hầu hết là để chắc rằng cuộc chiến không bùng phát trở lại. Nhưng hơn nữa, đây hoàn toàn là một nơi vô luật pháp, hầu hết các cơ quan xã hội, cả công cộng và tư nhân, đều bị phá hủy. Nên tôi có thể nói với các bạn rằng khi tôi bước vào một hoàn cảnh và môi trường như thế, tôi hết sức rùng mình... trong khoảng 30', bởi vì đó là khoảng thời gian trước khi bạn bước vào một hoàn cảnh nơi bạn nhận ra mình dễ bị tổn thương thế nào.
For me, that moment came when I had to cross the first checkpoint, and I realized as I drove up that I would be negotiating passage through this checkpoint with a heavily armed individual who, if he decided to shoot me right then and there, actually wouldn't be doing anything illegal. But the sense of vulnerability that I had was absolutely nothing in comparison to the vulnerability of the families that I got to know over that year.
Với tôi, khoảng khắc đó đến khi tôi phải đi qua trạm kiểm soát đầu tiên, và tôi nhận ra khi tôi lái xe lên tôi sẽ đi qua trạm kiểm soát này, đàm phán với một người được trang bị vũ khí hạng nặng, nếu anh ta quyết định bắn tôi luôn lúc đó, thì đó cũng không phải là điều gì bất hợp pháp. Nhưng cảm giác yếu đuối của tôi chẳng là gì so với cảm giác yếu đuối của những gia đình mà tôi quen biết trải qua năm đó.
You see, life in a society where there are no social institutions is riddled with danger and uncertainty, and simple questions like, "What are we going to eat tonight?" are very complicated to answer. Questions about security, when you don't have any security systems, are terrifying. Is that altercation I had with the neighbor down the block going to turn into a violent episode that will end my life or my family's life?
Bạn thấy đó, cuộc sống trong một xã hội mà không hề có một tổ chức xã hội nào đầy rẫy nguy hiểm và bất ổn, và những câu hỏi đơn giản như, "Chúng ta sẽ ăn gì tối nay?" lại rất khó để trả lời. Những câu hỏi về sự an toàn, khi bạn không có bất kỳ một tổ chức an ninh nào, là rất đáng sợ. Một cuộc đấu khẩu giữa tôi và người hàng xóm tầng dưới sẽ biến thành một cuộc bạo lực thứ sẽ kết liễu tôi hay gia đình tôi?
Health concerns when there is no health system are also terrifying. I listened as many families had to sort through questions like, "My infant has a fever. What am I going to do?" "My sister, who is pregnant, is bleeding. What should I do? Who should I turn to?" "Where are the doctors, where are the nurses? If I could find one, are they trustworthy? How will I pay them? In what currency will I pay them?" "If I need medications, where will I find them? If I take those medications, are they actually counterfeits?" And on and on. So for life in these settings, the dominant theme, the dominant feature of life, is the incredible vulnerability that people have to manage day in and day out, because of the lack of social systems.
Những quan tâm đến sức khỏe khi không có tổ chức y tế nào cũng rất đáng sợ. Tôi nghe nhiều gia đình hỏi những câu hỏi đại loại như, "Đứa con sơ sinh của tôi sốt cao. Tôi phải làm gì đây?" "Người chị đang mang bầu của tôi đang bị chảy máu. Tôi nên làm gì đây?" Tôi nên nhờ ai đây?" "Bác sĩ, y tá ở đâu hết rồi? Nếu tôi tìm thấy họ, họ có đáng tin ko?" Tôi phải trả tiền cho họ thế nào? Bằng loại tiền gì?" "Nếu tôi cần thuốc men, tôi phải tìm chúng ở đâu?" Nếu tôi uống thuốc đó, chúng có phải là thuốc giả ko?" Và còn nhiều nhiều nữa. Nên cuộc sống trong những hoàn cảnh như thế, một đề tài bao quát, một nét đặc trưng bao quát về cuộc sống là hoàn cảnh cực kỳ dễ tổn thương mà họ phải xoay sở ngày này sang ngày khác, bởi thiếu những tổ chức xã hội.
And it actually turns out that this feature of life is incredibly difficult to explain and be understood by people who are living outside of it. I discovered this when I left Kosovo. I came back to Boston, I became a physician, I became a global public health policy researcher. I joined the Harvard Medical School and Brigham and Women's Hospital Division of Global Health. And I, as a researcher, really wanted to get started on this problem right away. I was like, "How do we reduce the crushing vulnerability of people living in these types of fragile settings? Is there any way we can start to think about how to protect and quickly recover the institutions that are critical to survival, like the health system?" And I have to say, I had amazing colleagues. But one interesting thing about it was, this was sort of an unusual question for them. They were kind of like, "Oh, if you work in war, doesn't that mean you work on refugee camps, and you work on documenting mass atrocities?" -- which is, by the way, very, very, very important.
Và hoá ra là đặc điểm sống này lại cực kỳ khó giải thích cho những người không sống trong điều kiện như thế hiểu được. Tôi phát hiện ra điều này khi rời khỏi Kosovo. Tôi quay lại Boston, trở thành bác sĩ, tôi trở thành nhà nghiên cứu chiến lực sức khỏe toàn cầu. Tôi tham gia trường y Harvard Brigham, và Ngành Y tế Phụ nữ Toàn cầu. Nhà nghiên cứu như tôi rất muốn giải quyết vấn đề này ngay lập tức. Tôi kiểu như, "Chúng ta có thể làm giảm hoàn cảnh dễ bị tổn thương của người dân sống trong những hoàn cảnh mỏng manh như thế bằng cách nào? Có cách nào chúng ta có thể bắt đầu nghĩ đến việc làm thế nào để bảo vệ và hồi phục nhanh chóng các cơ quan chức năng cấp thiết cho việc tồn tại như cơ quan y tế hay không? Và tôi phải nói rằng, tôi có những đồng nghiệp tuyệt vời. Nhưng một điều thú vị về điều này là, đây là một câu hỏi bất thường đối với họ. Họ kiểu như, "Nếu bạn làm việc trong thời chiến, không có nghĩa là bạn làm trong trại tị nạn, và bạn ghi lại những hành động tàn bạo hàng loạt?" điều mà, dù sao thì cũng rất, rất, rất quan trọng.
So it took me a while to explain why I was so passionate about this issue, until about six years ago. That's when this landmark study that looked at and described the public health consequences of war was published. They came to an incredible, provocative conclusion. These researchers concluded that the vast majority of death and disability from war happens after the cessation of conflict. So the most dangerous time to be a person living in a conflict-affected state is after the cessation of hostilities; it's after the peace deal has been signed. It's when that political solution has been achieved. That seems so puzzling, but of course it's not, because war kills people by robbing them of their clinics, of their hospitals, of their supply chains. Their doctors are targeted, are killed; they're on the run. And more invisible and yet more deadly is the destruction of the health governance institutions and their finances.
Nó khiến tôi một lúc để giải thích tại sao tôi lại tha thiết với vấn đề này, cho đến khoảng sáu năm trước. Đó là lúc nghiên cứu bước ngoặc này, nói về việc xem xét và mô tả hậu quả của nền y tế cộng đồng thời hậu chiến, được xuất bản. Nó đưa ra một kế luận đầy kinh ngạc và khó tin. Những nhà nghiên cứu kết luận rằng phần lớn thương vong từ chiến tranh xảy ra sau khi cuộc xung đột kết thúc. Vậy nên thời điểm nguy hiểm nhất cho người sống trong đất nước bị ảnh hưởng xung đột là sau khi chiến sự kết thúc; là sau khi hiệp định hòa bình được ký kết. Đó là khi các giải pháp chính trị đã đạt được. Nghe thì có vẻ ngược ngạo, nhưng tất nhiên là không phải vậy, bởi vì chiến tranh giết chết người dân bằng cách lấy đi các phòng bệnh, từ bệnh viện của họ, từ chuỗi cung ứng của họ. Các bác sĩ bị nhắm làm mục tiêu, bị giết chết; họ đang trên đường chạy. Và vô hình hơn nhưng nguy hiểm chết người hơn là sự phá hủy các thể chế quản lý y tế và tài chính của họ.
So this is really not surprising at all to me. But what is surprising and somewhat dismaying, is how little impact this insight has had, in terms of how we think about human suffering and war. Let me give you a couple examples.
Vì thế điều này không làm tôi ngạc nhiên chút nào. Nhưng điều đáng ngạc nhiên và khá thất vọng, là những hiểu biết này lại ít tạo được ảnh hưởng đến mức nào, đến cách chúng ta nghĩ về nỗi đau đớn của con người và về chiến tranh. Để tôi cho các bạn vài ví dụ.
Last year, you may remember, Ebola hit the West African country of Liberia. There was a lot of reporting about this group, Doctors Without Borders, sounding the alarm and calling for aid and assistance. But not a lot of that reporting answered the question: Why is Doctors Without Borders even in Liberia? Doctors Without Borders is an amazing organization, dedicated and designed to provide emergency care in war zones. Liberia's civil war had ended in 2003 -- that was 11 years before Ebola even struck. When Ebola struck Liberia, there were less than 50 doctors in the entire country of 4.5 million people. Doctors Without Borders is in Liberia because Liberia still doesn't really have a functioning health system, 11 years later.
Năm ngoái, có lẽ bạn còn nhớ, Ebola tấn công Liberia, phía tây Châu phi. Có rất nhiều báo cáo về nhóm 'Bác sĩ không biên giới' đã lên tiếng cảnh báo và kêu gọi viện trợ và giúp đỡ. Nhưng không có nhiều báo cáo trả lời câu hỏi: Tại sao 'Bác sĩ không biên giới' lại có cả ở Liberia? 'Bác sĩ không biên giới' là một tổ chức tuyệt vời, được cống hiến và thiết kế để cung cấp những chăm sóc khẩn cấp cho vùng chiến. Cuộc nội chiến ở Liberia đã kết thúc vào năm 2003 -- 11 năm trước khi bệnh Ebola tấn công. Khi Ebola tấn công Liberia, chỉ có dưới 50 bác sĩ trong cả nước 4.5 triệu dân. 'Bác sĩ không biên giới' ở Liberia bởi vì Liberia vẫn chưa có một hệ thống y tế hoàn chỉnh thật sự, sau 11 năm.
When the earthquake hit Haiti in 2010, the outpouring of international aid was phenomenal. But did you know that only two percent of that funding went to rebuild Haitian public institutions, including its health sector? From that perspective, Haitians continue to die from the earthquake even today.
Khi động đất xảy ra ở Haiti năm 2010, số tiền viện trợ quốc tế đổ vào là rất đáng kinh ngạc. Nhưng bạn có biết, chỉ có 2% trong số tiền viện trợ đó dùng để tái thiết lại các cơ quan công cộng của Haiti, trong đó có cả ngành y tế? Từ góc nhìn đó, người Haiti vẫn tiếp tục tử vong vì trận động đất thậm chí là ngày nay.
I recently met this gentleman. This is Dr. Nezar Ismet. He's the Minister of Health in the northern autonomous region of Iraq, in Kurdistan. Here he is announcing that in the last nine months, his country, his region, has increased from four million people to five million people. That's a 25 percent increase. Thousands of these new arrivals have experienced incredible trauma. His doctors are working 16-hour days without pay. His budget has not increased by 25 percent; it has decreased by 20 percent, as funding has flowed to security concerns and to short-term relief efforts. When his health sector fails -- and if history is any guide, it will -- how do you think that's going to influence the decision making of the five million people in his region as they think about whether they should flee that type of vulnerable living situation?
Tôi mới gặp người đàn ông này gần đây. Đây là bác sĩ Nezar Ismet. Ông là Bộ trưởng bộ Y tế ở khu tự trị phía bắc Iraq, tại Kurdistan. Tại đây, ông cho biết trong 9 tháng vừa qua, đất nước ông, khu vực của ông, dân số tăng từ bốn triệu đến năm triệu người. Tốc độ tăng là 25%. Hàng ngàn người mới đến đã trải qua những chấn thương khó tin. Các bác sĩ của ông đang làm việc 16 giờ mỗi ngày không lương. Ngân sách của ông không tăng 25%, nó giảm 20%, vì ngân sách chảy vào các mảng an ninh và nỗ lực đền bù ngắn hạn. Khi ngành y tế của ông sụp đổ - và nếu lịch sử có bất kỳ chỉ dẫn nào, nó sẽ -- bạn nghĩ nó sẽ ảnh hưởng thế nào đến quyết định của năm triệu người trong vùng của ông khi họ nghĩ về việc liệu họ có nên bỏ chạy khỏi kiểu hoàn cảnh sống nguy khó như thế này không?
So as you can see, this is a frustrating topic for me, and I really try to understand: Why the reluctance to protect and support indigenous health systems and security systems? I usually tier two concerns, two arguments. The first concern is about corruption, and the concern that people in these settings are corrupt and they are untrustworthy. And I will admit that I have met unsavory characters working in health sectors in these situations. But I will tell you that the opposite is absolutely true in every case I have worked on, from Afghanistan to Libya, to Kosovo, to Haiti, to Liberia -- I have met inspiring people, who, when the chips were down for their country, they risked everything to save their health institutions. The trick for the outsider who wants to help is identifying who those individuals are, and building a pathway for them to lead.
Như các bạn thấy, đây là một chủ đề đầy bực mình với tôi, và tôi đang thật sự muốn hiểu: Tại sao lại có sự trì trệ trong việc bảo vệ và hỗ trợ những hệ thống y tế và an ninh bản địa như thế? Tôi thường chia ra hai lớp quan tâm, hai lớp lý lẽ. Mối quan tâm đầu tiên là về sự suy đồi, người dân sống trong hoàn cảnh đó trở nên sai lạc và không đáng tin. Tôi thừa nhận rằng tôi đã gặp kẻ xấu xa làm về y tế trong những hoàn cảnh như thế. Nhưng tôi cũng sẽ nói rằng điều ngược lại cũng hoàn toàn đúng trong tất cả trường hợp tôi đã làm việc, từ Afghanistan đến Libya, Kosova, Haiti, Liberia -- Tôi đã gặp những con người đầy truyền cảm, những người, khi ngân sách quốc gia giảm sút, họ đã mạo hiểm tất cả mọi thứ để cứu lấy hệ thống y tế của mình. Mẹo cho những người ngoài cuộc muốn giúp đỡ là xác định những người đó là ai, và tạo lối đi cho họ.
That is exactly what happened in Afghanistan. One of the unsung and untold success stories of our nation-building effort in Afghanistan involved the World Bank in 2002 investing heavily in identifying, training and promoting Afghani health sector leaders. These health sector leaders have pulled off an incredible feat in Afghanistan. They have aggressively increased access to health care for the majority of the population. They are rapidly improving the health status of the Afghan population, which used to be the worst in the world. In fact, the Afghan Ministry of Health does things that I wish we would do in America. They use things like data to make policy. It's incredible.
Đó chính xác là những gì đã xảy ra ở Afghanistan. Một trong những câu chuyện chiến thắng thầm lặng trong nỗ lực xây dựng đất nước của chúng tôi ở Afghanistan liên quan đến Ngân hàng Thế giới, năm 2002 đã đầu tư rất nhiều trong việc nhận diện, đào tạo, và đẩy mạnh đội ngũ lãnh đạo ngành y tế Afghanistan. Những người lãnh đạo ngành y tế đã tạo ra một kỳ công khó tin ở Afghanistan. Họ đã nỗ lực tăng khả năng tiếp cận việc chăm sóc sức khỏe cho đại đa số dân chúng. Họ đã mau chóng cải thiện tình trạng sức khỏe của người dân Afghanistan, nơi từng có tình trạng tệ nhất thế giới. Trên thực tế, Bộ trưởng Y tế Afghanistan đã làm những điều mà tôi ước ta có thể làm ở Mỹ. Họ dùng các thứ như dữ liệu để đề ra chiến lược. Thật khó tin.
(Laughter)
(Cười)
The other concern I hear a lot about is: "We just can't afford it, we just don't have the money. It's just unsustainable." I would submit to you that the current situation and the current system we have is the most expensive, inefficient system we could possibly conceive of. The current situation is that when governments like the US -- or, let's say, the collection of governments that make up the European Commission -- every year, they spend 15 billion dollars on just humanitarian and emergency and disaster relief worldwide. That's nothing about foreign aid, that's just disaster relief. Ninety-five percent of it goes to international relief agencies, that then have to import resources into these areas, and knit together some type of temporary health system, let's say, which they then dismantle and send away when they run out of money.
Một quan tâm nữa tôi rất hay nghe là: "Chúng tôi không chi trả được, chúng tôi không có tiền. Nó không thể duy trì được." Tôi sẽ trịnh trọng công bố rằng tình trạng hiện tại và hệ thống hiện nay chúng ta có là hệ thống đắt đỏ, ít hiệu quả nhất mà chúng ta đã tạo ra. Tình trạng hiện nay là khi chính phủ, như Mỹ, hay là, một nhóm các chính phủ hình thành khối Ủy ban Châu Âu -- họ chi 15 tỉ đô mỗi năm chỉ cho các việc nhân đạo, khẩn cấp, và cứu trợ thiên tai trên thế giới. Không có gì cho việc hỗ trợ nước ngoài, chỉ cứu trợ thiên tai mà thôi. 95% trong số đó chi cho các cơ quan cứu trợ quốc tế, sau đó phải nhập khẩu nguồn lực đến các khu vực đó, và chắp vá thành một kiểu hệ thống y tế tạm thời, thứ có thể tháo dỡ và đem đi khi họ hết tiền.
So our job, it turns out, is very clear.
Thế nên công việc của chúng tôi, hóa ra, lại hết sức rõ ràng.
We, as the global health community policy experts, our first job is to become experts in how to monitor the strengths and vulnerabilities of health systems in threatened situations. And that's when we see doctors fleeing, when we see health resources drying up, when we see institutions crumbling -- that's the emergency. That's when we need to sound the alarm and wave our arms. OK? Not now. Everyone can see that's an emergency, they don't need us to tell them that.
Chúng tôi, dưới cương vị là những nhà chuyên môn về chiến lược y tế toàn cầu, công việc đầu tiên là trở nên những nhà chuyên môn trong việc theo dõi độ mạnh, yếu của hệ thống y tế trong những tình huống bị đe dọa. Đó là khi ta thấy các bác sĩ tháo chạy, khi ta thấy nguồn lực y tế cạn kiệt, khi ta thấy các cơ quan sụp đổ -- đó là tình trạng khẩn cấp. Đó là khi chúng ta cần gióng chuông cảnh báo và vẫy tay ra hiệu. Ok? Không phải bây giờ. Tất cả mọi người đều có thể thấy được tình trạng khẩn cấp mà không cần phải nói.
Number two: places like where I work at Harvard need to take their cue from the World Bank experience in Afghanistan, and we need to -- and we will -- build robust platforms to support health sector leaders like these. These people risk their lives. I think we can match their courage with some support.
Thứ hai: những nơi như nơi tôi làm việc ở Harvard cần phải làm theo kinh nghiệm của Ngân hàng Thế giới ở Afghanistan, chúng ta phải -- và chúng ta sẽ -- xây dựng nền tảng vững chắc để hỗ trợ các nhà lãnh đạo ngành y tế như họ. Họ đang mạo hiểm tính mạng. Tôi nghĩ chúng ta cần hỗ trợ lòng can đảm của họ.
Number three: we need to reach out and make new partnerships. At our global health center, we have launched a new initiative with NATO and other security policy makers to explore with them what they can do to protect health system institutions during deployments. We want them to see that protecting health systems and other critical social institutions is an integral part of their mission. It's not just about avoiding collateral damage; it's about winning the peace.
Thứ ba: chúng ta phải vươn ra và tạo lập các mối quan hệ mới. Tại trung tâm y tế thế giới, chúng tôi làm một cuộc khởi xướng mới với NATO và các nhà chiến lược an ninh khác để cùng với họ tìm ra điều họ cần làm để bảo vệ các cơ quan y tế trong suốt thời gian triển khai. Chúng tôi muốn họ thấy việc bảo vệ hệ thống y tế và các cơ quan xã hội cấp thiết khác là một phần không thể tách rời trong sứ mạng của họ. Nó không chỉ là về việc tránh thêm thiệt hại, mà còn là thiết lập hòa bình.
But the most important partner we need to engage is you, the American public, and indeed, the world public. Because unless you understand the value of social institutions, like health systems in these fragile settings, you won't support efforts to save them. You won't click on that article that talks about "Hey, all those doctors are on the run in country X. I wonder what that means. I wonder what that means for that health system's ability to, let's say, detect influenza." "Hmm, it's probably not good." That's what I'd tell you.
Nhưng cộng tác viên quan trọng nhất chúng tôi cần giành lấy là các bạn, công chúng Mỹ, và thật ra là công chúng quốc tế. Bởi vì nếu bạn không hiểu được giá trị của các cơ quan xã hội, như hệ thống y tế khi ở hoàn cảnh bấp bênh như thế, bạn sẽ không nỗ lực để cứu lấy chúng. Bạn sẽ không click vào bài báo nói về việc "Hey, tất cả các bác sĩ đang trốn chạy ở nước X. Tôi tự hỏi điều đó có nghĩa là gì. Tôi tự hỏi điều đó có nghĩa gì đối với khả năng của cơ quan y tế, kiểu như, phát hiện ra dịch cúm." "Hmm, điều đó có lẽ không tốt." Đó là điều tôi sẽ nói bạn nghe.
Up on the screen, I've put up my three favorite American institution defenders and builders. Over here is George C. Marshall, he was the guy that proposed the Marshall Plan to save all of Europe's economic institutions after World War II. And this Eleanor Roosevelt. Her work on human rights really serves as the foundation for all of our international human rights organizations. Then my big favorite is Ben Franklin, who did many things in terms of creating institutions, but was the midwife of our constitution.
Trên màn hình, tôi đưa ra ba người bảo vệ và xây dựng cơ quan Mỹ mà tôi yêu thích. Đằng đó là George C. Marshall, ông ấy là người đã đề xuất ra kế hoạch Marshall Plan để cứu tất cả các cơ quan kinh tế của Châu Âu sau Chiến tranh Thế giới II. Và đây là Eleanor Roosevelt. Hoạt động của bà về quyền con người đã đóng vai trò như nền tảng của tất cả các cơ quan nhân quyền quốc tế. Nhân vật tôi rất yêu thích, Ben Franklin, người đã làm rất nhiều điều để xây dựng các cơ quan chức năng, nhưng lại là 'bà mụ' của nền hiến pháp nước Mỹ.
And I would say to you that these are folks who, when our country was threatened, or our world was threatened, they didn't retreat. They didn't talk about building walls. They talked about building institutions to protect human security, for their generation and also for ours. And I think our generation should do the same.
Tôi sẽ nói với các bạn rằng những người này, khi đất nước của chúng ta đang bị đe dọa, hay thế giới của chúng ta bị đe dọa, họ đã không lùi bước. Họ đã không bàn về việc xây dựng những bức tường. Họ bàn về việc xây dựng những cơ quan để bảo vệ sự an toàn của con người, cho thế hệ của họ và cũng là cho thế hệ chúng ta. Và tôi nghĩ thế hệ chúng ta cũng nên làm điều như thế.
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)