OK, so today I want to talk about how we talk about love. And specifically, I want to talk about what's wrong with how we talk about love.
OK, vậy là hôm nay tôi muốn trao đổi cách chúng ta nói về tình yêu. và cụ thể là, tôi muốn nói đến sai lầm về cách nói về tình yêu.
Most of us will probably fall in love a few times over the course of our lives, and in the English language, this metaphor, falling, is really the main way that we talk about that experience. I don't know about you, but when I conceptualize this metaphor, what I picture is straight out of a cartoon -- like there's a man, he's walking down the sidewalk, without realizing it, he crosses over an open manhole, and he just plummets into the sewer below. And I picture it this way because falling is not jumping. Falling is accidental, it's uncontrollable. It's something that happens to us without our consent. And this -- this is the main way we talk about starting a new relationship.
Hầu hết chúng ta sẽ có thể rơi vào lưới tình một vài lần trong suốt cả quãng đời, và trong tiếng Anh, ẩn dụ này, là "falling" - rơi vào, thực sự là cách chủ yếu để ta nói về trải nghiệm ấy. Không bạn nghĩ thế nào nhưng khi tôi dùng ẩn dụ này, cái mà tôi hình dung ra là một bộ phim hoạt hình kiểu có 1 người đàn ông, anh ta đang đi bộ trên vỉa hè, mà không nhận ra rằng, anh ta đang băng qua 1 hố ga mở nắp và anh ta rơi xuống cái cống bên dưới Tôi hình dung tình yêu theo cách này vì falling chứ không (jumping) nhảy lên. Falling là một sự tình cờ, nó không thể kiểm soát được. Đó là thứ xảy ra mà không có sự đồng ý của ta. Và điều này -- là cách chủ yếu để chúng ta nói về việc bắt đầu một mối quan hệ mới.
I am a writer and I'm also an English teacher, which means I think about words for a living. You could say that I get paid to argue that the language we use matters, and I would like to argue that many of the metaphors we use to talk about love -- maybe even most of them -- are a problem.
Tôi là một nhà văn và cũng là một giáo viên tiếng Anh, nghĩa là tôi dùng ngôn từ để kiếm sống Bạn có thể nói rằng tôi được trả tiền để tranh luận về chủ đề ngôn ngữ ta dùng, và tôi muốn chỉ ra rằng rất nhiều ẩn dụ chúng ta sử dụng để nói về tình yêu -- thậm chí hầu hết chúng -- là mớ rắc rối.
So, in love, we fall. We're struck. We are crushed. We swoon. We burn with passion. Love makes us crazy, and it makes us sick. Our hearts ache, and then they break. So our metaphors equate the experience of loving someone to extreme violence or illness.
Vậy thì, chúng ta rơi vào lưới tình. Chúng ta bị tấn công. Chúng ta bị nghiền nát. Chúng ta ngất lịm đi. Chúng ta bùng cháy với đam mê. Tình yêu làm chúng ta điên cuồng, và nó làm chúng ta bệnh. Trái tim ta đau, và sau đó tan vỡ. Vì vậy những ẩn dụ của chúng ta ngang với trải nghiệm yêu một người đến bạo lực cực đoạn hay bạo bệnh.
(Laughter)
(Tiếng cười)
They do. And they position us as the victims of unforeseen and totally unavoidable circumstances. My favorite one of these is "smitten," which is the past participle of the word "smite." And if you look this word up in the dictionary --
Chúng như thế đấy. Và chúng đặt ta vào vị thế là nạn nhân ở tình huống bất ngờ và không thể tránh khỏi. Một trong những từ yêu thích của tôi là "say mê" (smitten) quá khứ phân của từ của "smite" Và nếu bạn tìm kiếm từ này trong từ điển --
(Laughter)
(tiếng cười)
you will see that it can be defined as both "grievous affliction," and, "to be very much in love." I tend to associate the word "smite" with a very particular context, which is the Old Testament. In the Book of Exodus alone, there are 16 references to smiting, which is the word that the Bible uses for the vengeance of an angry God.
bạn sẽ thấy rằng nó được định nghĩa là "nỗi khổ đau thương" và, "yêu rất nhiều". Tôi thử kết hợp từ "say mê" (smite) với những ngữ cảnh riêng biệt, trong kinh Cựu ước. Trong Sách Xuất Hành, có đến 16 trích dẫn của từ smite là từ được Kinh thánh dùng để chỉ sự trả thù của 1 vị thần giận dữ.
(Laughter)
(tiếng cười)
Here we are using the same word to talk about love that we use to explain a plague of locusts.
Ở đây chúng ta đang sử dụng cùng 1 từ để nói về tình yêu cái mà ta dùng để giải thích cho nạn dịch châu chấu.
(Laughter)
(tiếng cười)
Right?
Phải không nào?
So, how did this happen? How have we come to associate love with great pain and suffering? And why do we talk about this ostensibly good experience as if we are victims? These are difficult questions, but I have some theories. And to think this through, I want to focus on one metaphor in particular, which is the idea of love as madness.
Vậy thì, điều này đã diễn ra thế nào? Làm thế nào chúng ta liên hệ tình yêu với nỗi đau khổ vĩ đại? Vi sao ta nói về kinh nghiệm hay về tình yêu 1 cách mạo nhận này như thể chúng ta là nạn nhân? Đó là những câu hỏi khó, nhưng tôi có vài giả thuyết. Và để suy nghĩ thấu đáo cụ thể, tôi muốn dựa trên một phép ẩn dụ ý tưởng về tình yêu như 1 cơn điên dại.
When I first started researching romantic love, I found these madness metaphors everywhere. The history of Western culture is full of language that equates love to mental illness. These are just a few examples. William Shakespeare: "Love is merely a madness," from "As You Like It." Friedrich Nietzsche: "There is always some madness in love." "Got me looking, got me looking so crazy in love -- "
Khi tôi lần đầu thực hiện nghiên cứu tình yêu lãng mạn, tôi thấy rằng những phép ẩn dụ điên rồ ở khắp mọi nơi. Lịch sử văn hóa phương Tây đầy những ngôn ngữ đánh đồng tình yêu với bệnh tâm thần. Đây là một vài ví dụ. William Shakespeare: "Yêu thực ra là rồ dại." trong "As You Like It." Friedrich Nietzsche: "Luôn có sự điên rồ trong tình yêu" "Làm tôi trông thật điên dại khi yêu--"
(Laughter)
(tiếng cười)
from the great philosopher, Beyoncé Knowles.
từ nhà triết học vĩ đại, Beyoncé Knowles.
(Laughter)
(tiếng cười)
I fell in love for the first time when I was 20, and it was a pretty turbulent relationship right from the start. And it was long distance for the first couple of years, so for me that meant very high highs and very low lows. I can remember one moment in particular. I was sitting on a bed in a hostel in South America, and I was watching the person I love walk out the door. And it was late, it was nearly midnight, we'd gotten into an argument over dinner, and when we got back to our room, he threw his things in the bag and stormed out. While I can no longer remember what that argument was about, I very clearly remember how I felt watching him leave.
Tôi yêu lần đầu tiên khi 20 tuổi, và nó là một mối quan hệ hỗn loạn ngay từ khi bắt đầu. Đó là 1 khoảng cách dài trong vài năm đầu tiên, vì vậy với tôi nó nghĩa là rất thăng và rất trầm. Tôi có thể nhớ được 1 khoảnh khắc cụ thể Lúc đó tôi đang ngồi trên giường trong một khách sạn ở Nam Mỹ, và tôi đang nhìn người tôi yêu bước ra khỏi cửa. Và trời đã muộn rồi, gần như là nửa đêm, chúng tôi đã tranh cãi suốt bữa tối, và khi chúng tôi về phòng, anh ấy ném đồ vào ba lô và lao ra ngoài. Trong khi tôi không còn nhớ được là đã tranh cãi cái gì, tôi lại nhớ rất rõ ràng mình thấy thế nào khi anh ấy bỏ đi.
I was 22, it was my first time in the developing world, and I was totally alone. I had another week until my flight home, and I knew the name of the town that I was in, and the name of the city that I needed to get to to fly out, but I had no idea how to get around. I had no guidebook and very little money, and I spoke no Spanish.
Tôi mới 22 tuổi, đó là lần đầu tiên tôi ở một nước đang phát triển, và tôi hoàn toàn đơn độc. Tôi còn 1 tuần cho đến tận chuyến bay về nhà và tôi biết tên thị trấn nơi tôi đang ở và tên thành phố mà tôi cần đến để bay đi, nhưng tôi không biết làm sao để di chuyển. Tôi không có sách hướng dẫn và chỉ còn ít tiền và tôi không biết tiếng Tây Ban Nha
Someone more adventurous than me might have seen this as a moment of opportunity, but I just froze. I just sat there. And then I burst into tears. But despite my panic, some small voice in my head thought, "Wow. That was dramatic. I must really be doing this love thing right."
Ai đó thích phiêu lưu hơn tôi có lẽ sẽ coi đây là 1 khoảnh khắc của cơ hội, nhưng tôi chỉ thấy ớn lạnh. Tôi chỉ ngồi đó. Và sau đó tôi trào nước mắt. Mặc dù hoảng sợ, một giọng nói nhỏ lướt qua trong đầu tôi, "Wow. Thật là kịch tính. Mình thực sự phải làm tình yêu này trở nên đúng đắn."
(Laughter)
(tiếng cười)
Because some part of me wanted to feel miserable in love. And it sounds so strange to me now, but at 22, I longed to have dramatic experiences, and in that moment, I was irrational and furious and devastated, and weirdly enough, I thought that this somehow legitimized the feelings I had for the guy who had just left me.
Bởi vì 1 phần trong tôi muốn cảm thấy khổ sở trong tình yêu. Và nó nghe rất lạ với tôi bây giờ, nhưng ở tuổi 22, tôi khao khát có những trải nghiệm ấn tượng, và vào thời điểm đó, tôi rất vô lí, giận dữ và hoang tàn và đủ kì quặc, tôi nghĩ rằng điều này bằng cách nào đó đã hợp thức hóa cảm xúc tôi có với người vừa mới rời bỏ tôi.
I think on some level I wanted to feel a little bit crazy, because I thought that that was how love worked. This really should not be surprising, considering that according to Wikipedia, there are eight films, 14 songs, two albums and one novel with the title "Crazy Love."
Tôi nghĩ là ở mức độ nào đó tôi muốn cảm thấy điên rồ 1 tí, vì tôi nghĩ rằng đó là cách tình yêu hoạt động. Điều này thực ra không mấy ngạc nhiên, theo Wikipedia, có 8 bộ phim, 14 bài hát, 2 album và 1 tiểu thuyết có tựa đề "Điên tình" (Crazy Love)
About half an hour later, he came back to our room. We made up. We spent another mostly happy week traveling together. And then, when I got home, I thought, "That was so terrible and so great. This must be a real romance." I expected my first love to feel like madness, and of course, it met that expectation very well. But loving someone like that -- as if my entire well-being depended on him loving me back -- was not very good for me or for him.
Khoảng nửa giờ sau, anh ta quay lại phòng của chúng tôi. Chúng tôi làm hòa. Chúng tôi đã dành gần như cả tuần hạnh phúc du lịch cùng nhau. Và sau đó, khi về đến nhà, tôi nghĩ, "Nó thật khủng khiếp và tuyệt vời. Đây phải là sự lãng mạn thực sự." Tôi mong chờ tình đầu để cảm thấy như điên dại, và tất nhiên, nó đáp ứng mong đợi này rất tốt. Nhưng khi yêu ai đó như thế -- như thể mọi hạnh phúc của tôi phụ thuộc vào việc anh ấy yêu tôi -- không phải rất tốt cho tôi hoặc cho anh ấy.
But I suspect this experience of love is not that unusual. Most of us do feel a bit mad in the early stages of romantic love. In fact, there is research to confirm that this is somewhat normal, because, neurochemically speaking, romantic love and mental illness are not that easily distinguished. This is true.
Nhưng tôi ngờ rằng trải nghiệm tinh yêu này không phải là bất thường. Hầu hết ta cảm thấy có chút điên ở giai đoạn đầu của tình yêu lãng mạn. Trên thực tế, có 1 nghiên cứu xác nhận rằng điều này là bình thường, bởi vì, nói như hóa học thần kinh, tình yêu lãng mạn và bệnh tâm thần không dễ gì phân biệt được. Điều đó là thật.
This study from 1999 used blood tests to confirm that the serotonin levels of the newly in love very closely resembled the serotonin levels of people who had been diagnosed with obsessive-compulsive disorder.
Nghiên cứu này từ năm 1999 đã sử dụng các xét nghiệm máu để thấy rằng mức độ serotonin khi mới yêu rất tương tự với mức serotonin của người được chẩn đoán là mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế.
(Laughter)
(tiếng cười)
Yes, and low levels of serotonin are also associated with seasonal affective disorder and depression. So there is some evidence that love is associated with changes to our moods and our behaviors. And there are other studies to confirm that most relationships begin this way.
Vâng, và mức độ thấp của serotonin cũng được liên tưởng với bệnh trầm cảm theo mùa và bệnh trầm cảm. Vậy nên có 1 vài bằng chứng chỉ ra tình yêu được liên kết với những thay đổi tâm trạng và hành vi của ta. Và có những nghiên cứu khác chứng minh rằng hầu hết các mối quan hệ đều bắt đầu theo cách này.
Researchers believe that the low levels of serotonin is correlated with obsessive thinking about the object of love, which is like this feeling that someone has set up camp in your brain. And most of us feel this way when we first fall in love. But the good news is, it doesn't always last that long -- usually from a few months to a couple of years.
Các nhà nghiên cứu tin rằng mức độ thấp của serotonin tương quan với suy nghĩ ám ảnh về đối tượng của tình yêu, giống như cảm giác ai đó dựng trại trong não bạn. Và hầu hết chúng ta cảm nhận theo cách này khi yêu lần đầu. Nhưng tin tốt là, nó không kéo dài lâu đâu -- thường thì chỉ 1 vài tháng cho đến vài năm.
When I got back from my trip to South America, I spent a lot of time alone in my room, checking my email, desperate to hear from the guy I loved. I decided that if my friends could not understand my grievous affliction, then I did not need their friendship. So I stopped hanging out with most of them. And it was probably the most unhappy year of my life. But I think I felt like it was my job to be miserable, because if I could be miserable, then I would prove how much I loved him. And if I could prove it, then we would have to end up together eventually.
Khi tôi trở về từ chuyến đi Nam Mỹ, tôi dành rất nhiều thời gian 1 mình trong phòng, kiểm tra email, khao khát nghe tiếng của người tôi yêu. Tôi đã quyết định rằng nếu bạn bè tôi không thể hiểu nỗi đau khổ của mình thì tôi cũng chẳng cần tình bạn đấy nữa. Vì vậy tôi ngừng đi chơi với hầu hết bạn bè. Và đó có lẽ là năm bất hạnh nhất đời tôi. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi thấy giống như việc của mình là phải đau khổ, bởi nếu tôi có thể đau khổ tôi sẽ chứng minh rằng tôi yêu anh ấy biết bao nhiêu. Và nếu tôi có thể chứng minh điều đó chúng tôi cuối cùng sẽ ở bên nhau.
This is the real madness, because there is no cosmic rule that says that great suffering equals great reward, but we talk about love as if this is true.
Đây thực là sự điên rồ, bởi lẽ không có quy luật vũ trụ nào nói rằng cứ đau khổ nhiều thì sẽ nhận được thành quả tốt đẹp, nhưng chúng ta nói về tình yêu như thể điều này là đúng vậy.
Our experiences of love are both biological and cultural. Our biology tells us that love is good by activating these reward circuits in our brain, and it tells us that love is painful when, after a fight or a breakup, that neurochemical reward is withdrawn. And in fact -- and maybe you've heard this -- neurochemically speaking, going through a breakup is a lot like going through cocaine withdrawal, which I find reassuring.
Trải nghiệm tình yêu của chúng ta là cả về sinh học và văn hóa. Sinh học nói với chúng ta rằng tình yêu là điều tốt bằng cách kích hoạt vùng não tưởng thưởng trong não chúng ta, sau 1 mâu thuẫn hay chia tay, tình yêu là đau khổ khi, phần tưởng thưởng hóa học thần kinh bị thu hồi Và trên thực tế -- có thể bạn đã từng nghe điều này nói theo hóa học thần kinh, việc trải qua chuyện chia tay giống như quá trình cai nghiện vậy, cái này làm tôi thấy yên tâm đấy.
(Laughter)
(tiếng cười)
And then our culture uses language to shape and reinforce these ideas about love. In this case, we're talking about metaphors about pain and addiction and madness. It's kind of an interesting feedback loop. Love is powerful and at times painful, and we express this in our words and stories, but then our words and stories prime us to expect love to be powerful and painful.
Và sau đó văn hóa của chúng ta sử dụng ngôn ngữ để định hình và củng cố những ý tưởng về tình yêu. Trong trường hợp này, ta nói về ẩn dụ về sự đau khổ sự say mê và điên rồ. Đó là 1 vòng phản hồi thú vị. Tình yêu mạnh mẽ có lúc lại đau đớn, và ta thể hiện điều này trong ngôn từ và những câu chuyện, nhưng rồi ngôn từ và những câu chuyện khiến chúng ta mong đợi tình yêu là mạnh mẽ và đau khổ.
What's interesting to me is that all of this happens in a culture that values lifelong monogamy. It seems like we want it both ways: we want love to feel like madness, and we want it to last an entire lifetime. That sounds terrible.
Điều thú vị với tôi là tất cả những điều này diễn ra trong nền văn hóa đề cao giá trị 1 vợ 1 chồng suốt đời. Có vẻ như chúng ta muốn nó theo cả 2 cách: chúng ta muốn tình yêu để thấy như điên rồ và chúng ta muốn nó kéo dài cả đời. Nghe kinh khủng thật.
(Laughter)
(tiếng cười)
To reconcile this, we need to either change our culture or change our expectations. So, imagine if we were all less passive in love. If we were more assertive, more open-minded, more generous and instead of falling in love, we stepped into love. I know that this is asking a lot, but I'm not actually the first person to suggest this. In their book, "Metaphors We Live By," linguists Mark Johnson and George Lakoff suggest a really interesting solution to this dilemma, which is to change our metaphors. They argue that metaphors really do shape the way we experience the world, and that they can even act as a guide for future actions, like self-fulfilling prophecies.
Để hòa hợp điều này, chúng ta cần sự thay đổi trong văn hóa hoặc trong mong đợi của chúng ta. Vậy nên, tưởng tượng nếu tất cả chúng ta ít thụ động hơn trong tình yêu. Nếu chúng ta quyết đoán hơn, cởi mở hơn, rộng lượng hơn và thay vì rơi vào tình yêu, chúng ta bước vào tình yêu. Tôi biết điều này yêu cầu rất nhiều thứ, nhưng tôi không phải là người đầu tiên gợi ý điều này. Trong cuốn "Chúng ta sống trong ẩn dụ" nhà ngôn ngữ Mark Johnson và George Lakoff gợi ý một giải pháp thực sự thú vị cho tình trạng khó xử này, đó là thay đổi ẩn dụ của chúng ta. Họ chỉ ra rằng các ẩn dụ thực sự định hình cách ta trải nghiệm thế giới, và chúng thậm còn hoạt động như 1 chỉ dẫn cho hành động trong tương lai, như lời tiên đoán tự trở thành sự thực.
Johnson and Lakoff suggest a new metaphor for love: love as a collaborative work of art. I really like this way of thinking about love. Linguists talk about metaphors as having entailments, which is essentially a way of considering all the implications of, or ideas contained within, a given metaphor. And Johnson and Lakoff talk about everything that collaborating on a work of art entails: effort, compromise, patience, shared goals. These ideas align nicely with our cultural investment in long-term romantic commitment, but they also work well for other kinds of relationships -- short-term, casual, polyamorous, non-monogamous, asexual -- because this metaphor brings much more complex ideas to the experience of loving someone.
Johnson và Lakoff gợi ý 1 ẩn dụ mới cho tình yêu: tình yêu là 1 tác phẩm nghệ thuật cộng tác. Tôi thực sự thích cách nghĩ này về tình yêu. Linguists nói về ẩn dụ có sự kế thừa, là 1 cách để xem xét tất cả những hàm ý hay ý tưởng ẩn chứa bên trong 1 ẩn dụ cho trước. Và Johnson và Lakoff nói về mọi thứ mà sự cộng tác trong tác phẩm nghệ thuật đòi hỏi: sự nỗ lực, thỏa hiệp, kiên nhẫn, có chung mục đích. Những ý tưởng này sắp xếp một cách thú vị với sự đầu tư văn hóa của ta trong cam kết lãng mạn lâu dài, nhưng chúng cũng làm việc tốt với những mối quan hệ kiểu khác -- ngắn hạn, thất thường, quan hệ đa ái, không 1 vợ 1 chồng, vô tính -- bởi vì ẩn dụ này mang lại nhiều ý tưởng phức tạp hơn cho trải nghiệm yêu 1 ai đó.
So if love is a collaborative work of art, then love is an aesthetic experience. Love is unpredictable, love is creative, love requires communication and discipline, it is frustrating and emotionally demanding. And love involves both joy and pain. Ultimately, each experience of love is different.
Vì vậy nếu tình yêu là tác phẩm nghệ thuật cộng tác, thì tình yêu là 1 trải nghiệm mang tính thẩm mỹ. Tình yêu là không thể nói trước được, tình yêu là sáng tạo, tình yêu đòi hỏi sự giao tiếp và kỉ luật. nó làm vỡ mộng và đòi hỏi khắc khe về cảm xúc. Và tình yêu liên quan cả niềm vui và nỗi đau. Sau cùng thì, mỗi trải nghiệm về tình yêu đều khác nhau.
When I was younger, it never occurred to me that I was allowed to demand more from love, that I didn't have to just accept whatever love offered. When 14-year-old Juliet first meets -- or, when 14-year-old Juliet cannot be with Romeo, whom she has met four days ago, she does not feel disappointed or angsty. Where is she? She wants to die. Right? And just as a refresher, at this point in the play, act three of five, Romeo is not dead. He's alive, he's healthy, he's just been banished from the city. I understand that 16th-century Verona is unlike contemporary North America, and yet when I first read this play, also at age 14, Juliet's suffering made sense to me.
Khi tôi còn trẻ, sẽ không bao xảy ra chuyện tôi được phép yêu cầu nhiều hơn từ tình yêu, tôi đã không chỉ chấp nhận bất cứ điều gì tình yêu đưa ra. Khi Juliet 14 tuổi lần đầu gặp -- hoặc khi Juliet 14 tuổi không thể ở bên Romeo, người mà cô mới gặp cách đây 4 hôm, cô ấy không thấy thất vọng hay sợ hãi. Cô ấy ở đâu? Cô ấy muốn chết. Phải không nào? Và như 1 sự nhắc lại, vào thời điểm này của vở kịch, hồi 3 cảnh 5, Romeo vẫn chưa chết. Cậu ta vẫn sống, cậu vẫn khỏe mạnh, cậu chỉ là bị xua đuổi khỏi thành phố. Tôi hiểu ra rằng thành Verona thế kỉ 16 không giống như Nam Mỹ bây giờ, và khi tôi đọc vở kịch này lần đầu, cũng ở tuổi 14, nỗi đau khổ của Juliet rất có ý nghĩa với tôi.
Reframing love as something I get to create with someone I admire, rather than something that just happens to me without my control or consent, is empowering. It's still hard. Love still feels totally maddening and crushing some days, and when I feel really frustrated, I have to remind myself: my job in this relationship is to talk to my partner about what I want to make together. This isn't easy, either. But it's just so much better than the alternative, which is that thing that feels like madness.
Định hình lại tình yêu là điều nhận được để sáng tạo với người tôi ngưỡng mộ, hơn là 1 điều chỉ xảy ra với tôi mà không có sự kiểm soát hay chấp thuận của tôi, là sức mạnh. Điều đó vẫn khó khăn. Tình yêu vẫn thấy hoàn toàn điên rồ và đè nén 1 vài ngày , và khi tôi thấy thực sự thất vọng, tôi nhắc nhở chính mình: việc của tôi trong mối quan hệ này là nói với nửa kia về điều tôi muốn làm cùng nhau. Điều này cũng không dễ dàng. Nhưng nó chỉ là tốt hơn rất nhiều so với việc lựa chọn điều mà cảm thấy như sự điên rồ.
This version of love is not about winning or losing someone's affection. Instead, it requires that you trust your partner and talk about things when trusting feels difficult, which sounds so simple, but is actually a kind of revolutionary, radical act. This is because you get to stop thinking about yourself and what you're gaining or losing in your relationship, and you get to start thinking about what you have to offer. This version of love allows us to say things like, "Hey, we're not very good collaborators. Maybe this isn't for us." Or, "That relationship was shorter than I had planned, but it was still kind of beautiful."
Phiên bản này của tình yêu không là việc thắng hay thua tình cảm của ai đó. Thay vào đó, nó yêu cầu bạn tin tưởng nửa kia của bạn và nói về mọi thứ khi việc tin tưởng trở nên khó khăn, điều này nghe rất đơn giản, nhưng đây thực sự là 1 kiểu cách mạng, hành động cấp tiến. Đó là bởi bạn dừng việc nghĩ về bản thân và cái bạn được hay mất trong mối quan hệ, và bạn bắt đầu nghĩ về cái bạn phải cho đi. Phiên bản này của tình yêu cho phép chúng ta nói điều như thế, "Này, chúng ta không phải là cộng sự tốt. Có lẽ điều này không dành cho chúng ta." Hay, "Quan hệ này ngắn ngủi hơn tôi dự tính, nhưng nó vẫn là điều gì đó tốt đẹp."
The beautiful thing about the collaborative work of art is that it will not paint or draw or sculpt itself. This version of love allows us to decide what it looks like.
Điều tốt đẹp về tác phẩm nghệ thuật cộng tác là nó sẽ không sơn, vẽ hay chạm trổ chính nó. Phiên bản này của tình yêu cho phép chúng ta quyết định nó trông thế nào.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(tiếng vỗ tay)