Whitney Pennington Rodgers: Each of us, no matter who we are, have dreams for ourselves. and all of us also have fears. Luvvie Ajayi Jones has spent lots of time thinking about the intersection of these two things, namely, how you can overcome your fears to accomplish your dreams. Here to break this all down for us is Luvvie Ajayi Jones. Welcome, Luvvie.
Whitney Pennington Rodgers: Mỗi chúng ta, bất kể là ai, đều có ước mơ cho mình, và cũng đều có những nỗi sợ. Luvvie Ajayi Jones đã dành nhiều thời gian để nghĩ về mối tương giao giữa hai điều này, tức là, làm sao để bạn có thể vượt qua nỗi sợ của mình để đạt được ước mơ. Luvvie Ajayi Jones đã ở đây để giải thích tất cả những điều này cho chúng ta. Chào mừng Luvvie. LAJ: Xin chào!
Luvvie Ajayi Jones: Hi!
WPR: Chào Luvvie. Cô khỏe chứ?
WPR: Hi, Luvvie. How are you doing?
LAJ: Tôi khỏe. Tôi khỏe.
LAJ: Doing well. Doing well.
WPR: Sao cô lại dùng từ “kẻ gây rối chuyên nghiệp”
WPR: Why do you use the term "professional troublemaker" to describe yourself? Why is that sort of the term that you've landed on to define what you are, who you are?
để miêu tả bản thân? Tại sao đó là kiểu thuật ngữ mà cô đã sử dụng để định nghĩa cô là gì và là ai?
LAJ: Yeah. You know, some of us have been called troublemakers growing up. When you are too loud in the class or, you know, your mom tells you to eat vegetables and you say no, and you're like, you're a troublemaker. I want to reclaim what that means. I think about the late, great John Lewis, who said we have to be ready to make necessary trouble, good trouble, and really was the lens of: we are going to have to do things that are going to disrupt the status quo in this world. If we're going to do anything of impact and of note and make any type of positive change, we are going to have to "make trouble." And making trouble is not about being a contrarian randomly. It's not about being a troll. It's not just simply because you want to make people uncomfortable. It's that, often, when you are the person who thinks different from everybody else in the room, it does feel like trouble. You know, when you are not going along with the group, it feels like trouble. But sometimes, it's actually what you need to do to not just honor yourself, but honor the world and honor who you want to be. So if making trouble looks like we actually end up being better off for it, then we have to make trouble. I think it's an obligation for us to make trouble, the type that leaves our kids better, that leaves the rooms that we are in elevated, the types that lets us be proud of ourselves.
LAJ: À. Cô biết đó, vài người trong chúng ta lớn lên đã bị gọi là kẻ gây rối. Khi cô quá ồn trong lớp học, hay, cô biết đó, mẹ cô bảo cô ăn rau quả, nhưng cô từ chối, và cô như thể là kẻ gây rắc rối. Tôi muốn thay đổi ý nghĩa của cụm từ đó. Tôi nghĩ về John Lewis vĩ đại, ông bảo rằng ta cần sẵn sàng gây ra những rắc rối cần thiết và tốt đẹp, và khai sáng sự thật rằng chúng ta phải làm những việc sẽ phá vỡ hiện trạng của thế giới này. Nếu ta định làm bất cứ điều gì có tác động và đáng chú ý và tạo ra thay đổi tích cực, thì ta sẽ phải “gây rắc rối”. Và gây rắc rối không chỉ là ngẫu hứng đi ngược với số đông. Hay là chọc phá người khác. Nó không chỉ đơn giản là cô muốn làm người khác khó chịu. Mà thường là, khi cô là người nghĩ khác biệt so với mọi người trong phòng, việc đó như thể là rắc rối. Cô biết đó, khi cô không hòa hợp với nhóm sẽ mang lại cảm giác như rắc rối vậy. Nhưng đôi khi, đó chính là việc cô cần làm không chỉ để tôn trọng bản thân, mà còn là tôn trọng thế giới và con người cô muốn trở thành. Vậy nên nếu việc gây rắc rối khiến ta trở nên tốt hơn, ta phải tạo ra rắc rối. Tôi nghĩ chúng ta có nghĩa vụ tạo ra rắc rối, kiểu rắc rối giúp con trẻ của ta trở nên tốt hơn, hoặc khiến những cuộc họp mà ta tham gia có tiến triển, hoặc khiến chúng ta tự hào.
Now, making trouble will not always go well, right? Let's keep -- I'm going to say that. It's not that when you speak the truth, somebody's going to always receive it properly. But you go to bed knowing that you at least tried, as opposed to saying, "What if I had tried?" It's a life of, "Oh, well," then "What if?" So I think that's why professional troublemaking is something that we should be proud of.
Gây rắc rối không phải lúc nào cũng tốt nhỉ? Cứ tiếp tục-- Tôi nói thành thật luôn. Không phải lúc nào cô nói sự thật, người ta cũng sẽ tử tế đón nhận. Nhưng khi đi ngủ, cô biết rằng ít nhất mình cũng đã cố gắng, thay vì phải nói: “Lúc đó mà mình cố gắng thì sao nhỉ?” Cuộc sống sẽ chỉ có “À thì” và rồi “Nếu như?” Đó là lý do tôi nghĩ gây rối chuyên nghiệp là một điều đáng tự hào.
WPR: So I know everyone is dying to know: How how do I become a professional troublemaker? You outlined this in your book. You talk a little bit about it in your talk. But I know there are three big things that you think you need to do to approach this idea of becoming a troublemaker. Will you share a little bit about that with us?
WPR: Tôi nghĩ mọi người đang rất muốn biết: Làm sao để trở thành kẻ gây rối chuyên nghiệp? Cô đã đề cập trong cuốn sách. Và cũng đề cập một tí trong buổi trò chuyện. Nhưng tôi biết có ba điều quan trọng mà cô nghĩ là cần thiết để tiến tới ý tưởng trở thành kẻ gây rối này. Cô có thể chia sẻ với chúng tôi không?
LAJ: Yes. So when you are in the room, and somebody says something that is not a great idea -- we've all been in meetings like that, where a campaign idea was brought forth or a slogan or just something, and you're just like, "Oof," but everybody else in the room is like, "This is a great idea! We love it! Yes, let's do it!" And usually you feel like you're standing on an island by yourself, because you're like, "If I'm the only person that has a problem with it, am I the problem?" So then oftentimes, we'll be quiet, the room will dissipate, we walk out, and we keep thinking about that moment, and we keep saying, "Should I have said something?" I don't like the feeling of thinking, "Should I have said something?" Because I'll sit on it, and I'll overthink it, and I'll think about it the day after, and I'll be like, "I should have said something."
LAJ: Vâng. Khi cô ở trong phòng họp, và có người nêu lên một ý tưởng không hay-- chúng ta đều đã trải qua các cuộc họp như vậy, khi mà ý tưởng chiến dịch, khẩu hiệu hoặc thứ gì đó được đưa ra, và cô như kiểu, “Ối,” nhưng những người khác lại khen “Đây là một ý tưởng hay! Chúng tôi yêu nó! Tiến hành thôi!” Thường thì cô sẽ cảm giác như thể mình đang lạc lõng trên một hòn đảo, vì cô như kiểu “Nếu chỉ có mình thấy nó có vấn đề, vậy mình chính là vấn đề nhỉ?” Nên thường, sau đó ta sẽ im lặng, cả phòng rời đi, ta cũng sẽ bước ra và tiếp tục nghĩ về khoảnh khắc đó, và ta tự hỏi, “Lẽ ra mình nên nói gì đó nhỉ?” Tôi không thích cảm giác cứ suy nghĩ, “Lẽ ra mình nên nói gì đó nhỉ?” Rồi tôi sẽ nghĩ ngợi mãi và nghĩ rất nhiều về nó, và hôm sau, tôi vẫn còn suy nghĩ và sẽ kiểu: “Lẽ ra mình nên nói gì đó.” Vậy nên trong những thời khắc khó khăn mà cô muốn nói gì đó
So for those tough moments where you want to say something that feels like it's contrary to what everybody else is saying but you know you deeply believe it, I say ask yourself three questions. And if the answer is yes to all three, you say the thing. OK, so the three questions are: Do I mean it? This question is important because you're not just talking to hear your own voice. Do you actually mean what you're about to say? Can I defend it? OK, if somebody challenges you on this thing that you are also challenging, do you have a way to justify and back it up? Do you have a clear way to say, "These are the receipts I'm coming with"? And then: Can I say it thoughtfully? Because how you say it does matter. Now, it does not mean that you should be tone-policed, nor does it mean that everybody will think you're saying it thoughtfully. But if you at least try to run it through your own, "Am I trying to be as thoughtful as possible?" it's risk mitigation. So you're saying, "OK, I'm not going to be hateful about this. I'm not going to say this to demean somebody. And I'm not just saying it to blow the room up or make the room feel like a rocky place to be in." When the answer is yes to all three -- Do I mean it? Can I defend it? Can I say thoughtfully? -- say it, and then deal with whatever comes. Now, again -- I say risk mitigation. I'm not saying everybody will receive what you're going to say with the intention you meant, OK? But it is a way to check yourself, check in with yourself, check what you're about to say, check your tone a little bit so it doesn't come out as unthoughtful as it could. Because there are moments when things might be heated and you might want to speak really quickly. It slows you down just a little bit to say, all right, all right, you do want to say this thing, it is valid, but don't come at this person's neck. So I think it's important for me. It's a checkpoint that I've used for years that I kind of lead with. And most of the time it goes well.
mà như thể trái ngược với những gì những người khác đang nói nhưng cô biết mình thực sự tin là vậy, tôi sẽ khuyên cô hãy đặt cho bản thân ba câu hỏi. Nếu câu trả lời cho cả ba đều là có, cô hãy cứ nêu ý kiến. Rồi, ba câu hỏi là: Mình có nghiêm túc không? Câu hỏi này rất quan trọng vì cô không chỉ đang nói cho mình nghe. Cô có thực sự có ý nói ra điều mình sắp nói không? Mình có bảo vệ được ý kiến? Giả sử như ai đó phản biện ý kiến mà cô đã tự phản biện, liệu cô có cách để chứng minh và bảo vệ nó hay không? Cô có thể chắc chắn nói rằng, “Đây là những minh chứng của tôi” không? Sau cùng: “Mình có thể diễn giải thấu đáo không”? Vì cách cô nói cũng rất quan trọng. Không phải là cô cần kiểm soát giọng điệu, hoặc khiến người khác nghĩ cô đang diễn giải thấu đáo. Nhưng nếu cô thử tự mình tập dượt, “Mình đã thấu đáo hết mức có thể chưa?” rủi ro sẽ được giảm thiểu. Vậy thì cô sẽ nói, “Được rồi, tôi sẽ không thù hận điều này. Tôi không nói điều này để hạ thấp ai đó. Và tôi cũng không nói ra để chọc giận mọi người trong phòng hay để đặt họ vào thế khó.” Khi cô đồng ý với cả ba câu hỏi-- Có nghiêm túc không? Có bảo vệ được ý kiến? Có thể diễn giải thấu đáo không? Hãy cứ nói ra và đối mặt với mọi thứ xảy đến. Tôi nhắc lại-- Giảm thiểu rủi ro. Tôi không nói rằng mọi người sẽ hiểu đúng ý của bạn, được chứ? Nhưng đó là một cách để cô kiểm tra bản thân, nói chuyện với bản thân, xem thử cô định nói gì, kiểm tra một chút tông giọng mình để đảm bảo rằng những gì cô sắp nói nghe không quá thiếu suy nghĩ. Vì sẽ có những lúc sự việc như nảy lửa và cô có thể muốn nói thật nhanh. Cô kiềm chế lại một tí để nói, ổn rồi, ổn rồi, cô thật sự muốn nói thế đấy, nó rất đúng đắn, nhưng đừng chế nhạo người ta. Tôi nghĩ điều đó rất quan trọng với mình. Đó là phương thức kiểm tra tôi đã sử dụng trong những năm tháng dẫn đầu. Hầu hết mọi lần đều suôn sẻ.
WPR: That is part of the tenets you outline. This is part of the "be" part. You have "be, say, do" -- Is that right? -- for tenets.
WPR: Đây là một phần của nguyên lý mà cô đã đề cập. Đây là một phần của “là“. Nguyên lý của cô bao gồm “là, nói, làm”-- Đúng không?
LAJ: Yes. Be, say, do.
LAJ: Đúng vậy. Là, nói, làm.
WPR: Be, say, do. And Ahmed, he asks, "How do you recognize professional trouble rather than regular trouble?"
WPR: Là, nói, làm. Và Ahmed hỏi rằng “Làm cách nào để cô phân biệt giữa gây rối chuyên nghiệp và gây rối thông thường?”
LAJ: I think it just really comes down to the heart from which you're doing it. You know, I really do think professional troublemaking, what it means is to disrupt for the greater good. You're not just disrupting because you don't like the person that's sitting across from you. You're disrupting because you know what you're saying or doing is going to be better for somebody else or somebody who looks like you or somebody who doesn't even look like you, right? It is ... it's mission-driven. And it is sometimes brave, because a lot of troublemaking is going to be scary. If it's not scary, it's probably not troublemaking, right? If it does not give you a little bit of, "Uhh ... I'm about to do this," it's probably not troublemaking. Because if it was easy, everybody would do it. If something was easy to say or do, everybody would do it, so it wouldn't be special.
LAQ: Tôi nghĩ còn tùy thuộc vào trái tim ta khi làm việc đó. Cô biết đấy, tôi thực sự nghĩ gây rối chuyên nghiệp tức là phá rối vì mục đích tốt hơn. Ta không chỉ phá rối vì ghét người ngồi đối diện. Ta phá rối vì hiểu được điều mình đang nói hoặc làm sẽ có lợi hơn cho người khác, hoặc ai đó giống như ta hoặc ai đó khác ta, đúng chứ? Kiểu như thực thi nhiệm vụ vậy. Đôi khi cần can đảm, vì nhiều cách gây rối rất đáng sợ. Nếu không đáng sợ, có lẽ đó chẳng phải là gây rối, đúng không? Nó không khiến ta cảm thấy có chút gì như “Hừm... Mình sắp làm việc này,” có lẽ đó chẳng phải là gây rối. Vì nếu nó đơn giản thì ai cũng làm rồi. Nếu một việc dễ nói hoặc dễ làm, ai cũng sẽ thực hiện, chẳng còn đặc biệt nữa.
So I think a lot of times about troublemaking the thing to really understand is: it's going to be scary. But what we sometimes will think is that if it's scary, that means I need to not do it. That's not true. That's how we end up not living the lives that we want to live. That's how we end up passing on opportunities that are meant to transform our lives. That's how we end up regretting our silence in rooms. One of the things that I actually ask myself whenever I'm in a room and I feel like I need to say something that feels tough is, I also ask myself, "Will my silence make me proud? This thing that feels like trouble, if I don't do it, will I be proud of myself?" Because ultimately, we are all our own biggest critics. Like, I could disappoint other people and still be able to deal with it. But when I disappoint myself, it's really tough. So I'm always like, "I'm making trouble so I don't disappoint myself. I'm making trouble so my silence is not something that will convict me." Because if I was there, I have to justify what I did in any room. And I want to be able to say, "At least I tried."
Thế nên tôi đã suy nghĩ nhiều về việc gây rối, điều cần phải hiểu là: nó sẽ đáng sợ. Nhưng đôi khi chúng ta sẽ nghĩ rằng nếu nó đáng sợ, thì ta phải không làm. Điều đó không đúng. Đó là lý do vì sao ta không thể sống cuộc đời mà ta mong muốn. Đó là lý do vì sao ta cứ bỏ lỡ những cơ hội giúp ta đổi đời. Đó là lý do vì sao ta lại hối hận vì đã im lặng trong phòng họp. Một trong những điều mà tôi thật sự tự hỏi khi ở phòng họp và tôi cảm thấy cần nói điều gì khó nói tôi cũng tự hỏi, “Liệu im lặng có khiến tôi tự hào? Nếu tôi không làm điều trông như rắc rối này, tôi sẽ tự hào chứ?” Vì sau cùng, ta chính là người chỉ trích ta nhiều nhất. Ví như tôi làm người khác thất vọng nhưng vẫn gắng gượng được. Nhưng nếu tôi làm bản thân thất vọng, chuyện sẽ khó khăn lắm. Nên tôi luôn kiểu, “Tôi gây rắc rối để không làm bản thân thất vọng. Tôi gây rắc rối để sự im lặng không khiến mình thấy tội lỗi.” Bởi vì nếu tôi ở đó, tôi phải chứng minh cho những gì mình làm ở mọi phòng họp. Và tôi muốn mình có thể nói, “Ít nhất mình cũng đã cố gắng.”
WPR: And to this point, Dennis asks, "How do you pick your battles to maintain your energy every day? How do you decide which trouble's worth making?"
WPR: Và tới đây, Dennis hỏi, “Làm sao để cô lựa chọn những trận chiến để duy trì năng lượng mỗi ngày? Làm sao để cô cân nhắc rắc rối nào đáng để gây nên?”
LAJ: Great question. Sometimes, I just ... don't have the energy to make trouble on that day. What that means is, if I am in a meeting, and on that day, I'm wiped, and I'm just like, "I don't have the energy to even be the one that's challenging," on that day, I might be quiet. So I just need more people to feel the obligation to also make the good trouble, so the one person who's always doing it can take a rest.
LAJ: Câu hỏi hay đấy. Đôi khi, tôi chỉ... không có năng lượng để gây rắc rối vào ngày hôm đó. Nghĩa là, nếu hôm đó tôi đi họp và cảm thấy mệt nhoài, và tôi như kiểu, “Mình không còn năng lượng để đánh đố ai,” thì hôm đó, tôi sẽ im lặng. Vì thế, tôi cần nhiều người hơn nữa hiểu được nghĩa vụ gây nên rắc rối tốt, để rồi người luôn gây rối có thể nghỉ ngơi một lúc. WPR: Nghĩa là có vẻ như một trong những điều quan trọng
WPR: I mean, it sounds like a big part of this is understanding yourself, right? Is understanding the sorts of things you want to go after. And we have an anonymous question where somebody asks, "I think being a troublemaker also requires us to identify what we truly want. What's your advice on finding out what you want?"
là hiểu rõ bản thân, đúng chứ? Chính là hiểu ra thứ cô muốn theo đuổi. Và ta có một câu hỏi ẩn danh: “Tôi nghĩ việc trở thành một kẻ gây rối cũng đòi hỏi ta phải nhận biết được điều ta thực sự muốn. Cô có lời khuyên gì về việc tìm ra điều mà ta muốn không?”
LAJ: Yeah, I think it's important to know what your core values are and what the thing that you will fight for is, which is why I started the book with a chapter called "Know Thyself." That was important because we have to be doubly clear on who we are, what we hold dear, why we are who we are, because it's what's going to inform what we want to speak up about. It's what's going to inform what drives us to fight. It's what's going to inform the why of it all. It's what pushes you past the fear to say, "I have to do this anyway." So if you're not clear about who you are and what's important to you, you're going to find it hard to know, "What am I actually going to be standing up for?"
LAJ: À, tôi nghĩ nhận ra giá trị cốt lõi của bản thân rất quan trọng và chuyện ta sẽ chiến đấu vì điều gì, đó là lý do vì sao tôi mở đầu cuốn sách bằng một chương gọi là “Biết mình.” Điều đó rất quan trọng vì ta phải biết rõ mình là ai, mình trân trọng điều gì, tại sao mình là mình, vì nó sẽ cho ta biết ta muốn lên tiếng vì điều gì. Nó sẽ cho ta biết động lực nào giúp ta chiến đấu. Nó cho ta biết lý do của mọi chuyện. Nó là thứ giúp ta vượt qua nỗi sợ, “Dù gì mình cũng phải làm việc này.” Vậy nên nếu ta không rõ việc mình là ai và thứ gì đáng giá với mình, sẽ khó để ta hiểu ra, “Thực sự mình đang chiến đấu vì điều gì vậy?”
WPR: You've gone back to these tenets, then, in answering this question, this idea of being the troublemaker that you want to be. And then what you shared earlier is the saying of the asking the three questions. And then there's a third part of this, the doing element. Could you talk a little bit about what that looks like?
WPR: Cô trở về các nguyên lý để trả lời cho câu hỏi này, ý tưởng trở thành kẻ gây rối như mong muốn. Những gì cô chia sẻ khi nãy về việc đặt ra ba câu hỏi cho bản thân. Ta có yếu tố thứ ba là phần “làm”. Cô nói một chút về yếu tố đó được chứ?
LAJ: Yeah, you know, you can talk a good talk, but if you're not doing work, then what's the point of the talk? Ultimately, we have to put action to our beliefs, to our ideas, to our convictions. So you can be like, yes, you know, Black lives matter. But if you're a boss who hasn't promoted your most senior Black staff, and somebody who just started got promoted over them, then the words that you said did not matter. So the "do" of it all is important; it's an exclamation point, because first you fix your mindset with the "be," then you start putting words to it with the "say," and then now you actually put action to it with the "do." And we cannot have the other two without the do. I think what ends up happening a lot is that people feel really good about what they said, but they haven't made it actually match with their action. So be who you say you are, you know, whether people are watching or not. Be who you say you are in private and in public, in the rooms where it's easy and in the rooms where it's tough and you face opposition. Because a lot of us are walking with privilege that we're not using. So every day you're trying to figure out in what ways can you use your voice, your access, your social currency in service of people who don't have it as much as you do.
LAJ: À thì, cô biết đó, cứ cho là ta nói tốt, nhưng nếu ta không làm thì nói để làm gì? Sau cùng, ta phải triển khai đức tin của ta, ý tưởng của ta, niềm tin của ta. Cô biết đó, có thể cô ủng hộ mạng sống của người màu cũng đáng quý. Nhưng nếu cô là người sếp không đề bạt nhân viên da màu dày kinh nghiệm nhất, hoặc cô là người chiếm lấy suất đề bạt của họ, thì lời cô nói đâu có ý nghĩa. Thế nên phần “làm” là vô cùng quan trọng; nó là một dấu chấm than, vì trước tiên cô cố định niềm tin với phần “là“, tiếp đó, cô đặt câu chữ vào nó thông qua phần “nói”, rồi cuối cùng cô hành động bằng phần “làm”. Nếu thiếu phần làm thì không thể có hai phần kia. Tôi nghĩ có chuyện rất phổ biến là ai đó cảm thấy điều mình nói rất tuyệt, nhưng những gì họ nói không đi đôi với hành động. Vậy nên hãy là con người mà cô nói mình là, dù cho có ai đang theo dõi hay không. Hãy là chính con người cô nói mình là dù là riêng tư và công khai, trong những phòng họp dễ chịu và trong cả những căn phòng khó nhằn và cô đối mặt với chỉ trích. Vì nhiều người trong chúng ta đang nhận những đặc ân mà ta còn không dùng tới. Mỗi ngày ta phải nghĩ làm sao để sử dụng tiếng nói, mạng lưới hay giá trị xã hội của mình trong khi một số người còn không có nhiều tài nguyên như vậy.
WPR: So, Anushka, she asks, "As someone who's young and often seen as inexperienced, how do I gain the space to speak and have others realize my worth?"
WPR: Anushka hỏi, “Là một người còn trẻ và thường bị coi là thiếu kinh nghiệm, làm sao để tôi có cơ hội lên tiếng và người khác nhận ra giá trị của tôi?”
LAJ: You won't gain the space to speak. People won't let go of their power that they perceive. Basically, you have to take it. Now, that means you might have to interrupt and say, "Hi. I've been trying to speak for the last 20 minutes. I have a point of view that I'd love to offer up." It is being -- it is taking up space even when people don't give it to you. And it does not mean you're going to be rude. It doesn't mean you're going to be arrogant. It means your voice is necessary, just like everybody else's. In the places where your voice is not given space, sometimes, you either have to take it, or you walk away, knowing that's not the space for you. Because if you have to constantly fight to be heard, that's exhausting. People might look at you with all types of weird projections of what they think you do or don't know. Do not let it shift what you see as your own value. That is also why you cannot attach your value to how other people are treating you or how other people are projecting things onto you. If you do that, you will very quickly be told that you don't fit into spaces. You'll be very, very quickly told that you're not worthwhile or that your ideas are terrible, and then you will absorb it. And then you'll go, like, "Oh, I guess I won't use my voice." You got to fortify yourself and know that your voice is just as important as anybody else's in the room and that you as somebody who's learning, who's growing, who is already in the room, you have already proven yourself to be valuable. And whether or not people see it is not ... it's not your fault, but affirm yourself and make yourself known. You know, take up space, even if they're not giving it to you, don't wait for their permission to speak. Be brilliant whether or not they want you to be.
LAJ: Bạn sẽ không có cơ hội lên tiếng. Không ai bỏ đi quyền lực mà họ nắm giữ. Về cơ bản, bạn phải giành lấy. Nghĩa là bạn có thể sẽ phải chen ngang và nói, “Xin chào. Tôi cố lên tiếng suốt 20 phút vừa qua. Tôi có ý kiến muốn được phát biểu.” Bạn phải tự giành lấy cơ hội kể cả khi người ta không trao cho bạn. Nhưng đó không có nghĩa là bạn khiếm nhã. Hay trở nên kiêu căng. Mà là tiếng nói của bạn cũng quan trọng giống hệt như bao người khác. Ở nơi mà tiếng nói của bạn không được chú ý, đôi khi, bạn sẽ phải tự giành lấy, hoặc rời bỏ khi biết nơi đó không dành cho mình. Vì thật mệt mỏi khi bạn cứ phải liên tục giành sự chú ý. Họ có thể sẽ nhìn bạn với mọi kiểu suy đoán kì quặc mà họ nghĩ bạn biết hoặc không biết. Đừng để nó thay đổi những gì mà bạn nhìn nhận về giá trị của mình. Đó cũng là lý do bạn không được đánh đồng giá trị của mình với cách người khác đối xử với bạn hay cách người khác kỳ vọng ở bạn. Vì nếu vậy, bạn sẽ sớm bị bảo là không phù hợp với nơi này. Chẳng mấy chốc sẽ có người nói rằng bạn không xứng đáng, hoặc ý tưởng của bạn quá tệ, và rồi bạn dần tin điều đó. Rồi bạn sẽ trở nên, “Ồ, chắc là mình không lên tiếng đâu.” Bạn phải tự trấn tĩnh bản thân và hiểu được tiếng nói của mình cũng quan trọng như mọi người trong phòng và bạn là một người còn đang học hỏi và trưởng thành mà đã được ở trong căn phòng, bạn đã chứng minh được mình có giá trị. Dù cho người khác có nhìn nhận hay không... cũng không phải lỗi ở bạn, nhưng hãy khẳng định được bản thân và tự mình nhận thức điều đó. Hãy cứ giành lấy cơ hội dù cho người khác không trao cho bạn, đừng chờ đợi họ cho phép bạn nói. Hãy tỏa sáng dù cho họ muốn hay không.
WPR: Well, thank you so much, Luvvie, I know we're all going to be waiting with bated breath for the news around this book.
WPR: Cảm ơn cô rất nhiều, Luvvie, tôi biết chúng ta đều sẽ hồi hộp chờ đợi tin tức xoay quanh cuốn sách này. LAJ: Cảm ơn đã mời tôi.
LAJ: Thank you so much for having me. TED has been so significant in my journey.
TED có ý nghĩa rất lớn trong hành trình của tôi.