Aside from keeping the rain out and producing some usable space, architecture is nothing but a special-effects machine that delights and disturbs the senses.
Ngoài việc che mưa và tạo ra các không gian hữu dụng, thì kiến trúc còn là một cỗ máy tạo ra các hiệu ứng đặc biệt kích thích các giác quan.
Our work is across media. The work comes in all shapes and sizes. It's small and large. This is an ashtray, a water glass. From urban planning and master planning to theater and all sorts of stuff. The thing that all the work has in common is that it challenges the assumptions about conventions of space. And these are everyday conventions, conventions that are so obvious that we are blinded by their familiarity. And I've assembled a sampling of work that all share a kind of productive nihilism that's used in the service of creating a particular special effect. And that is something like nothing, or something next to nothing. It's done through a form of subtraction or obstruction or interference in a world that we naturally sleepwalk through.
Công trình chúng tôi trải khắp nơi với nhiều kiểu dáng và kích cỡ. Nhỏ có, lớn có. Đây là gạt tàn thuốc, cũng là một ly nước. Từ quy hoạch đô thị và quy hoạch tổng thể đến rạp hát và muôn vàn thứ khác. Điểm chung của tất cả chính là chúng thách thức những giả thuyết về quy ước không gian. Đó là các quy ước hằng ngày, chúng quá hiển nhiên khiến ta không nhận ra. Tôi đã sưu tập các mẫu công trình có điểm chung là đều vận dụng hiệu quả thuyết hư vô để tạo ra một hiệu ứng đặc biệt nhất định. Nó giống như là hư vô, hoặc là điều gì đó gần như hư vô. Nó được tạo ra từ một dạng rút gọn, hoặc ngưng đọng, hoặc can thiệp trong một thế giới mà ta như kẻ mộng du.
This is an image that won us a competition for an exhibition pavilion for the Swiss Expo 2002 on Lake Neuchatel, near Geneva. And we wanted to use the water not only as a context, but as a primary building material. We wanted to make an architecture of atmosphere. So, no walls, no roof, no purpose -- just a mass of atomized water, a big cloud. And this proposal was a reaction to the over-saturation of emergent technologies in recent national and world expositions, which feeds, or has been feeding, our insatiable appetite for visual stimulation with an ever greater digital virtuosity. High definition, in our opinion, has become the new orthodoxy. And we ask the question, can we use technology, high technology, to make an expo pavilion that's decidedly low definition, that also challenges the conventions of space and skin, and rethinks our dependence on vision?
Đây là một bức ảnh đã mang về giải thưởng cho gian hàng triển lãm của chúng tôi tại Expo Thụy Sĩ 2002 tại hồ Neuchatel, gần Geneva. Chúng tôi muốn sử dụng nước không chỉ như là một bối cảnh, mà như một vật liệu xây dựng cốt yếu. Chúng tôi muốn xây một công trình kiến trúc trong bầu khí quyển. Do đó, không có tường, không mái, không mục đích -- chỉ là một khối bụi nước, một đám mây lớn. Ý tưởng này là một phản ứng với sự bão hòa quá mức của những công nghệ mới tại các triển lãm quốc gia và thế giới gần đây, Đây là điều đã và đang nuôi dưỡng sự thèm khát vô chừng của ta với việc kích thích thị giác bằng trình độ kỹ thuật số cao hơn bao giờ hết. Theo chúng tôi, độ phân giải cao đã trở thành một chuẩn mực mới. Và chúng tôi đặt câu hỏi liệu ta có thể sử dụng công nghệ cao để xây dựng một gian triển lãm có độ phân giải thấp, và thách thức các chuẩn mực về không gian và lớp vỏ bọc, và nghĩ về sự lệ thuộc vào thị giác không?
So this is how we sought to do it. Water's pumped from the lake and is filtered and shot as a fine mist through an array of high-pressure fog nozzles, 35,000 of them. And a weather station is on the structure. It reads the shifting conditions of temperature, humidity, wind direction, wind speed, dew point, and it processes this data in a central computer that calibrates the degree of water pressure and distribution of water throughout. And it's a responsive system that's trained on actual weather. So, this is just in construction, and there's a tensegrity structure. It's about 300 feet wide, the size of a football field, and it sits on just four very delicate columns. These are the fog nozzles, the interface, and basically the system is kind of reading the real weather, and producing kind of semi-artificial and real weather. So, we're very interested in creating weather. I don't know why.
Đây là cách chúng tôi làm điều đó. Nước được bơm từ hồ, được lọc và phun ra như sương qua một dãy các vòi phun sương áp lực cao, 35.000 vòi. Một trạm khí tượng được đặt trên cấu trúc này. Trạm khí tượng ghi nhận sự thay đổi nhiệt độ, độ ẩm, hướng gió, tốc độ gió, điểm sương, và nó xử lý các dữ liệu này bằng một máy tính trung tâm để cân chỉnh áp lực nước và phân phối nước trong hệ thống. Đây là một hệ thống phản ứng được cải tạo bởi thời tiết thực. Đây chỉ mới là sự tạo hình và đây là kết cấu lực căng toàn vẹn. Rộng gần 91 mét, tương đương một sân bóng đá, và chỉ tựa lên bốn trụ rất mỏng manh. Đây là các vòi phun sương, giao diện, và căn bản đây là dạng hệ thống ghi nhận thời tiết thực, và tạo ra một loại thời tiết nửa thực nửa nhân tạo. Chúng tôi rất hứng thú với việc tạo ra thời tiết. Tôi không biết tại sao.
Now, here we go, one side, the outside and then from the inside of the space you can see what the quality of the space was. Unlike entering any normal space, entering Blur is like stepping into a habitable medium. It's formless, featureless, depthless, scaleless, massless, purposeless and dimensionless. All references are erased, leaving only an optical whiteout and white noise of the pulsing nozzles. So, this is an exhibition pavilion where there is absolutely nothing to see and nothing to do. And we pride ourselves -- it's a spectacular anti-spectacle in which all the conventions of spectacle are turned on their head. So, the audience is dispersed, focused attention and dramatic build-up and climax are all replaced by a kind of attenuated attention that's sustained by a sense of apprehension caused by the fog. And this is very much like how the Victorian novel used fog in this way. So here the world is put out of focus, while our visual dependence is put into focus. The public, you know, once disoriented can actually ascend to the angel deck above and then just come down under those lips into the water bar. So, all the waters of the world are served there, so we thought that, you know, after being at the water and moving through the water and breathing the water, you could also drink this building.
Và đây, một mặt công trình, từ phía ngoài và đây là nhìn từ bên trong bạn có thể thấy chất lượng của không gian. Không giống khi đi vào một không gian thông thường, đi vào Blur giống như bước vào một môi trường có thể sống được. Không có hình dạng, chi tiết, chiều sâu, tỷ lệ hay khối lượng nào, không có mục đích và không có chiều. Mọi hệ quy chiếu đều bị xóa bỏ, chỉ chừa lại một màu trắng xóa và âm thanh từ những vòi phun. Vậy đó, một gian triển lãm hoàn toàn không có gì để nhìn và chẳng có gì để làm. Chúng tôi tự hào tạo ra một phong cảnh không hề có cảnh nhưng vẫn đặc sắc trong đó các quy ước về phong cảnh được thể hiện hoàn toàn mới mẻ. Vì vậy, người xem bị phân tán, mức tập trung và quá trình hình thành và cao trào đều bị thay thế bằng cách chú tâm chọn lọc được duy trì bởi sự lo sợ do sương mù gây ra. Và nó rất giống kiểu sương mù được nhắc đến trong tiểu thuyết Victoria. Vì vậy mọi người không còn chú trọng đến thế giới bên ngoài nữa mà chỉ tập trung vào những gì họ thấy. Khi đám đông bị mất phương hướng họ có thể leo lên sàn thiên thần phía trên và sau đó trở xuống hai bên mép để đi vào cột nước. Nguồn nước trên thế giới được lấy từ đây, nên chúng tôi nghĩ rằng, sau khi ở trong nước và di chuyển xuyên qua nước, hít thở trong nước, bạn cũng có thể uống cả công trình này.
And so it is sort of a theme, but it goes a little bit, you know, deeper than that. We really wanted to bring out our absolute dependence on this master sense, and maybe share our kind of sensibility with our other senses. You know, when we did this project it was a kind of tough sell, because the Swiss said, "Well, why are we going to spend, you know, 10 million dollars producing an effect that we already have in natural abundance that we hate?" And, you know, we thought -- well, we tried to convince them. And in the end, you know, they adapted this as a national icon that came to represent Swiss doubt, which we -- you know, it was kind of a meaning machine that everybody kind of laid on their own meanings off of. Anyway, it's a temporary structure that was ultimately destroyed, and so it's now a memory of an apparition, actually, but it continues to live in edible form. And this is the highest honor to be bestowed upon an architect in Switzerland -- to have a chocolate bar.
Và đó là một chủ đề, nhưng nó có một ý nghĩa sâu xa hơn. Chúng tôi rất muốn mang sự phụ thuộc tuyệt đối vào giác quan tổng quát này, và có thể chia sẻ sự nhạy cảm với những giác quan khác. Bạn biết đó, khi làm dự án khó khăn này, vì người Thụy Sĩ nói "Tại sao ta lại dùng 10 nghìn đô la tạo nên một hiệu ứng duy nhất mà ta ghét dù tự nhiên có sẵn?" Và, chúng tôi đã nghĩ -- Chúng tôi sẽ cố gắng thuyết phục họ. Sau cùng, họ áp dụng nó như một biểu tượng quốc gia đại diện cho sự nghi ngờ của người Thụy Sĩ. Vâng, đây là một cỗ máy rất ý nghĩa mà mọi người tự nghĩ cho riêng mình. Dù sao, đây là kiến trúc tạm thời cuối cùng đã bị phá hủy, và giờ là kí ức của sự hiện hữu, nhưng nó tiếp tục sống theo kiểu thực liệu. Đây là đỉnh cao của sự vinh quang được ban bởi một kiến trúc sư Thụy Sĩ -- để có một thanh socola.
Anyway, moving along. So in the '80s and '90s, we were mostly known for independent work, such as installation artist, architect, commissioned projects by museums and non-for-profit organizations. And we did a lot of media work, also a lot of experimental theater projects. In 2003, the Whitney mounted a retrospective of our work that featured a lot of this work from the '80s and '90s. However, the work itself resisted the very nature of a retrospective, and this is just some of the stuff that was in the show. This was a piece on tourism in the United States. This is "Soft Sell" for 42nd Street. This was something done at the Cartier Foundation. "Master/Slave" at the MOMA, the project series, a piece called "Parasite." And so there were many, many of these kinds of projects.
Dù sao cũng phải theo thôi. Vào những năm 80 và 90, chúng tôi hầu hết được biết đến với công trình độc lập, như nghệ nhân lắp đặt, kiến trúc sư, những dự án được ủy quyền cho bảo tàng và các tổ chức phi chính phủ. Chúng tôi đã làm rất nhiều công tác truyền thông. không ít dự án làm phim thử nghiệm. Năm 2003, Whitney đã trang bị sự hồi tưởng về công trình của chúng tôi thể hiện đặc tính của công trình những năm 80-90. Tuy nhiên, công trình đã giữ được vẻ tự nhiên của quá khứ, và đây chỉ là một vài thứ trong buổi trình diễn. Đây là một phần trong du lịch ở Mỹ. Có tên là "Soft Sell" cho con đường thứ 42. Đây là thứ đã được thực hiện tại tổ chức Cartier. "Chủ nô/Nô lệ" tại thời MOMA, hàng loạt dự án, mang tên "Ký sinh trùng". Có vô số các loại dự án.
Anyway, they gave us the whole fourth floor, and, you know, the problem of the retrospective was something we were very uncomfortable with. It's a kind of invention of the museum that's supposed to bring a kind of cohesive understanding to the public of a body of work. And our work doesn't really resolve itself into a body in any way at all. And one of the recurring themes, by the way, that in the work was a kind of hostility toward the museum itself, and asking about the conventions of the museum, like the wall, the white wall. So, what you see here is basically a plan of many installations that were put there. And we actually had to install white walls to separate these pieces, which didn't belong together. But these white walls became a kind of target and weapon at the same time. We used the wall to partition the 13 installations of the project and produce a kind of acoustic and visual separation.
Quay lại câu chuyện, họ đưa chúng tôi đến tầng 4 vấn đề của quá khứ là thứ chúng tôi cảm thấy không thoải mái. Đó là một kiểu phát minh của bảo tàng được cho là khiến mọi người hiểu về cốt lõi của công trình này. Công việc của chúng tôi không phải là tự giải quyết các vấn đề mọi mặt. Một trong chủ đề định kì là thể loại thù địch chống lại bảo tàng. và chất vấn về hội nghị của bảo tàng, như bức tường, bức tường trắng. Vậy, điều bạn đang thấy ở đây cơ bản là một dự án của một số cài đặt được đặt tại đó. Chúng tôi cuối cùng phải lắp đặt nhiều bức tường trắng để chia cách nhiều mảng không thuộc về nhau. Nhưng những bức tường trắng lại trở thành một mục đích và vũ khí. Chúng tôi dùng những bức tường để ngăn cách 13 cài đặt của dự án và tạo ra sự tách biệt giữa nghe và nhìn.
And what you see is -- actually, the red dotted line shows the track of this performing element, which was a new piece that created -- that we created for the -- which was a robotic drill, basically, that went all the way around, cruised the museum, went all around the walls and did a lot of damage. So, the drill was mounted on this robotic arm. We worked with, by the way, Honeybee Robotics. This is the brain. Honeybee Robotics designed the Mars Driller, and it was really very much fun to work with them. They weren't doing their primary work, which was for the government, while they were helping us with this. In any case, the way it works is that an intelligent navigator basically maps the entire surface of these walls. So, unfolded it's about 300 linear feet. And it randomly generates points within a three-dimensional matrix. It selects a point, it guides the drill to that point, it pierces the dry wall, leaving a half-inch hole before traveling to the next location. Initially these holes were lone blemishes, and as the exhibition continued the walls became increasingly perforated.
Và cuối cùng điều bạn thấy -- thật ra, đường chấm màu đỏ hiển thị theo dõi phần tử hoạt động này là một phần mới được tạo ra -- chúng tôi tạo ra -- một máy khoan robot, cơ bản là, nó đi theo đường vòng, đi quanh bảo tàng, đi quanh tường và phá hủy không ít. Vậy, máy khoan được đặt lên cánh tay robot. Chúng tôi làm việc với công nghệ robot Honeybee. Đây là bộ não. Công nghệ robot này đã thiết kế máy khoan Hỏa Tinh, chúng tôi thực sự thích thú khi được làm việc cùng họ. Họ không làm công việc chính của mình, tức là làm cho chính phủ, mà họ đang giúp chúng tôi. Trong mọi trường hợp, nguyên tắc vận hành là hoa tiêu thông minh cơ bản phác họa toàn bộ bề mặt của những bức tường này. Trải thẳng ra thì khoảng 91m. Và ngẫu nhiên tạo ra vài điểm trong ma trận ba chiều. Chọn ra một điểm, dẫn máy khoan tới điểm đó, xuyên qua tường khô, để lại một lỗ hơn 1 cm trước khi di chuyển tới địa điểm tiếp theo. Ban đầu, những lỗ này có những khuyết điểm riêng, và khi buổi triển lãm tiếp tục những bức tường trở nên mỏng dần.
So eventually holes on both sides of the wall aligned, opening views from gallery to gallery. Clusters of holes randomly opened up sections of wall. And so this was a three-month performance piece in which the wall was made into kind of an increasingly unstable element. And also the acoustic separation was destroyed. Also the visual separation. And there was also this constant background groan, which was very annoying. And this is one of the blackout spaces where there's a video piece that became totally not useful. So rather than securing a neutral background for the artworks on display, the wall now actively competed for attention. And this acoustical nuisance and visual nuisance basically exposed the discomfort of the work to this encompassing nature of the retrospective. It was really great when it started to break up all of the curatorial text.
Thậm chí những cái lỗ ở hai bên tường xếp thẳng hàng, mở rộng tầm nhìn khắp các phòng trưng bày. Hàng loạt các lỗ ngẫu nhiên mở ra phần bên trong của bức tường. Và đây là thành quả trong 3 tháng để biến bức tường dần dần thành các phần tử không vững chắc Và sự phân tách thính giác cũng bị phá hủy. Thị giác cũng bị phân tách. Tiếng rên liên tục dễ khiến ta bực mình. Đây là một trong những nơi không có ánh sáng khiến video hoàn toàn trở nên vô dụng. Vì vậy, thay vì làm phông nền trung tính cho các tác phẩm được trưng bày, bây giờ các bức tường thu hút sự chú ý. Và mối họa cho thính giác và thị giác cơ bản nói lên sự lo lắng về công trình với việc hoàn thiện bản chất của quá khứ. Thật tuyệt khi nó bắt đầu đập tan những lời phát ngôn của giám tuyển.
Moving along to a project that we finished about a year ago. It's the ICA -- the Institute of Contemporary Art -- in Boston, which is on the waterfront. And there's not enough time to really introduce the building, but I'll simply say that the building negotiates between this outwardly focused nature of the site -- you know, it's a really great waterfront site in Boston -- and this contradictory other desire to have an inwardly focused museum. So, the nature of the building is that it looks at looking -- I mean that's its primary objective, both its program and its architectural conceit. The building incorporates the site, but it dispenses it in very small doses in the way that the museum is choreographed. So, you come in and you're basically squeezed by the theater, by the belly of the theater, into this very compressed space where the view is turned off. Then you come up in this glass elevator right near the curtain wall. This elevator's about the size of a New York City studio apartment.
Tiến hành cùng dự án mà chúng tôi đã hoàn thành vào một năm trước. Đây là ICA -- học viện nghệ thuật đương thời -- ở Boston, nằm trên một bờ sông. Vì không đủ thời gian để thực sự giới thiệu về tòa nhà. tôi sẽ nói đơn giản là tòa nhà đang giao thoa giữa việc tập trung vào thiên nhiên bên ngoài của công trình này -- bạn biết đấy, đó thực sự là một bờ sông tuyệt đẹp ở Boston với những mong muốn trái ngược để có một bảo tàng tập trung bên trong. Thật ra kiến trúc cơ bản của nó -- Ý tôi là mục tiêu chính của nó cả về kế hoạch và lối kiến trúc của nó. Tòa nhà hòa hợp với khung cảnh nhưng đó chỉ là một yếu tố rất nhỏ theo cách mà bảo tàng được tạo dựng. Vì vậy, bạn vào trong và về cơ bản bạn bóp ngẹt trong nhà hát, khi phần bụng của nhà hát, vào không gian ngột ngạt này ở đó tầm nhìn bị chắn. Sau đó bạn đi lên cầu thang kính này, ngay gần bức rèm. Cầu thang này có kích cỡ khoảng bằng một căn hộ studio ở New York.
And then, this is a view going up, and then you could come into the theater, which can actually deny the view or open it up and become a backdrop. And many musicians choose to use the theater glass walls totally open. The view is denied in the galleries where we receive just natural light, and then exposed again in the north gallery with a panoramic view. The original intention of this space, which was unfortunately never realized, was to use lenticular glass which allowed only a kind of perpendicular view out. In this very narrow space that connects east and west galleries the intention was really to not get a climax, but to have the view stalk you, so the view would open up as you walked from one end to the other. This was eliminated because the view was too good, and the mayor said, "No, we just want this open." The architect lost here.
Đây là cảnh khi bạn đi lên sau đó bạn có thể vào trong nhà hát - bạn có thể che màn hoặc mở chúng ra để làm phông nền. Nhiều nhạc sĩ thích mở hoàn toàn các cửa kính của nhà hát. Phông nền này bị các phòng tranh từ chối vì ở đó họ chỉ dùng ánh sáng tự nhiên, Ở phòng trưng bày phía Bắc, toàn cảnh phông nền lại được phơi bày. Điểm mấu chốt của không gian này, đáng tiếc chúng ta chưa bao giờ nhận ra, là sử dụng loại thấu kính chỉ cho phép nhìn thẳng, trong vị trí vô cùng hẹp nối khu phía Đông và phía Tây này. Mục đích của nó vốn không phải là tạo ra cảm xúc mãnh liệt mà là để khung cảnh bám theo bạn, Cảnh tượng sẽ được hé lộ theo từng bước đi. Ý tưởng này bị từ chối vì cảnh tượng thật sự quá đẹp và ngài thị trưởng nói: "Không, mở toàn bộ cho tôi!" Vị kiến trúc sư đành bó tay.
But culminating -- and that's where this hooks into the theme of my little talk -- is this Mediatheque, which is suspended from the cantilevered portion of the building. So this is an 80-foot cantilever -- it's quite substantial. So, it's already sticking out into space enough, and then from that is this, is this small area called the Mediatheque. The Mediatheque has something like 16 stations where the public can get onto the server and look at digital artworks or also curated artworks off the web. And this was really a kind of very important part of this building, and here is a point where architecture -- this is like technology-free -- architecture is only a framing device, it only edits the harbor view, the industrial harbor just through its walls, its floors and its ceiling, to only expose the water itself, the texture of water, much like a hypnotic effect created by electronic snow or a lava lamp or something like that. And here is where we really felt that there was a great convergence of the technological and the natural in the project. But there is just no information, it's just -- it's just hypnosis.
Nhưng đạt đến đỉnh cao là chủ đề mà tôi muốn nói đến Mediatheque, nó được xây lơ lửng từ vị trí hẫng của tòa nhà. Đây là một cái hẫng 24m - khá là chắc chắn Nó được xây vào không gian khá vừa phải và sau đó là khu vực này sẽ được gọi là Mediatheque. Mediatheque có khoảng 16 trạm nơi mà người tham quan có thể đến và xem những tác phẩm nghệ thuật kỹ thuật hoặc tác phẩm giám tuyển trên web. Và đây cũng là vị trí quan trọng của tòa nhà này và đây là một điểm kiến trúc mà khi không có công nghệ, kiến trúc sẽ chỉ là một khung công cụ nó chỉ chỉnh sửa khung cảnh bến cảng, bến cảng công nghiệp qua những bức tường, sàn và trần, chỉ để lộ nước, kết cấu của nước, giống như hiệu ứng thôi miên được tạo ra bởi tuyết điện tử hoặc một chiếc đèn dung nham hoặc những thứ tương tự. Và đây là nơi chúng tôi thực sự cảm rằng có một sự hội tụ tuyệt vời của công nghệ và thiên nhiên của dự án. Nhưng không có thông tin, đó chỉ là thôi miên.
Moving along to Lincoln Center. These are the guys that did the project in the first place, 50 years ago. We're taking over now, doing work that ranges in scale from small-scale repairs to major renovations and major facility expansions. But we're doing it with a lot less testosterone. This is the extent of the work that's to be completed by 2010. And for the purposes of this talk, I wanted to isolate just a part of a project that's even a part of a project that touches a little bit on this theme of architectural special effects, and it happens to be our current obsession, and it plays a little bit with the purging and adding of distraction. It's Alice Tully Hall, and it's tucked under the Juilliard Building and descends several levels under the street. So, this is the entrance to Tully Hall as it used to be, before the renovation, which we just started. And we asked ourselves, why couldn't it be exhibitionistic, like the Met, or like some of the other buildings at Lincoln Center? And one of the things that we were asked to do was give it a street identity, expand the lobbies and make it visually accessible. And this building, which is just naturally hermetic, we stripped. We basically did a striptease, architectural striptease, where we're framing with this kind of canopy -- the underside of three levels of expansion of Juilliard, about 45,000 square feet -- cutting it to the angle of Broadway, and then exposing, using that canopy to frame Tully Hall. Before and after shot. (Applause) Wait a minute, it's just in that state, we have a long way to go.
Di chuyển dọc theo Lincoln Center. Đây là những người đầu tiên đã làm dự án này 50 năm về trước. Chúng tôi đang tiếp quản, làm những công việc có quy mô từ sửa chữa quy mô nhỏ đến cải tạo lớn và mở rộng cơ sở chính. Chúng tôi đang làm điều đó với lượng ít testosterone. Đây là phạm vi công việc sẽ hoàn thành vào năm 2010. Và cho mục đích của cuộc nói chuyện này, tôi muốn tách ra chỉ một phần của dự án thuộc một phần của dự án nhỏ hơn chạm một ít vào chủ đề các hiệu ứng đặc biệt của kiến trúc và nó thành ra là nỗi ám ảnh hiện tại của chúng tôi, nó làm chúng tôi phiền nhiễu. Đó là Hội trường Alice Tully, nó nằm dưới Tòa nhà Juilliard và nó thấp hơn mặt đường vài tầng. Đây là lối vào Hội trường Tully trước đây, trước khi chúng tôi cải tạo và mới bắt đầu Chúng tôi đã tự hỏi, tại sao nó không thể mang tính triển lãm, như Bảo tàng Met, hay như một số tòa nhà khác tại Trung tâm Lincoln? Và một trong những điều mà chúng tôi yêu cầu được làm là cho nó một mặt tiền đường, mở rộng các hành lang và làm nó thu hút thị giác hơn. Tòa nhà này, có thiết kế bị khuất đi vài phần, chúng tôi đã thay thế lại. Về cơ bản chúng tôi đã cải tạo lại, thay đổi kiến trúc của nó bằng cách bố trí mái hiên mặt dưới của ba tầng mở rộng của Juilliard, khoảng hơn 4.000 mét vuông - cắt nó theo góc Broadway, và sau đó bày ra, sử dụng cách bố trí mái để tạo khung cho Hội trường Tully. Trước và sau khi chúng tôi làm. (Vỗ tay)
But what I wanted to do was take a couple of seconds that I have left to just talk about the hall itself, which is kind of where we're really doing a massive amount of work. So, the hall is a multi-purpose hall. The clients have asked us to produce a great chamber music hall. Now, that's really tough to do with a hall that has 1,100 seats. Chamber and the notion of chamber has to do with salons and small-scale performances. They asked us to bring an intimacy. How do you bring an intimacy into a hall? Intimacy for us means a lot of different things. It means acoustic intimacy and it means visual intimacy.
Đợi một chút, nó vẫn đang dang dở, chúng tôi còn một chặng đường dài để đi. Tôi muốn dành quãng thời gian còn lại để thuyết trình về hội trường này, nơi mà chúng tôi thực sự có một khối công việc khổng lồ. Vì vậy, hội trường này rất đa năng. Các khách hàng đã yêu cầu chúng tôi tạo ra một thính phòng tuyệt vời. Điều đó thực sự khó khăn với một hội trường chỉ có sức chứa 1.100 chỗ. Ý niệm của thính phòng là tổ chức những cuộc gặp mặt và các buổi biểu diễn quy mô nhỏ. Họ yêu cầu chúng tôi đem lại cảm giác thân mật. Làm sao để mang cảm giác đó vào hội trường? Với chúng tôi, thân mật mang nhiều khái niệm khác nhau. Sự thân mật về âm thanh và sự thân mật về thị giác.
One thing is that the subway is running and rumbling right under the hall. Another thing that could be fixed is the shape of the hall. It's like a coffin, it basically sends all the sound, like a gutter-ball effect, down the aisles. The walls are made of absorptive surface, half absorptive, half reflective, which is not very good for concert sound.
Chúng tôi còn một vài điều cần sửa là tàu điện ngầm chạy ầm ầm dưới sảnh. Một điều nữa có thể cải tạo lại là cấu trúc của hội trường. Nó giống như một cỗ quan tài, nó sẽ truyền tất cả âm thanh, như hiệu ứng máng xối, xuống các lối đi. Các bức trường được thiết kế bằng bề mặt hấp thụ, một nửa hấp thụ, một nửa phản xạ, điều đó sẽ không tốt cho âm thanh trong các buổi hòa nhạc.
This is Avery Fisher Hall, but the notion of junk -- visual junk -- was very, very important to us, to get rid of visual noise. Because we can't eliminate a single seat, the architecture is restricted to 18 inches. So it's a very, very thin architecture. First we do a kind of partial box and box separation, to take away the distraction of the subway noise. Next we wrap the entire hall -- almost like this Olivetti keyboard -- with a material, with a wood material that basically covers all the surfaces: wall, ceiling, floor, stage, steps, everything, boxes. But it's acoustically engineered to focus the sound into the house and back to the stage. And here's an acoustic shelf. Looking up the hall. Just a section of the stage. Just everything is lined, it incorporates -- every single thing that you could possibly imagine is tucked into this high-performance skin. But one more added feature.
Đây là Hội trường Avery Fisher, nó như là một cánh buồm rất quan trọng đối với chúng tôi, để loại bỏ tiếng ồn nhiễu. Chúng tôi không thể giảm bớt chỗ ngồi vì thiết kế chỗ ngồi bị giới hạn ở 45 cm. Vì vậy, nó là một kiến trúc rất, rất hẹp Đầu tiên chúng tôi thực hiện một kiểu một phần hộp và tách hộp, để giảm bớt tiếng ồn của tàu điện ngầm. Tiếp theo chúng tôi bọc toàn bộ hội trường gần giống như bàn phím Olivetti này với một loại vật liệu bằng gỗ, cơ bản bao bọc tất cả trên bề mặt: tường, trần, sàn, sân khấu, bậc thang, mọi thứ, hộp. Chúng đều được thiết kế để tập trung âm thanh vào hội trường và phía sau sân khấu. Và đây là kệ âm thanh. Khi nhìn lên hội trường. Đó chỉ là một phần trang trí sân khấu. Chúng được bố trí theo hàng, và nó kết hợp với tất cả mọi thứ mà bạn có thể nghĩ tới sẽ được ẩn trong tầng âm cao. Chúng tôi đã thêm một tính năng nữa.
So now that we've stripped the hall of all visual distraction, everything that prevents this intimacy which is supposed to connect the house, the audience, with the performers, we add one little detail, one piece of architectural excess, a special effect: lighting. We very strongly believe that the theatrics of a concert hall is as much in the space of intermission and the space of arrival as it is when the concert starts. So what we wanted to do was produce this effect, this lighting effect, which made us have to bioengineer the wood walls. And what it entails is the use of resin, of this very thick resin with a veneer of the same kind of wood that's used throughout the hall, in a kind of seamless continuity that wraps the hall in light, like a belt of light: rather than separating, like a proscenium would separate the audience from performers, it connects audience with players.
Giờ chúng tôi đã loại bỏ tất cả các phân tâm thị giác, những thứ làm giảm tính thân mật, để tạo sự kết nối giữa không gian và khán thính giả, với người biểu diễn, chúng tôi đã thêm một chi tiết nhỏ nữa, một yếu tố vượt ngoài kiến trúc, một hiệu ứng đặc biệt: ánh sáng. Chúng tôi tin chắc rằng sân khấu của một phòng hòa nhạc mang lại nhiều sự chú ý về không gian cho khán giả khi bắt đầu buổi diễn. Vì vậy những gì chúng tôi muốn làm là tạo ra hiệu ứng này, hiệu ứng ánh sáng này, chúng tôi phải tham khảo về công nghệ hóa sinh trong việc chọn loại gỗ ốp tường. Và những gì nó đòi hỏi là việc sử dụng nhựa, của loại nhựa rất dày này kết hợp với cùng loại gỗ sử dụng cho toàn bộ hội trường, nó được trải dài đều trong hội trường bao quanh hội trường trong ánh sáng, như một vành đai ánh sáng thay vì tách rời như sân khấu thì sẽ tách rời khán giả và người biểu diễn và kết nối họ với các tiết mục.
And this is a mockup that is in Salt Lake City that gives you a sense of what this is going to look like in full-scale. And this is a guy from Salt Lake City, this is what they look like out there. (Laughter) And for us, I mean it's really kind of a very strange thing, but the moments in the hall that the buzz kind of dies down when the audience is waiting for the performance to begin, very similar to the parting of curtains or the raising of a chandelier, the walls will just exude this glow, temporarily stealing attention from the stage. And this is Tully in construction now.
Đây là một mô hình ở Thành phố Salt Lake mang lại cho bạn cái nhìn tổng quan khi được ghép lại toàn diện. Và đây là một chàng trai đến từ Thành phố Salt Lake, họ trông giống như này ở đó. (Cười) Đối với chúng tôi, ý tôi đó thực sự là một điều rất kỳ lạ, những khoảnh khắc trong hội trường khi tiếng thầm thì lắng dần lúc khán giả chờ đợi màn biểu diễn bắt đầu rất giống với khoảnh khắc kéo màn hay đèn chùm được nâng lên, các bức tường sẽ phát ra ánh sáng, để tạm thời gây sự chú ý. Và đây là Tully, hiện đang trong quá trình xây dựng.
I have no ending to say, except that I'm a couple of minutes over.
Không có kết thúc cho bài nói này vì tôi đã nói quá vài phút rồi.
Thank you very much. (Applause)
Cảm ơn rất nhiều. (Vỗ tay)