Hi. So I'd like to talk a little bit about the people who make the things we use every day: our shoes, our handbags, our computers and cell phones. Now, this is a conversation that often calls up a lot of guilt. Imagine the teenage farm girl who makes less than a dollar an hour stitching your running shoes, or the young Chinese man who jumps off a rooftop after working overtime assembling your iPad. We, the beneficiaries of globalization, seem to exploit these victims with every purchase we make, and the injustice feels embedded in the products themselves. After all, what's wrong with a world in which a worker on an iPhone assembly line can't even afford to buy one? It's taken for granted that Chinese factories are oppressive, and that it's our desire for cheap goods that makes them so.
Xin chào. Tôi muốn nói một chút về những người tạo ra những thứ mà chúng ta sử dụng hằng ngày: giày, túi xách, máy tính, và điện thoại. Cuộc nói chuyện này thường gợi lên nhiều cảm giác tội lỗi. Hãy tưởng tượng các thiếu nữ nông thôn kiếm được ít hơn một đô la cho một giờ khâu giày chạy cho bạn. hay một chàng trai trẻ Trung Quốc , nhảy xuống từ trên mái nhà sau khi làm thêm giờ để lắp ráp chiếc iPad cho bạn. Chúng ta, những người hưởng lợi từ toàn cầu hóa, dường như bóc lột những nạn nhân này với tất thảy mọi thứ mà chúng ta mua sắm, và sự bất công nằm trong chính những sản phẩm đó. Cuối cùng, có gì sai ở thế giới khi một người công nhân trong dây chuyền sản xuất iPhone không thể mua lấy một cái cho chính mình? Việc những nhà máy Trung Quốc luôn áp bức công nhân và chính nhu cầu mua hàng giá rẻ của chúng ta đã khiến họ làm như thế.
So, this simple narrative equating Western demand and Chinese suffering is appealing, especially at a time when many of us already feel guilty about our impact on the world, but it's also inaccurate and disrespectful. We must be peculiarly self-obsessed to imagine that we have the power to drive tens of millions of people on the other side of the world to migrate and suffer in such terrible ways. In fact, China makes goods for markets all over the world, including its own, thanks to a combination of factors: its low costs, its large and educated workforce, and a flexible manufacturing system that responds quickly to market demands. By focusing so much on ourselves and our gadgets, we have rendered the individuals on the other end into invisibility, as tiny and interchangeable as the parts of a mobile phone.
Câu chuyện đơn giản này về nhu cầu của người phương Tây, và sự chịu đựng của người Trung Quốc rất đáng được chú ý. đặc biệt là ở thời điểm đa số chúng ta đã cảm thấy tội lỗi về tác động của mình lên thế giới. Nhưng cảm giác ấy không hề chính xác, mà có phần thiếu tôn trọng. Chúng ta quá tự tin khi nghĩ rằng mình có sức mạnh làm mười triệu người ở phía bên kia của thế giới di cư và chịu khổ theo những cách khủng khiếp đến như vậy. Trong thực tế, Trung Quốc sản xuất hàng hóa cho nhiều thị trường trên toàn thế giới kể cả của chính Trung Quốc, vì những lý do sau đây: chi phí thấp, lực lượng lao động lớn và được giáo dục và một hệ thống sản xuất linh hoạt có thể đáp ứng nhanh với nhu cầu thị trường. Vì tập trung quá nhiều vào bản thân và tiện ích của mình, chúng ta đã biến những cá nhân đầu bên kia thành tàng hình, nhỏ và dễ thay đổi như những linh kiện của một chiếc điện thoại.
Chinese workers are not forced into factories because of our insatiable desire for iPods. They choose to leave their homes in order to earn money, to learn new skills, and to see the world. In the ongoing debate about globalization, what's been missing is the voices of the workers themselves.
Công nhân Trung Quốc không bị bắt làm việc cho các nhà máy để phục vụ nhu cầu vô hạn về iPod của chúng ta. Họ chọn rời khỏi nhà mình để kiếm tiền, để học những kỹ năng mới, và để nhìn ra thế giới. Trong cuộc tranh luận đang diễn ra về toàn cầu hóa, những gì đang mất đi là tiếng nói của chính các công nhân.
Here are a few.
Dưới đây là một vài ví dụ
Bao Yongxiu: "My mother tells me to come home and get married, but if I marry now, before I have fully developed myself, I can only marry an ordinary worker, so I'm not in a rush."
Bảo Yongxiu: "Mẹ tôi nói với tôi hãy về nhà và kết hôn, nhưng nếu tôi lập gia đình bây giờ, trước khi hoàn toàn phát triển bản thân mình tôi chỉ có thể kết hôn một công nhân bình thường, Vì vậy tôi không vội vã."
Chen Ying: "When I went home for the new year, everyone said I had changed. They asked me, what did you do that you have changed so much? I told them that I studied and worked hard. If you tell them more, they won't understand anyway."
Chen Ying: "khi tôi về nhà dịp năm mới, tất cả mọi người nói tôi đã thay đổi. Họ hỏi tôi, con đã làm những gì con đã thay đổi rất nhiều? Tôi nói với họ rằng tôi đã học và làm việc chăm chỉ. Nếu bạn nói với họ nhiều hơn thế, họ sẽ chẳng thể hiểu được đâu."
Wu Chunming: "Even if I make a lot of money, it won't satisfy me. Just to make money is not enough meaning in life."
Wu Chunming: "Ngay cả nếu khi tôi kiếm được rất nhiều tiền, tôi vẫn sẽ không hài lòng. Kiếm tiền không đủ để làm cuộc sống trở nên ý nghĩa."
Xiao Jin: "Now, after I get off work, I study English, because in the future, our customers won't be only Chinese, so we must learn more languages."
Xiao Jin: "Bây giờ, sau giờ làm, tôi học thêm tiếng Anh, bởi vì trong tương lai, khách hàng của chúng tôi sẽ không chỉ là người Trung Quốc, do đó, chúng tôi phải học thêm ngoại ngữ."
All of these speakers, by the way, are young women, 18 or 19 years old.
Tất cả những người nói trên, đều là những phụ nữ trẻ, 18 hoặc 19 tuổi.
So I spent two years getting to know assembly line workers like these in the south China factory city called Dongguan. Certain subjects came up over and over: how much money they made, what kind of husband they hoped to marry, whether they should jump to another factory or stay where they were. Other subjects came up almost never, including living conditions that to me looked close to prison life: 10 or 15 workers in one room, 50 people sharing a single bathroom, days and nights ruled by the factory clock. Everyone they knew lived in similar circumstances, and it was still better than the dormitories and homes of rural China.
Vì vậy tôi đã dành hai năm để làm quen những công nhân dây chuyền lắp ráp như thế này ở thành phố công nghiệp phía Nam Trung Quốc, Đông Quảng. Một vài chủ đề nhất định cứ được bàn tán mãi: họ kiếm được bao nhiêu tiền , họ hy vọng kết hôn với những hình mẫu chồng nào, liệu có họ nên nhảy việc đến một nhà máy khác hay tiếp tục làm việc ở chỗ cũ.. Các đề tài khác gần như không bao giờ được nhắc đến, bao gồm cả điều kiện sống mà tôi đánh giá là gần như là tù ngục: 10 hoặc 15 công nhân trong một căn phòng, 50 người chia sẻ một phòng tắm duy nhất, ngày và đêm bị cai trị bởi chiếc đồng hồ của nhà máy . Tất cả mọi người họ biết đều sống trong những hoàn cảnh tương tự, và nó vẫn còn tốt hơn so với các ký túc xá và nhà ở tại các vùng nông thôn Trung Quốc.
The workers rarely spoke about the products they made, and they often had great difficulty explaining what exactly they did. When I asked Lu Qingmin, the young woman I got to know best, what exactly she did on the factory floor, she said something to me in Chinese that sounded like "qiu xi." Only much later did I realize that she had been saying "QC," or quality control. She couldn't even tell me what she did on the factory floor. All she could do was parrot a garbled abbreviation in a language she didn't even understand.
Các công nhân ít khi nói về các sản phẩm mà họ làm ra, và họ thường gặp nhiều khó khăn trong việc giải thích chính xác những gì họ đã làm. Khi tôi hỏi Lu Qingmin, người phụ nữ trẻ mà tôi biết rõ nhất, chính xác những gì cô ấy đã làm trên sàn nhà máy, cô ấy nói điều gì đó với tôi bằng tiếng Trung Quốc có vẻ như "qiu xi." Chỉ sau đó, tôi nhận ra rằng cô đã có nói "QC", hay kiểm soát chất lượng. Cô thậm chí không thể nói cho tôi nghe những gì cô đã làm trên sàn nhà máy. Tất cả những gì cô ấy có thể làm là nhại lại một từ viết tắt rời rạc trong một ngôn ngữ mà cô thậm chí còn không hiểu.
Karl Marx saw this as the tragedy of capitalism, the alienation of the worker from the product of his labor. Unlike, say, a traditional maker of shoes or cabinets, the worker in an industrial factory has no control, no pleasure, and no true satisfaction or understanding in her own work. But like so many theories that Marx arrived at sitting in the reading room of the British Museum, he got this one wrong. Just because a person spends her time making a piece of something does not mean that she becomes that, a piece of something. What she does with the money she earns, what she learns in that place, and how it changes her, these are the things that matter. What a factory makes is never the point, and the workers could not care less who buys their products.
Karl Marx coi đây là bi kịch của chủ nghĩa tư bản, sự xa lạ của công nhân đối với các sản phẩm từ chính nhà máy của họ. Không giống như một người thợ làm giày hoặc tủ truyền thống nhân viên nhà máy không có sự kiểm soát, không có niềm vui, không có sự hài lòng thật sự hay sự hiểu biết trong công việc riêng của cô ấy. Nhưng như nhiều giả thuyết mà Marx đã đặt ra khi ngồi trong phòng đọc sách của bảo tàng Anh, ông đã sai trong việc nhìn nhận vấn đề này. Chỉ vì một người đã dành thời gian tạo ra một mẩu của một cái gì đó không có nghĩa là cô ấy sẽ trở thành một mẩu của thứ đó. Những gì cô làm với số tiền kiếm được, những gì cô học được tại nới đó, và làm thế nào nó đã thay đổi cô, đó là những thứ quan trọng (với cô). thứ mà nhà máy tạo ra không quan trọng với họ các công nhân không mấy quan tâm đến việc ai là người mua sản phẩm.
Journalistic coverage of Chinese factories, on the other hand, plays up this relationship between the workers and the products they make. Many articles calculate: How long would it take for this worker to work in order to earn enough money to buy what he's making? For example, an entry-level-line assembly line worker in China in an iPhone plant would have to shell out two and a half months' wages for an iPhone.
Chính báo chí đề cập đến các nhà máy Trung Quốc, mặt khác, mới là đầu mối dấy lên mối quan hệ này, mối quan hệ giữa công nhân và các sản phẩm mà họ làm ra. Nhiều bài viết tính toán: người công nhân sẽ phải làm việc trong bao lâu để đủ tiền mua cái mà anh ta tạo ra? Ví dụ, công nhân mới vào nghề trong một dây chuyền lắp ráp tại Trung Quốc trong khu công nghiệp sản xuất iPhone sẽ phải dành ra hai tháng rưỡi lương để sắm một chiếc iPhone.
But how meaningful is this calculation, really? For example, I recently wrote an article in The New Yorker magazine, but I can't afford to buy an ad in it. But, who cares? I don't want an ad in The New Yorker, and most of these workers don't really want iPhones. Their calculations are different. How long should I stay in this factory? How much money can I save? How much will it take to buy an apartment or a car, to get married, or to put my child through school?
Nhưng liệu tính toán này có ý nghĩa như thế nào? Ví dụ, gần đây tôi đã viết một bài viết trên tạp chí The New Yorker, nhưng tôi không đủ tiền để mua một quảng cáo trong đó. Tuy nhiên, ai quan tâm nào? Tôi không muốn quảng cáo trên New Yorker, và hầu hết những người lao động không thực sự muốn sở hữu iPhone. Tính toán của họ là khác nhau. Tôi nên ở bao lâu trong nhà máy này? Tôi có thể tiết kiệm được bao nhiêu tiền ? Sẽ phải mất bao lâu mới đủ tiền mua một căn hộ hoặc một chiếc xe, để kết hôn, hay để gửi con tôi vào trường học?
The workers I got to know had a curiously abstract relationship with the product of their labor. About a year after I met Lu Qingmin, or Min, she invited me home to her family village for the Chinese New Year. On the train home, she gave me a present: a Coach brand change purse with brown leather trim. I thanked her, assuming it was fake, like almost everything else for sale in Dongguan. After we got home, Min gave her mother another present: a pink Dooney & Bourke handbag, and a few nights later, her sister was showing off a maroon LeSportsac shoulder bag. Slowly it was dawning on me that these handbags were made by their factory, and every single one of them was authentic.
Các công nhân mà tôi biết có một mối quan hệ trừu tượng một cách đáng ngạc nhiên với các sản phẩm mà họ tạo ra. Khoảng một năm sau khi gặp Lu Qingmin, hay còn gọi là Min, cô ấy mời tôi về nhà về quê nhà cô ấy vào dịp Tết Âm Lịch. Trên chuyến tàu về quê, cô ấy đã tặng tôi một món quà: một cái ví hiệu Coach với viền cắt da màu nâu . Tôi cảm ơn cô ấy, bụng cứ nghĩ rằng đó là đồ giả, giống như hầu hết mọi thứ khác được bán tại Đông Quảng. Khi về đến nhà, Min lại cho mẹ mình một món quà khác: một túi xách màu hồng hiệu Dooney & Bourke, và một vài đêm sau, em gái của cô đã khoe ra một chiếc balo LeSportsac màu nâu. Dần dần, tôi biết được rằng những túi xách này được tạo ra từ nhà máy của họ, và mỗi một cái trong số chúng đều là hàng thật.
Min's sister said to her parents, "In America, this bag sells for 320 dollars." Her parents, who are both farmers, looked on, speechless. "And that's not all -- Coach is coming out with a new line, 2191," she said. "One bag will sell for 6,000." She paused and said, "I don't know if that's 6,000 yuan or 6,000 American dollars, but anyway, it's 6,000." (Laughter)
Em gái của Min nói với cha mẹ cô, "Tại Mỹ, chiếc túi này được bán với giá 320 đô la." Cha mẹ của cô, cả hai đều là nông dân, nhìn vào nó, không nói nên lời. "Và đó không phải là tất cả - Coach sắp ra một dòng mới, 2191,"cô nói. "Một chiếc túi sẽ được bán với giá 6.000." Cô ngừng lại và thốt lên, "con không biết liệu đó là 6.000 yuan hay 6.000 Đô la Mỹ, nhưng dù sao, nó là 6.000. " (Tiếng cười)
Min's sister's boyfriend, who had traveled home with her for the new year, said, "It doesn't look like it's worth that much."
Bạn trai của em gái Min, người đã cùng về nhà với cô ấy nhân dịp năm mới, cho biết: "Nó trông có vẻ không đáng giá đến vậy."
Min's sister turned to him and said, "Some people actually understand these things. You don't understand shit."
Em gái của Min quay sang anh ta và nói, "Một số người thực sự hiểu những món đồ này. Anh không hiểu cái khỉ khô gì hết."
(Laughter) (Applause)
(Tiếng cười) (Vỗ tay)
In Min's world, the Coach bags had a curious currency. They weren't exactly worthless, but they were nothing close to the actual value, because almost no one they knew wanted to buy one, or knew how much it was worth. Once, when Min's older sister's friend got married, she brought a handbag along as a wedding present. Another time, after Min had already left the handbag factory, her younger sister came to visit, bringing two Coach Signature handbags as gifts.
Trong thế giới của MIn, các túi xách hiệu Coach sở hữu một loại tiền tệ gây tò mò. Chúng không chính xác là vô giá trị, nhưng khác xa với giá trị thực tế , bởi vì hầu như không một ai mà chị em Min quen biết lại muốn sắm lấy một cái cả, hoặc biết được rằng giá trị của nó là bao nhiêu. Một lần, khi một người bạn của chị gái Min lập gia đình, chị ấy đã mang theo một cái túi xách như một món quà cho đám cưới. Một thời gian sau, khi Min đã đi khỏi nhà máy sản xuất túi xách, em gái của cô ấy đến thăm, mang theo hai cái túi Coach Signature làm quà tặng.
I looked in the zippered pocket of one, and I found a printed card in English, which read, "An American classic. In 1941, the burnished patina of an all-American baseball glove inspired the founder of Coach to create a new collection of handbags from the same luxuriously soft gloved-hand leather. Six skilled leatherworkers crafted 12 Signature handbags with perfect proportions and a timeless flair. They were fresh, functional, and women everywhere adored them. A new American classic was born."
Tôi nhìn vào trong túi có khoá kéo của một trong hai, và tôi nhìn thấy một tấm thẻ in bằng tiếng Anh, viết rằng, "Một người Mỹ cổ điển. Năm 1941, các mảnh vải da của một chiếc găng tay bóng chày đậm chất Mỹ đã gây cảm hứng cho người sáng lập của Coach trong việc tạo ra một bộ sưu tập túi xách mới từ cùng một loại da cao cấp và mềm mại dùng để may những chiếc găng sang trọng. Sáu kỹ năng may vá trên da đã tạo nên 12 chiếc túi xách đặc trưng với tỷ lệ hoàn hảo và kiểu dáng vượt thời gian. Chúng tươi mới, tiện dụng, và phụ nữ ở khắp mọi nơi yêu thích chúng Một tác phẩm kinh điển của Mỹ đã được sinh ra."
I wonder what Karl Marx would have made of Min and her sisters. Their relationship with the product of their labor was more complicated, surprising and funny than he could have imagined. And yet, his view of the world persists, and our tendency to see the workers as faceless masses, to imagine that we can know what they're really thinking.
Tôi tự hỏi liệu Karl Marx sẽ làm gì cho Min và chị em của cô. Mối quan hệ của họ với các sản phẩm lao động của chính mình trở nên phức tạp, đáng ngạc nhiên và vui vẻ hơn ông tưởng. Và, quan điểm của ông về thế giới vẫn tồn tại, và chúng ta có xu hướng xem các công nhân này như là những đám đông vô danh tính, và cho rằng mình có thể hiểu được những gì họ đang nghĩ trong đầu.
The first time I met Min, she had just turned 18 and quit her first job on the assembly line of an electronics factory. Over the next two years, I watched as she switched jobs five times, eventually landing a lucrative post in the purchasing department of a hardware factory. Later, she married a fellow migrant worker, moved with him to his village, gave birth to two daughters, and saved enough money to buy a secondhand Buick for herself and an apartment for her parents. She recently returned to Dongguan on her own to take a job in a factory that makes construction cranes, temporarily leaving her husband and children back in the village.
Lần đầu tiên tôi gặp Min, cô vừa bước sang tuổi 18 và từ bỏ công việc đầu tiên của mình trên dây chuyền lắp ráp một nhà máy điện tử. Hơn hai năm sau đó, tôi biết rằng cô đã chuyển việc 5 lần cuối cùng có được một vị trí hấp dẫn tại bộ phậ thu mua của một nhà máy sản xuất phần cứng. Sau đó, cô kết hôn với một công nhân nhập cư, cùng anh ta chuyển đến sống tại làng của anh ấy, sinh hạ hai đứa con gái, và tiết kiệm đủ tiền để mua một chiếc xe Buick cũ cho mình và một căn hộ cho cha mẹ cô. Gần đây, cô đã quay trở lại Đông Quảng một mình để nhận một công việc tại nhà máy chế tạo cần cẩu, tạm thời để chồng và con cái của mình lại làng.
In a recent email to me, she explained, "A person should have some ambition while she is young so that in old age she can look back on her life and feel that it was not lived to no purpose."
Trong một bức thư điện tử gần đây cho tôi, cô ấy đã giải thích, "Một người nên có một số tham vọng khi còn trẻ để mà lúc về già, cô ấy có thể nhìn lại cuộc đời mình và hài lòng rằng mình đã sống có mục đích."
Across China, there are 150 million workers like her, one third of them women, who have left their villages to work in the factories, the hotels, the restaurants and the construction sites of the big cities. Together, they make up the largest migration in history, and it is globalization, this chain that begins in a Chinese farming village and ends with iPhones in our pockets and Nikes on our feet and Coach handbags on our arms that has changed the way these millions of people work and marry and live and think. Very few of them would want to go back to the way things used to be.
Trên khắp Trung Quốc, có 150 triệu người lao động như cô, một phần ba số họ, những phụ nữ đã rời bỏ làng quê mình để đến làm việc tại các nhà máy, các khách sạn, nhà hàng và các công trình xây dựng tại các thành phố lớn. Cùng với nhau, họ tạo ra những cuộc di cư lớn nhất trong lịch sử, và đó là toàn cầu hóa, chuỗi này bắt đầu tại một ngôi làng làm nông của Trung Quốc và kết thúc bằng những chiếc iPhone trong túi và những đôi Nikes trên chân và những chiếc túi xách mà ta mang trên tay điều đó đã thay đổi cách các hàng triệu người làm việc và kết hôn sống và suy nghĩ. Rất ít người trong số họ sẽ muốn trở lại với cách thức điều ngày trước.
When I first went to Dongguan, I worried that it would be depressing to spend so much time with workers. I also worried that nothing would ever happen to them, or that they would have nothing to say to me. Instead, I found young women who were smart and funny and brave and generous. By opening up their lives to me, they taught me so much about factories and about China and about how to live in the world.
Khi lần đầu đến Đông Quảng, tôi đã lo lắng rằng sẽ rất là chán nản khi dành quá nhiều thời gian với người lao động. Tôi cũng đã lo lắng rằng sẽ không có gì sẽ xảy đến với họ, hoặc họ sẽ không có gì để nói với tôi. Thay vào đó, tôi tìm thấy những phụ nữ trẻ, những người thông minh và hài hước dũng cảm và hào phóng. Bằng cách mở rộng cuộc sống của họ cho tôi, họ đã dạy tôi rất nhiều về nhà máy về Trung Quốc và về làm thế nào để tồn tại trong thế giới này.
This is the Coach purse that Min gave me on the train home to visit her family. I keep it with me to remind me of the ties that tie me to the young women I wrote about, ties that are not economic but personal in nature, measured not in money but in memories. This purse is also a reminder that the things that you imagine, sitting in your office or in the library, are not how you find them when you actually go out into the world.
Đây là những chiếc ví hiệu Coach mà Min đã cho tôi trên chuyến tàu về nhà thăm lại gia đình mình. Tôi giữ nó bên mình để nhắc nhở bản thân về các mối dây ràng buộc tôi với các phụ nữ trẻ mà tôi đã viết về họ, những mối quan hệ không phải về mặt kinh tế mà là những mối quan hệ cá nhân, xết về bản chất không phả được đo lường bằng tiền bạc mà là bằng ký ức và kỷ niệm Chiếc ví này cũng là một lời nhắc nhở rằng những điều mà bạn tưởng tượng, khi ngồi trong văn phòng hoặc thư viện, không phải là những gì bạn thực sự tìm thấy khi ra ngoài kia.
Thank you. (Applause) (Applause)
Cảm ơn các bạn. (Vỗ tay) (Vỗ tay)
Chris Anderson: Thank you, Leslie, that was an insight that a lot of us haven't had before. But I'm curious. If you had a minute, say, with Apple's head of manufacturing, what would you say?
Chris Anderson: Cảm ơn bạn, Leslie, đó là một cái nhìn sâu sắc mà rất nhiều trong chúng ta, trước kia đã không có được. Thế nhưng tôi tò mò. Nếu bạn có một phút, để nói chuyện với, người đứng đầu bộ phận sản xuất của Apple , bạn sẽ nói gì?
Leslie Chang: One minute?
Leslie Chang: Một phút ư?
CA: One minute. (Laughter)
CA: Một phút. (Tiếng cười)
LC: You know, what really impressed me about the workers is how much they're self-motivated, self-driven, resourceful, and the thing that struck me, what they want most is education, to learn, because most of them come from very poor backgrounds. They usually left school when they were in 7th or 8th grade. Their parents are often illiterate, and then they come to the city, and they, on their own, at night, during the weekends, they'll take a computer class, they'll take an English class, and learn really, really rudimentary things, you know, like how to type a document in Word, or how to say really simple things in English. So, if you really want to help these workers, start these small, very focused, very pragmatic classes in these schools, and what's going to happen is, all your workers are going to move on, but hopefully they'll move on into higher jobs within Apple, and you can help their social mobility and their self-improvement. When you talk to workers, that's what they want. They do not say, "I want better hot water in the showers. I want a nicer room. I want a TV set." I mean, it would be nice to have those things, but that's not why they're in the city, and that's not what they care about.
LC: Bạn biết đấy, những gì thực sự khiến tôi ấn tượng về người lao động là họ rất vị kỷ, tham vọng và tháo vát, và điều khiến tôi hết sức bất ngờ là những gì mà họ muốn hầu hết là giáo dục, để học hỏi, bởi vì hầu hết trong số họ đến từ các gia đình rất nghèo. Họ thường phải bỏ học khi đang học lớp 7 hoặc 8. Cha mẹ của họ thường mù chữ, và sau đó họ lên thành phố, một mình, ban đêm, vào những ngày cuối tuần, họ sẽ tham gia một lớp học máy tính, họ sẽ tham gia một lớp học tiếng Anh, và học hỏi những điều thực sự, thực sự rất căn bản bạn biết đấy, như là, làm thế nào để nhập một tài liệu trong Word, hoặc làm thế nào để diễn đạt những điều đơn giản bằng tiếng Anh. Vì vậy, nếu bạn thực sự muốn giúp đỡ các công nhân này, hãy bắt đầu các lớp học nhỏ, rất tập trung, rất thực tế trong các trường học này, và những gì sẽ xảy ra là, tất cả các công nhân của bạn sẽ phát triển năng lực, nhưng hy vọng rằng họ sẽ leo lên những chức vụ, công việc cao cấp hơn tại Apple và bạn có thể giúp họ cải thiện tính lưu động xã hội và hoàn thiện bản thân. Khi bạn nói chuyện với người lao động, đó là những gì họ mong muốn. Họ không nói, "tôi muốn có nước nóng từ vòi sen. Tôi muốn có một căn phòng đẹp hơn. Tôi muốn có một cái TV." ý tôi nghĩa, sẽ tốt thôi nếu có được những thứ trên, nhưng đó không phải là lý do tại sao họ di cư lên thành phố, và đó là không phải là những gì họ quan tâm.
CA: Was there a sense from them of a narrative that things were kind of tough and bad, or was there a narrative of some kind of level of growth, that things over time were getting better?
CA: Đã có một lời kể rằng thực tế thì xù xì và xấu xí, hoặc rằng có một số mức độ tăng trưởng (kinh tế) nào đó, những điều như vậy có trở nên tốt hơn qua thời gian không?
LC: Oh definitely, definitely. I mean, you know, it was interesting, because I spent basically two years hanging out in this city, Dongguan, and over that time, you could see immense change in every person's life: upward, downward, sideways, but generally upward. If you spend enough time, it's upward, and I met people who had moved to the city 10 years ago, and who are now basically urban middle class people, so the trajectory is definitely upward. It's just hard to see when you're suddenly sucked into the city. It looks like everyone's poor and desperate, but that's not really how it is. Certainly, the factory conditions are really tough, and it's nothing you or I would want to do, but from their perspective, where they're coming from is much worse, and where they're going is hopefully much better, and I just wanted to give that context of what's going on in their minds, not what necessarily is going on in yours.
LC: Oh chắc chắn, chắc chắn rồi. Ý tôi là, bạn biết đấy, thật là thú vị, bởi vì tôi đã trải qua cơ bản hai năm sống tại thành phố này, Đông Quảng, và trong thời gian đó, bạn có thể thấy một sự thay đổi lớn trong cuộc sống của mọi người: lên, xuống, nghiêng ngả, nhưng nói chung là đi lên. Nếu bạn dành đủ thời gian cho nó, nó sẽ là phát triển đi lên, và tôi đã gặp những người chuyển đã lên thành phố 10 năm về trước, và họ , về cơ bản, đang thuộc tầng lớp trung lưu thành thị, Vì vậy, quỹ đạo là chắc chắn sẽ đi lên. chỉ là khó để nhìn thấy khi bạn chỉ quan sát thành thị vào những thời điểm nhất định. Có vẻ như tất cả mọi người thì người nghèo và tuyệt vọng, nhưng đó không thực sự như thế. Chắc chắn, các điều kiện tại nhà máy thì cứng rắn và khó khăn, và cả bạn hay tôi đều không muốn như thế, nhưng từ góc nhìn của người lao động, nơi họ xuất thân thì còn tồi tệ hơn nhiều, và nơi họ đang đi đến lại gieo rắc nhiều hy vọng tốt đẹp hơn, và tôi chỉ muốn nói rằng bối cảnh đó, về những gì đang xảy ra trong tâm trí họ, thì không hẳn là những gì mà bạn suy nghĩ về nó.
CA: Thanks so much for your talk. Thank you very much. (Applause)
CA: Cảm ơn rất nhiều vì bài nói chuyện của bạn. Cảm ơn rất nhiều. (Vỗ tay)