I want to tell you about a student of mine. A few weeks ago, she was on vacation when at 3am she got a phone call. It was her husband telling her that the city that she was in would be quarantined by 10am. She was in Wuhan, China. The epicenter of the coronavirus outbreak. By 8am she was on the road in a friend's car driving 500 miles to Shanghai Airport. The entire time, she was terrified the authorities would arrest her. She made it out on one of the last flights.
Tôi muốn kể với các bạn về một học trò của tôi. Vài tuần trước, cô đang đi nghỉ thì ba giờ sáng, cô nhận được điện thoại. Đó là chồng cô gọi bảo rằng thành phố cô đang ở sẽ bị cách li vào 10 giờ sáng. Cô đang ở Vũ Hán, Trung Quốc. Tâm chấn của đợt bùng phát virus corona. Vào tám giờ sáng, cô đã lên đường trên xe một người bạn lái 800 km đến sân bay Thượng Hải. Suốt chặng đường, cô lo sợ cơ quan chức năng sẽ bắt mình. Cô rời khỏi đó trên chuyến bay cuối cùng.
So we're all relieved that she's back home, safe in the US. But what if I told you she was in this room? What if I told you she was sitting next to you? There's no vaccine. There won't be a vaccine for at least 12 months. And this virus is mutating, so there's no guarantee that the vaccine that we produce 12 months from now will match the mutated virus. We're always playing catch-up. And this is the scenario we're in every time there's an outbreak. Our quarantines are porous, our medical responses are flat-footed.
Chúng tôi đều thở phào khi cô về đến nhà, bình an ở nước Mỹ. Nhưng nếu tôi nói cô ấy đang ở trong phòng này thì sao? Nếu tôi nói cô ấy đang ngồi cạnh bạn thì sao? Không có vắc-xin. Sẽ không có vắc-xin trong ít nhất 12 tháng. Và virus này đang biến đổi, nên không có gì bảo đảm rằng vắc-xin sản xuất sau 12 tháng tới sẽ phù hợp với virus đã biến đổi. Chúng ta luôn phải chơi rượt đuổi. Và đây là tình cảnh ta đều gặp phải mỗi lần bùng phát dịch. Hệ thống cách ly đầy lỗ hổng, phản ứng y tế chậm chạp.
The fundamental problem that we face in controlling these outbreaks is that viruses and other infections do two things really well: they mutate and they transmit. Our medical tools do neither of these two things. Our medical tools don't mutate or transmit. We have a fundamental mismatch between our tools, which are static, and the infections, which are dynamic. This mismatch is why we're always flat-footed. This mismatch is why we're playing catch-up. And this mismatch is universal. It's the reason that we have antibiotic-resistant infections that killed 40,000 Americans last year, and it's the reason that the flu vaccine couldn't prevent the flu from killing 60,000 Americans last year. So how do we resolve this fundamental mismatch?
Vấn đề căn bản ta đối mặt trong việc kiểm soát những đợt bùng phát này đó là virus và các bệnh truyền nhiễm khác làm rất giỏi hai việc: biến đổi và lây truyền. Công cụ y tế không làm được hai việc này. công cụ y tế không biến đổi hay lây truyền. Chúng ta có sự lệch pha cơ bản giữa một bên là công cụ luôn ở trạng thái tĩnh, và một bên là bệnh lây nhiễm luôn ở trạng thái động. Sự lệch pha này là lý do chúng ta luôn chậm chạp. Nó là lý do chúng ta luôn phải rượt đuổi. Và sự lệch pha này có khắp nơi. Nó là lí do mà ta có các bệnh nhiễm trùng kháng kháng sinh đã giết chết 40.000 người Mỹ năm ngoái, và nó là lí do vắc-xin cúm không thể ngăn chặn dịch cúm giết chết 60.000 người Mỹ năm ngoái. Vậy làm sao giải được bài toán lệch pha cơ bản này?
I've devoted my career to studying and solving this problem. For 100 years, we've used chemicals as drugs to treat infections. Chemicals will never mutate or transmit. Similarly, our vaccines are not designed to mutate or transmit. 20 years ago, I had a radical idea to use the viruses themselves as therapies -- as building blocks for therapies. To build therapies that could mutate and transmit. Let me share with you how we've had a major breakthrough, and we're already testing these new therapies.
Tôi đã dành cả sự nghiệp để nghiên cứu và giải bài toán này. Trong 100 năm, ta dùng hóa chất làm thuốc để chữa bệnh lây nhiễm. Hóa chất sẽ không bao giờ biến đổi hay lây truyền. Cũng vậy, vắc-xin không được tạo ra để biến đổi hay lây truyền. 20 năm trước, tôi đã có một ý tưởng cấp tiến dùng chính virus làm liệu pháp, làm nền tảng cho liệu pháp. Để xây dựng liệu pháp có thể biến đổi và lây truyền. Tôi sẽ chia sẻ với bạn cách chúng tôi đạt được đột phá lớn và chúng tôi đang thử nghiệm những liệu pháp mới này.
HIV is the most devastating pandemic of our era. 75 million infected; 33 million dead. Most of us think that HIV is a solved problem. We have truly amazing antiviral drugs: they're safe and effective, and we've spent 15 years and billions of dollars deploying these drugs around the world. So let's look at the numbers.
HIV là đại dịch kinh hoàng nhất trong thời chúng ta. 75 triệu người nhiễm; 33 triệu người chết. Đa số đều nghĩ HIV là bài toán đã có lời giải. Chúng ta có thuốc kháng virus tuyệt vời: an toàn và hiệu quả, và chúng ta mất 15 năm và hàng tỷ đô-la để triển khai những thuốc này trên toàn thế giới. Hãy nhìn vào các con số.
In 2019, 1.7 million people acquired HIV. This number only hit home for me last year when I visited this rural village outside of Durban, South Africa. I was driving along this dirt road with my 10-year-old daughter in the back seat, and walking next to us on the side of the road were girls, the same age as my daughter, barefoot. My daughter asked about why these girls are barefoot and I had to explain disparity to her, which was hard. But what really shocked me was when my colleagues, the local African scientists explained to me that these young girls the same age as my daughter --
Năm 2019, 1,7 triệu người nhiễm HIV. Con số này chỉ thực sự gây ảnh hưởng đến tôi năm ngoái khi tôi đến thăm một làng quê ngoại thành Durban, Nam Phi. Tôi đang lái xe trên đường đất với cô con gái mười tuổi ngồi phía sau, và đi cạnh chúng tôi trên vệ đường là những bé gái trạc tuổi con tôi, đang đi chân trần. Con gái tôi hỏi sao các bạn ấy lại đi chân trần và tôi phải giải thích sự khác biệt này cho nó, cực kỳ khó. Nhưng điều khiến tôi sốc nhất là khi các đồng nghiệp, các nhà khoa học Châu Phi, giải thích với tôi rằng những bé gái trạc tuổi con tôi
(Breathes)
(Hít sâu)
sorry -- had an 80 percent chance of acquiring HIV in their lifetime. It blew me away. How can these girls have an 80 percent risk if we have safe and effective drugs?
xin lỗi... có 80% nguy cơ bị nhiễm HIV trong đời. Tôi sửng sốt. Làm sao mà những bé gái này lại có 80% nguy cơ nhiễm khi chúng ta đã có thuốc an toàn và hiệu quả?
The reason is the fundamental mismatch. It creates barriers to controlling infectious disease, particularly in resource-limited settings. The first barrier is mutation: viruses mutate, our drugs don't. The second barrier: adherence. It's really hard to get these drugs to those who need the most. I can't even adhere to a week-long antibiotic regimen in this country. We're asking those in resource-limited settings who face enormous adversity to adhere to lifelong regimens.
Lý do nằm ở vấn đề lệch pha cơ bản. Nó tạo ra những rào cản để kiểm soát các bệnh truyền nhiễm, đặc biệt tại những nơi thiếu thốn điều kiện. Rào cản đầu tiên là sự biến đổi: virus biến đổi, thuốc thì không. Rào cản thứ hai: sự tuân thủ. Rất khó để có thể đưa thuốc đến những người cần nhất. Tôi thậm chí không thể theo phác đồ điều trị kháng sinh một tuần ở nước này. Chúng ta đòi hỏi những nơi thiếu thốn, hoàn cảnh vô cùng éo le, phải tuân thủ các phác đồ điều trị cả đời.
And the third barrier is deployment, or access. It's super hard to get these drugs to those who need them most. Not these girls but those who engage in high-risk activities, such as commercial sex work and injection drug use. In the epidemiological parlance, these groups are called "super-spreaders." And in the 1900s, a small subset of super-spreaders drove HIV along the Trans-Africa Highway and spread the virus through the continent like this. These groups are exceptionally hard to identify, they're small, they face enormous social stigma so they don't self-identify and they're the ones we need to get to the most. All of these barriers combined created the situation we have today, where greater than 15 percent of people in Southern Africa live with HIV.
Và rào cản thứ ba là sự triển khai hay khả năng tiếp cận. Cực kỳ khó để đưa thuốc đến được tay những người cần nhất. Không phải mấy em bé này mà là người tham gia các hoạt động rủi ro cao như nghề mại dâm hay tiêm chích ma túy. Theo cách nói của dịch tễ học, những nhóm này được gọi là “người siêu lây nhiễm”. Và trong những năm 1900, một tập hợp con của nhóm siêu lây nhiễm đã mang HIV dọc Cao tốc Xuyên Phi và lan truyền virus khắp Châu Phi như thế này. Những nhóm này cực kỳ khó xác định, những nhóm nhỏ, họ bị xã hội kỳ thị rất nhiều nên họ không tự xác nhận mà họ là những người chúng ta cần tiếp cận nhất. Tất cả những rào cản này hợp lại tạo thành tình cảnh hiện nay với hơn 15% dân số Nam Phi sống chung với HIV.
Now, conventional wisdom is: what we need to do is get more drugs to more people more effectively. I'd argue we need to solve the fundamental mismatch; we need to eliminate these barriers. If we can build therapies that mutate and transmit, we can overcome drug resistance, overcome adherence barriers, and if we do it properly, we will convert the super-spreaders from the greatest barrier to the most powerful deployment strategy that we can imagine.
Thông thường thì việc ta cần làm là đưa nhiều thuốc đến tay nhiều người một cách hiệu quả hơn. Nhưng tôi cho rằng ta cần giải quyết bài toán bất xứng cơ bản; ta cần xóa bỏ những rào cản kia. Nếu xây dựng được liệu pháp có thể biến đổi và lây truyền, ta có thể vượt qua rào cản kháng thuốc, rào cản tuân thủ thuốc, và nếu làm đúng, ta sẽ biến người siêu lây nhiễm từ rào cản lớn nhất thành chiến thuật phân phối mạnh nhất chưa từng có.
This is a radical concept. It has huge potential payoff, but there's a catch. And it's serious. Before we deploy a therapy that may transmit, even if it's only in a limited population of already infected individuals, before we do this, we need to be exceptionally careful, and we need to test safety in the most rigorous ways possible. The reason I'm here today is because for the first time 20 years, we got it to work, and this is the first time I'm sharing it publicly.
Đây là một quan điểm cấp tiến. Tiềm năng mang lại rất lớn, nhưng có một nhược điểm. Rất nghiêm trọng. Trước khi triển khai một liệu pháp có thể lây truyền, kể cả khi chỉ giới hạn trong nhóm những người đã bị nhiễm, trước khi ta làm vậy, ta cần phải đặc biệt cẩn trọng, và cần kiểm tra tính an toàn hết sức nghiêm ngặt. Lí do tôi ở đây hôm nay là vì đây là lần đầu tiên trong 20 năm, chúng tôi đã làm được, và đây là lần đầu tiên tôi chia sẻ nó công khai.
(Applause and cheers)
(Vỗ tay và hoan hô)
Last two times I did this I cried, so --
Hai lần trước tôi đã khóc...
(Laughter)
(Tiếng cười)
So in order to help you understand this breakthrough, let me take you back 20 years to 1999. I was a graduate student in Berkeley, California, studying the biophysics of HIV. For such a complex epidemic, the simplicity of this virus fascinated me. HIV, like all viruses, is just an instruction set -- malware. It hijacks a cell and converts that cell into a factory to do one thing: single-mindedly churn out more virus. All the normal functions of the cell get wiped away. HIV infects the white blood cell that keeps us healthy. This cell has already been hijacked and converted into a factory. And if we magnify, we can see the anatomy of the virus. Those squiggly red lines in the middle? That's HIV's instruction set. Its genetic material.
Vậy để giúp các bạn hiểu đột phá này, chúng ta hãy lùi về 20 năm trước, năm 1999. Tôi đang học đại học Berkeley, California, ngành nghiên cứu lý sinh HIV. Với một bệnh dịch phức tạp vậy, tính đơn giản của virus này cuốn hút tôi. Như mọi virus, HIV chỉ là một tập lệnh, một phần mềm độc hại. Nó xâm nhập tế bào và biến tế bào đó thành nhà máy chỉ làm một việc: tập trung sản xuất thêm nhiều virus. Mọi chức năng bình thường của tế bào bị quét sạch. HIV tấn công tế bào bạch cầu bảo vệ cơ thể. Tế bào này đã bị xâm nhập và bị biến thành nhà máy. Và nếu phóng to lên, ta có thể thấy cấu trúc của virus này. Những đường đỏ ngoằn ngoèo ở giữa là gì? Đó là tập lệnh của HIV. Là vật chất di truyền.
This genetic material directs the hijacking process, converting that cell into a factory first to make more copies of the instruction set, and then all the other components of the virus and assemble them into a particle. This is how the virus replicates. Each of these particles can go in and hijack a new cell. This is how the virus transmits. And every time a cell is hijacked, little mistakes are made in copying the genetic material. That's how the virus mutates. This ability to replicate, transmit and mutate is something that our current drugs cannot do.
Vật chất di truyền này chỉ đạo quá trình xâm nhập tế bào, biến tế bào đó thành nhà máy đầu tiên để nhân bản thêm nhiều tập lệnh, rồi các thành phần khác của virus sau đó hợp chúng lại thành phần tử. Đây là cách virus nhân bản. Mỗi phần tử này có thể xâm nhập và chiếm lấy tế bào mới. Đó là cách virus này lây truyền. Và mỗi khi một tế bào bị xâm nhập, những lỗi nhỏ xảy ra khi sao chép vật chất di truyền. Đó là cách virus biến đổi. Khả năng nhân bản, lây truyền và biến đổi này là cái mà thuốc hiện nay chưa làm được.
So, being young and naïve and a little bit ignorant, I thought: why can't we create therapies that mutate and transmit and replicate? Here was the idea. If we can take the virus and engineer it to amputate the genetic material in blue here, this amputated instruction set can no longer hijack a cell. But this amputated instruction set can do something very special. In an already infected cell, this amputated instruction set can hijack the hijacker. It can commandeer HIV's machinery to make more copies of itself, the amputated instruction set, and then each of these copies can steal all of HIV's other components so that the cell gets converted from a factory that produces virus to a factory that produces therapy. Hijackers. These carry no disease. This dramatically lowers HIV levels and keeps the cell healthier.
Còn trẻ, ngây thơ và hơi ngờ nghệch, tôi nghĩ: sao ta không tạo ra liệu pháp có thể biến đổi, lây truyền và nhân bản? Ý tưởng như sau. Nếu ta có thể lấy virus và cắt cụt vật chất di truyền, phần màu xanh ở đây, tập lệnh bị cắt cụt này sẽ không thể xâm nhập tế bào nữa. Nhưng tập lệnh bị cắt cụt này có thể làm một việc rất đặc biệt. Trong một tế bào đã bị nhiễm, tập lệnh bị cắt cụt này có thể xâm nhập kẻ xâm nhập. Nó có thể trưng dụng bộ máy của HIV để nhân bản chính nó, tập lệnh bị cắt cụt, và rồi mỗi bản sao này lại chiếm tất cả thành phần khác của HIV để biến tế bào từ một nhà máy sản xuất virus thành một nhà máy sản xuất liệu pháp. “Không tặc”. Chúng không mang bệnh tật. Nó giảm đáng kể mức độ HIV và giúp tế bào khỏe hơn.
This idea consumed me for months. It was the most intense intellectual experience of my life. On every bike ride to lab, on every walk to the coffee shop, on every run in the hills above campus, the ideas, the arguments, the counterarguments, they all came so rapidly in my head, in my inner monologue, that I was physically out of breath. I thought if we can create a therapy that replicates, it would only need to be taken once. It could mutate along with the virus and possibly it could transmit between infected individuals to treat them. It was a therapy that could do all of the things that the virus could do. It solved the fundamental mismatch.
Ý tưởng này đã ám ảnh tôi hàng tháng trời. Đó là trải nghiệm trí tuệ dữ dội nhất trong đời tôi. Mỗi khi đạp xe đến phòng thí nghiệm, mỗi khi đi bộ đến quán cà phê, mỗi khi chạy lên đồi sau trường, những ý tưởng, những lập luận, những phản biện, ập đến trong đầu, trong độc thoại nội tâm của tôi nhanh dồn dập đến nổi tôi muốn nghẹt thở. Tôi nghĩ nếu ta có thể tạo ra liệu pháp nhân bản, nó sẽ chỉ cần dùng một lần. Nó có thể biến đổi cùng virus và có thể lây truyền giữa những người nhiễm để chữa cho họ. Đó là liệu pháp có cơ chế tác động giống như virus. Nó giải được bài toán bất xứng.
The most radical part of this concept was that the super-spreaders would also be converted from transmitting the virus to now transmitting the therapy. It was a therapy that would go viral along with the virus. This scared some people. But there's already a precedent: we already inadvertently use therapies that transmit. The vaccine that eradicated polio in the US, the oral polio vaccine, transmits between people. It's not well-known, but the fact that this vaccine transmits is part of the reason that it was chosen for the worldwide eradication effort despite its safety issues.
Phần cấp tiến nhất của ý tưởng này đó là những người siêu lây nhiễm cũng sẽ bị biến đổi từ người lây truyền virus sang người lây truyền thuốc chữa. Đó là loại thuốc có thể lây lan cùng virus. Điều đó khiến vài người sợ. Nhưng đã có một tiền lệ: chúng ta đã vô tình dùng thuốc chữa lây truyền. Vắc-xin xóa sổ bệnh bại liệt ở Mỹ, vắc-xin bại liệt đường miệng, lây truyền giữa người với người. Dù không nhiều người biết nhưng việc vắc-xin này lây truyền là một phần lí do mà nó được chọn cho nỗ lực xóa sổ bại liệt toàn cầu bất chấp vấn đề an toàn của nó.
So the bigger problem was that these hijacker therapies didn't exist. My Berkeley advisors said to me, "Lovely idea, so sad it will never work," or, "Regulators will never allow it, drop it." But the idea wouldn't drop me.
Vấn đề lớn hơn đó là loại thuốc “không tặc” này không tồn tại. Cố vấn ở trường Berkeley bảo tôi: “Ý tưởng hay, tiếc thay không bao giờ làm được”, hay "Cơ quan quản lý đời nào cho phép, bỏ đi." Nhưng ý tưởng này không bỏ tôi.
If it ever worked, it would solve the fundamental mismatch. So we tried for years to build it. We tried every trick in the book and failed over and over again. We -- every time we thought we had a good idea, we'd spend months, sometimes years working on it only to come up empty. We once spent five years building 150,000 versions of a hijacker therapy. Every single one failed. I once asked a really bright student what he hoped to learn from me during his PhD --
Nếu làm được, nó sẽ giải được bài toán bất xứng. Chúng tôi cố gắng hàng năm trời để xây dựng nó. Chúng tôi thử đủ mọi cách trong sách và thất bại hết lần này đến lần khác. Chúng tôi... cứ mỗi khi chúng tôi có ý tưởng hay, chúng tôi lại dành hàng tháng, có khi hàng năm trời cho nó chỉ để thu về tay trắng. Có lần chúng tôi dành năm năm xây dựng 150.000 phiên bản thuốc “không tặc”. Cái nào cũng hỏng. Tôi từng hỏi một sinh viên rất sáng dạ muốn học hỏi gì từ tôi trong khóa học tiến sĩ...
(Laughter)
(Tiếng cười)
And he replied, "How to keep going, how to continue moving forward despite zero evidence that there's anything there."
Cậu ta trả lời: "Làm sao để tiếp tục, làm sao để đi tiếp về phía trước dù chẳng có gì chứng minh phía trước có gì đó.”
(Laughter)
(Tiếng cười)
I wonder if he was trying to tell me something.
Chắc cậu ta muốn ám chỉ gì đó.
(Laughter)
(Tiếng cười)
By 2018, things looked bad. There was no evidence that a hijacker therapy could be engineered. In fact, we had evidence that it might be impossible. It was time to face the hard truth. This solution that I'd wanted so badly, this hijacker therapy just didn't exist. For 20 years, I had been chasing a ghost.
Năm 2018, tình hình rất xấu. Không có bằng chứng cho thấy có thể thiết kế thuốc “không tặc”. Thật ra, chúng tôi có bằng chứng rằng việc đó có thể bất khả thi. Đến lúc đối diện sự thật phũ phàng. Giải pháp tôi cực kỳ muốn có, thuốc chiếm quyền, không tồn tại. Suốt 20 năm, tôi đã đuổi theo một cái bóng.
Then one day, Elizabeth, a postdoc in my lab, came to me with this picture. It doesn't look like much. My wife thinks it looks like a pregnancy test.
Rồi một ngày nọ, Elizabeth, nghiên cứu sinh ở phòng thí nghiệm, đưa tôi bức ảnh này. Nhìn không giống cho lắm. Vợ tôi nghĩ nó giống que thử thai.
(Laughter)
(Tiếng cười)
But this little band down here -- that was the amputated genetic material that we had been looking for for 20 years. The entire time that we had been trying to build it and failing, it had evolved by itself in a flask in the back of the lab.
Nhưng vạch nhỏ dưới đây, chính là vật chất di truyền bị cắt cụt mà chúng tôi đã tìm kiếm 20 năm qua. Suốt thời gian chúng tôi cố gắng xây dựng nó và thất bại, nó đã tự tiến hóa trong một chiếc bình ở cuối phòng thí nghiệm.
(Audience) What?
(Khán giả) Cái gì?
(Laughter)
(Tiếng cười)
We finally had a foothold. And we used this to build the first hijacker. But we had no evidence that what we built was a therapy.
Cuối cùng cũng có chỗ đứng. Và chúng tôi dùng cái này để xây dựng “không tặc” đầu tiên. Nhưng chúng tôi không có bằng chứng rằng cái chúng tôi đang làm là liệu pháp.
The first hurdle that any therapy has to clear is testing in a mouse. It can be risky. In our case, if our mice died, so did our funding, and with it, any hopes of this becoming a therapy, let alone a transformative one. After so many failures, we were all pretty skeptical but we didn't really have an alternative. We had to give it a shot; we had to try.
Rào cản thứ nhất một liệu pháp phải vượt qua là thử nghiệm trên chuột. Việc này rất rủi ro. Trong trường hợp tôi, nếu chuột chết thì tài trợ cũng đi tong, và hy vọng biến nó thành liệu pháp, chưa nói đến tính lây truyền, coi như cũng tan tành. Sau rất nhiều thất bại, chúng tôi khá hoài nghi nhưng thật sự không có lựa chọn. Chúng tôi phải thử.
Amazingly, the hijacker therapy worked in a mouse, and it worked exactly as we'd predicted 20 years before. It protected the cells in a mouse from HIV. Here are the cells under a microscope. First, HIV in red infects those cells, and then the hijacker, in blue, can be activated, protects those cells and transmits to other cells. We'd finally built the hijacker after 20 years. Everyone in the lab was elated. For me, this was proof of concept. If we could do it for one virus we could do it for others.
Tuyệt thay, liệu pháp chiếm quyền có tác dụng trên chuột, và nó hoạt động chính xác như những gì chúng tôi dự đoán 20 năm trước. Nó bảo vệ tế bào trong chuột khỏi HIV. Đây là các tế bào dưới kính hiển vi. Đầu tiên, HIV màu đỏ lây nhiễm các tế bào, sau đó “không tặc”, màu xanh, có thể được kích hoạt, bảo vệ các tế bào đó và lây truyền sang tế bào khác. Chúng tôi cuối cùng đã tạo ra được kẻ chiếm quyền sau 20 năm. Ai trong phòng thí nghiệm đều phấn khởi. Với tôi, đây là bằng chứng cho ý tưởng. Nếu ta có thể làm với một virus, ta có thể làm cho virus khác.
To understand how this hijacker might impact HIV levels worldwide, we ran computer simulations. Epidemiological models. And the results were pretty amazing. If we do nothing in the hardest-hit parts of Africa, HIV prevalence will stay between 25 and 30 percent. If we manage to introduce drugs to three-quarters of the population or if we ever get the long-sought-after vaccine, we would reduce those numbers down to 20 percent. But those are best-case scenarios. If HIV evolves resistance or if people change their behaviors, these numbers could go right back up to 30 percent or even beyond. The blue is the hijacker therapy. And we've not found a way, either theoretically or experimentally, that HIV can evolve resistance to the hijacker.
Để hiểu được tác động của kẻ chiếm quyền này với mức độ HIV toàn cầu, chúng tôi chạy giả lập máy tính. Các mô hình dịch tễ học. Và kết quả khá khả quan. Nếu chúng ta không làm gì ở những vùng khó khăn nhất của châu Phi, tỷ lệ nhiễm HIV sẽ dao động trong khoảng từ 25% đến 30%. Nếu chúng ta đưa được thuốc đến tay 3/4 dân số, hoặc nếu ta tìm được vắc-xin hiếm có khó tìm, chúng ta sẽ giảm được những con số đó xuống còn 20%. Nhưng đó là những triển vọng tốt nhất. Nếu HIV phát triển khả năng chống cự hay nếu con người thay đổi hành vi, con số này có thể tăng lên ngay 30% hay thậm chí hơn. Màu xanh là liệu pháp chiếm quyền. Và chúng tôi vẫn chưa thấy, trong lý thuyết hay thực nghiệm, khả năng HIV có thể phát triển kháng cự với kẻ chiếm quyền.
The reason this hijacker works so well is the super-spreaders. If the hijacker is introduced in one place over here, the super-spreaders can pick it up and transmit it through the population. Imagine if 10 years from now, HIV is no longer a pandemic.
Lý do liệu pháp này hiệu quả là nhờ nhóm siêu lây nhiễm. Nếu liệu pháp này được áp dụng một nơi tại đây, người siêu lây nhiễm có thể nhận và truyền nó sang người khác. Hãy tưởng tượng 10 năm nữa, HIV sẽ không còn là đại dịch.
To get there, we have to start large-scale clinical trials in five years, which means initial human tests next year. The FDA has cleared us to start testing in HIV-positive patients who have a terminal cancer and have less than a year left to live. Volunteering for this trial is their last incredibly generous gift to the world. They're called the "Last Gift cohort." And to test in these altruistic patients next year, we have to finish our preclinical tests this year ... and I think we will.
Để đến đó, chúng ta phải bắt đầu thử nghiệm lâm sàng diện rộng trong năm năm, nghĩa là bắt đầu thử nghiệm trên người năm sau. Cục FDA đã cấp phép cho chúng tôi bắt đầu thử nghiệm trên bệnh nhân HIV đang mắc ung thư giai đoạn cuối và còn sống được chưa đầy một năm. Tình nguyện thử nghiệm là món quà hào phóng tuyệt vời cuối cùng họ dành cho thế giới. Họ được gọi là “Đội quân Món quà Cuối cùng”. Và để thử nghiệm trên những bệnh nhân vị tha này năm sau, chúng tôi phải xong thử nghiệm tiền lâm sàng năm nay... và tôi nghĩ là được.
I still meet colleagues who push back and are stridently opposed to letting us move forward with testing. They say, "What if something goes wrong? You can't unrelease it." They say, "There are ethical issues; people can't consent." Well, oral polio vaccine faced similar ethical and safety concerns. In fact, oral polio vaccine faced such an effective misinformation campaign that most people still don't know that it transmits, that it successfully eradicated polio in many countries or that this vaccine is the basis for new vaccines. When we presented this hijacker therapy idea in Africa last year, the African scientists had a different response. They said, "How can you not test this?" They said it's unethical to not test it. So even though we might fail, I think the stakes are too high not to try. If we do nothing, those girls outside of Durban will acquire HIV, and the next time that there's a new virus that emerges, we'll be in the same vulnerable position that we are today with quarantines that are porous and vaccines that we need to wait months for that may not match.
Tôi vẫn đi gặp đồng nghiệp hay bàn lùi và phản đối gay gắt việc cho phép chúng tôi đi tiếp với thử nghiệm. Họ nói: “Nếu lỡ có chuyện gì thì sao? Anh đâu có thể quay lại." Họ nói: “Có vấn đề đạo đức; người ta không thể đồng ý". Vắc-xin uống chống bại liệt cũng gặp quan ngại đạo đức và an toàn tương tự. Thật ra, vắc-xin bại liệt gặp phải chiến dịch thông tin sai lệch hiệu quả đến nỗi đa phần vẫn không biết rằng nó lây truyền, rằng nó đã xóa sổ thành công bại liệt ở nhiều nước hay rằng vắc-xin này là nền tảng cho vắc-xin mới. Khi trình bày ý tưởng liệu pháp xâm nhập này ở châu Phi năm ngoái, giới khoa học châu Phi đã có những phản ứng trái nhau. Họ nói: “Sao anh không thể thử nghiệm nó?” Họ nói thật phi đạo đức nếu không thử nghiệm nó. Vậy là ngay cả khi có thể thất bại, tôi nghĩ nếu không thử thì nguy cơ còn cao hơn. Nếu chúng ta không làm gì, những cô bé ngoài Durban sẽ bị nhiễm HIV, và lần sau nếu có virus mới xuất hiện, chúng ta sẽ lại lâm vào thế bị động như hiện nay với hệ thống cách ly đầy lỗ hổng và vắc-xin phải đợi hàng tháng trời mà có thể chưa phù hợp.
I think it's time for a new approach that's different than the static approaches of the last century. It's time for a new technology that is less reactive and more proactive. I think it's time for treatments that don't just benefit the most affluent among us but also those who face the greatest adversity. I think it's time for a new type of weapon that matches, or that solves the fundamental mismatch. I think it's time for therapies that can go viral.
Tôi nghĩ đã đến lúc cho hướng đi mới khác biệt với phương pháp thụ động của thế kỷ qua. Đã đến lúc cho một công nghệ mới bớt thụ động mà thay vào đó chủ động hơn. Đã đến thời của cách điều trị không chỉ có lợi cho những người giàu có nhất mà còn những người có hoàn cảnh éo le nhất. Đã đến thời của loại vũ khí mới phù hợp, hay giải quyết bài toán bất xứng cơ bản. Tôi nghĩ đến thời của các liệu pháp có thể lây lan.
Thank you very much.
Xin cảm ơn rất nhiều.
(Applause)
(Tán dương)