[This talk contains mature content]
[Có chứa các nội dung người lớn]
In 1969, I was standing behind a Sylvania black-and-white television set. Hearing about these things happening on the set in the front, I was the guy, you know, moving the rabbit ears for my dad, and my sister and my mom. "Move over here, turn over here, move this way, we can't see the screen." And what they were watching was: "One small step for a man, one giant leap for mankind." Neil [Armstrong] and Buzz Aldrin were walking on the Moon. And I was five years old in Lynchburg, Virginia, a skinny black kid in a kind of somewhat racist town. And I was trying to figure out what I was going to do with my life. And my parents, you know, they were educators, they'd said that you can do anything. But after that moon landing, all the kids in the neighborhood were like, "You're going to be an astronaut?" I'm like, "No." I don't want a buzz cut, and I don't see someone who looks like me. Because representation does matter.
Hồi năm 1969, tôi vừa đứng sau Dàn tivi Sylvania đen trắng Vừa nghe xem chương trình nói gì Kiểu, tôi là cái đứa chỉnh bộ thu sóng hộ bố, mẹ, chị. “Qua đó đi, quay lại đây, Qua bên kia, cả nhà không thấy gì cả.” Và thứ bọn họ đang xem là “Một bước đi ngắn của một người, Một bước nhảy vọt của nhân loại.” Neil [Armstrong] và Buzz Aldrin Đang bước trên Mặt Trăng Lúc đấy tôi 5 tuổi Sống ở Lynchburg, Virgina Một đứa nhóc da đen gầy còm Trong cái thị trấn hơi phân biệt chủng tộc Tôi đang cố nghĩ xem Mình nên làm gì với đời mình. Bạn biết đấy, bố mẹ tôi là giáo viên Họ luôn nói bạn có thể làm bất cứ điều gì. Nhưng sau lần hạ cánh xuống Mặt Trăng ấy, Lũ trẻ trong phố kiểu, “Cậu có định làm phi hành gia không?” Tôi kiểu, “Không nhá.” Tôi không muốn cắt tóc húi cua, Và tôi không thấy ai như mình. Cái gì tiêu biểu cũng quan trọng.
And I knew that there was a guy five blocks down the street on Pierce Street who was training to play tennis. And it was Arthur Ashe. And my dad talked about his character, his discipline, his intelligence, his athleticism. I wanted to be Arthur Ashe, I didn't want to be one of those moon guys.
Tôi biết có cậu chàng này Sống trên phố Pierce cách đây năm dãy nhà Cậu ấy đang tập chơi tennis. Tên cậu là Arthur Ashe. Bố tôi nói suốt về cậu ấy, về tính cách, tính kỷ luật trí thông minh, tinh thần thể thao. Tôi muốn là Arthur Ashe, Tôi không muốn là cậu bé Mặt Trăng
And as I went on through this journey, my dad, who was a school teacher, he played in a band, he did all these things to make money for my sister and I to take piano lessons and do these different things with education. And he one day decides to drive up into the driveway with this bread truck. And I'm thinking, "OK, bread truck, me delivering bread while my dad's driving the truck." I'm like, "OK, I'm going to be a bread guy now." But he says, "This is our camper." I'm like, "Dude, come one, I can read: 'Merita Bread and Rolls' on the side of this truck. And he says, "No, we're going to build this into our camper." And over that summer, we rewired the entire electrical system. We plumbed a propane tank to a Coleman stove, we built bunk beds that flip down. We were turning this into our summer vacation launch pad, escape pod, this thing that could take us out of Lynchburg.
Rồi khi tôi tiếp tục hành trình, Bố tôi, ông vừa là một giáo viên, Vừa chơi cho một ban nhạc, Ông làm mọi thứ để kiếm tiền Chi trả cho lớp học piano Của tôi và chị Và cả những thứ khác trong học tập. Rồi ngày nọ ông bỗng Lái một cái xe bánh mì đến trước nhà. Thế là tôi nghĩ, “Ờ, xe bánh mì, Mình phát bánh còn bố lái xe.” Tôi kiểu, “Ổn, giờ mình là người bánh mì.” Nhưng ông lại nói, ”Đây là trại của chúng ta.” Tôi kiểu, “Ầy thôi, con đọc được đấy: ‘Bánh mì ổ Merita’ Ngay bên hông cái xe. Thế là ông đáp, “Không đâu, Bố con mình sẽ biến nó thành trại.” Vậy là nguyên hè ấy, bọn tôi nối lại Toàn bộ hệ thống điện. Bọn tôi bơm một thùng khí propane Cho cái bếp dã ngoại Coleman, Bọn tôi làm giường tầng xếp lại được. Biến chiếc xe thành bệ phóng mùa hè, Thành tàu thoát hiểm Thứ có thể đưa bọn tôi rời Lynchburg.
And before that, I was actually raped at five by some neighbors. And I didn't tell anyone, because I had friends that didn't have fathers. And I knew that my father would have killed the people that did that to his son. And I didn't want my father to be gone.
Thật ra trước đó một thời gian, Tôi, 5 tuổi, bị vài hàng xóm xâm hại. Tôi không kể với ai cả, Vì tôi có vài đứa bạn không có bố. Và tôi biết chắc rằng, bố tôi Ông sẽ giết lũ người Làm chuyện đó với con trai mình. Và tôi không muốn mất đi bố.
So as we got in this bread truck and escaped from Lynchburg, it was my time with my dad. And we went to the Smoky Mountains and looked at the purple mountains' majesty. And we walked along the beach in Myrtle Beach, and this thing was transformative. It showed me what it meant to be an explorer, at a very early age. And I suppressed all that negativity, all that trauma, because I was learning to be an explorer.
Thế nên bọn tôi lên chiếc xe bánh mỳ Và thoát khỏi Lynchburg, Khoảng thời gian ấy là của riêng tôi và bố Rồi bọn tôi đến dãy Smoky Ngắm nhìn dãy núi đỏ tía hùng vĩ. Và tản bộ dọc bờ biển Myrtle. Chuyện đó thay đổi mọi thứ. Nó khiến tôi hiểu nhà thám hiểm là gì, Khi tôi vẫn còn bé xíu. Tôi kìm nén được mọi điều tiêu cực, mọi tổn thương, Vì tôi đang học để trở thành nhà thám hiểm
And a little bit later, my mother gave me an age-inappropriate, non-OSHA-certified chemistry set,
Sau đó một thời gian, Mẹ tôi cho tôi một bộ đồ chơi hóa học Sai-độ-tuổi, Không-kiểm-định-an-toàn,
(Laughter)
(Tiếng cười)
where I created the most incredible explosion in her living room.
Nhờ nó mà tôi tạo ra vụ nổ vĩ đại Trong phòng khách của bà.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And so I knew I could be a chemist. So as I went on this journey through a high school, and I went to college, and I got a football scholarship to play football in college. And I knew that I could be a chemist, because I'd already blown stuff up.
Thế là tôi biết tôi có thể là nhà hóa học. Rồi hành trình tiếp tục Suốt thời cấp ba, Đến khi vào đại học, Tôi được nhận học bổng bóng bầu dục Để chơi bóng ở trường. Tôi biết tôi có thể thành nhà hóa học Vì tôi đã cho nổ tung vài thứ.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And when I graduated, I got drafted to the Detroit Lions. But I pulled a hamstring in training camp, and so what every former NFL player does, they go work for NASA, right? So I went to work for NASA.
Khi tôi tốt nghiệp, Tôi được đội Detroit Lions gọi, Nhưng trong đợt huấn luyện, Tôi bị đứt dây chằng, Thế mấy cựu cầu thủ NFL làm gì, Họ đến làm cho NASA, nhỉ? Nên tôi đến làm cho NASA.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And this friend of mine said, "Leland, you'd be great astronaut." I just laughed at him, I was like, "Yeah, me, an astronaut?" You know that Neil and Buzz thing from back in '69? And he handed me an application, and I looked at it, and I didn't fill it out. And that same year, another friend of mine filled out the application and he got in. And I said to myself, "If NASA's letting knuckleheads like that be astronauts,"
Có cậu bạn này của tôi bảo, “Leland, ông sẽ là phi hành gia cực đỉnh.” Tôi cười vào mặt cậu ấy, Tôi kiểu, “Ờ, tôi, phi hành gia á?” Mọi người biết vụ Neil Buzz Hồi năm 69, nhỉ? Rồi cậu đưa tôi đơn đăng ký, Rồi tôi nhìn nó, Rồi tôi chả điền gì. Thế rồi cũng cùng năm ấy Một người bạn khác của tôi nộp đơn. Và cậu ta được nhận Nên tôi nói với bản thân là, “Nếu NASA để đứa đầu đất như thế Làm phi hành gia,”
(Laughter)
(Tiếng cười)
"maybe I can be one, too."
“Thì chắc mình cũng có thể.”
So the next selection, I filled out the application, and I got in. And I didn't know what it meant to be an astronaut: the training, the simulations, all these things to get you ready for this countdown: three, two, one, liftoff. And in 2007, I was in Space Shuttle "Atlantis," careening off the planet, traveling at 17,500 miles per hour. And eight and a half minutes later, the main engines cut off, and we're now floating in space. And I push off and float over to the window, and I can see the Caribbean. And I need new definitions of blue to describe the colors that I see. Azure, indigo, navy blue, medium navy blue, turquoise don't do any justice to what I see with my eyes.
Vậy nên ở lần tuyển chọn kế tiếp, Tôi nộp đơn và được nhận. Hồi ấy, tôi còn không hiểu rõ Là phi hành gia thì thế nào Những buổi tập huấn, mô phỏng Mọi thứ chỉ để bạn sẵn sàng cho Khoảnh khắc đếm ngược này: Ba, hai, một, phóng. Năm 2007, tôi nằm trong tàu con thoi “Atlantis,” Tăng tốc rời khỏi hành tinh này, Du hành với vận tốc 17.500 dặm một giờ. Tám phút ba mươi giây sau, Động cơ chính tách rời, Và bọn tôi trôi nổi trong vũ trụ. Tôi đẩy người, trôi đến gần cửa sổ, Và tôi có thể thấy cả vùng biển Caribbean. Tôi cần từ mới về màu xanh để miêu tả Thứ màu sắc tôi được thấy lúc ấy. Xanh thiên thanh, chàm, xanh tím than, Xanh dương đậm, xanh ngọc lam Không gì mô tả được điều tôi thấy.
And my job on this mission was to install this two-billion dollar Columbus laboratory. It was a research laboratory for materials research, for human research. And I reached into the payload bay of the space shuttle, grabbed out this big module, and I used the robotic arm and I attached it to the space station. And the European team have been waiting 10 years for this thing to get installed, so I'm sure everyone in Europe was like, "Leland! Leland! Leland!"
Việc của tôi trong nhiệm vụ lần ấy là Lắp đặt trạm thí nghiệm Columbus Giá hai tỷ đô. Nó là phòng thí nghiệm nghiên cứu Chuyên dùng cho nghiên cứu Vật liệu, con người Tôi thả nổi đến khoang chứa Của tàu con thoi Tóm lấy cái module siêu khủng Rồi tôi dùng cánh tay robot Để nối nó với trạm không gian Mấy bạn Châu Âu đã chờ tận 10 năm Để thấy ngày thứ này được lắp đặt, Nên tôi khá chắc nhóm Châu Âu kiểu, “Leland! Leland! Leland!”
(Laughter)
(Tiếng cười)
And so this moment happened, this was our primary mission objective, it was done. And I had this big sigh of relief. But then, Peggy Whitson, the first female commander, she invited us over to the Russian segment. And the space station's about the size of a football field, with solar panel and trusses and all of these modules. And she says, "Leland, you go get the rehydrated vegetables, we have the meat." So we float over with the bag of vegetables, all rehydrated, and we get there.
Rồi khoảnh khắc ấy diễn ra, Mục tiêu chính của nhiệm vụ lần này. Lắp đặt thành công. Tôi thở phào trong nhẹ nhõm Sau ấy thì, Peggy Whitson, Vị chỉ huy nữ đầu tiên, Cô ấy mời chúng tôi đến khu của Nga. Trạm không gian lớn cỡ sân bóng bầu dục, Với đầy những tấm năng lượng Mặt Trời, Giàn tích hợp và module. Cô nói thế này, “Leland, anh đi ngâm Mấy thứ rau củ khô nhé, Bọn tôi có thịt đây.” Sau đó chúng tôi trôi nổi với Mấy túi rau củ đã được ngâm. Và rồi bọn tôi đến nơi.
And there's this moment where I get [transported] back to my mother's kitchen. You can smell the beef and barley heating up, you can smell the food, the colors, and there are people there from all around the world. It's like a Benetton commercial, you know, you have African American, Asian American, French, German, Russian, the first female commander, breaking bread at 17,500 miles per hour, going around the planet every 90 minutes, seeing a sunrise and a sunset every 45. And Peggy would say, "Hey, Leland, try some of this," and she'd float it over to my mouth, and I'd catch it and we'd go back and forth. And we're doing all of this while listening to Sade's "Smooth Operator."
Khoảng khắc ấy Tôi như [dịch chuyển] về với Căn bếp của mẹ. Bạn ngửi thấy mùi thịt bò Và lúa mạch đang được nấu. Bạn ngửi thấy mùi thức ăn, những sắc màu, Và cả những người từ Khắp các nơi trên thế giới. Cứ như thể quảng cáo của Benetton vậy, Mọi người biết đấy, ta có Mỹ gốc Phi, Mỹ gốc Á, Pháp, Đức, Nga, Cả vị chỉ huy nữ đầu tiên, Cùng cắt bánh mỳ ở vận tốc 17.500 dặm/giờ, Xoay quanh Trái Đất mỗi 90 phút, Ngắm mặt lặn rồi mọc mỗi 45 phút. Và Peggy sẽ nói, “Này Leland, thử cái này xem.” Rồi cổ cho nó trôi đến miệng tôi, Tôi chộp lấy nó Và bọn tôi cứ tới lui như thế. Bọn tôi làm hết thảy mấy thứ này trong khi Nghe bài “Vận hành trơn tru” của Sade.
(Laughter)
(Tiếng cười)
I mean, this is like blowing my mind, you know.
Ý tôi là, tôi choáng váng, Bạn hiểu ý tôi mà.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And I float over to the window, and I look down at the planet, and I see all of humanity. And my perspective changes at that moment, because, I'm flying over Lynchburg, Virginia, my home town, and my family's probably breaking bread. And five minutes later, we're flying over Paris, where Leo Eyharts is looking down at his parents, probably having some wine and cheese, and Yuri's looking off to Moscow, and they're probably eating borscht or something else. But we're all having this moment where we see our respective families working together as one civilization, at 17,500 miles per hour.
Rồi tôi trôi đến gần cửa sổ, Rồi tôi nhìn xuống hành tinh này, Và tôi thấy hết thảy nhân loại. Thời khắc ấy, góc nhìn của tôi thay đổi, Vì tôi đang bay qua Lynchburg, Virginia, Quê nhà của tôi, Có lẽ gia đình tôi đang cắt bánh mỳ. Năm phút sau, chúng tôi lướt qua Paris, Nơi Leo Ehyharts nhìn xuống bố mẹ anh, Có lẽ họ đang uống rượu và ăn phô mai Và Yuri sẽ ngắm nhìn Moscow, Có lẽ họ đang ăn súp borscht hay gì đó. Nhưng bọn tôi đều có khoảnh khắc ấy Khi bắt gặp gia đình yêu quý của mình Đang cùng sống trong một nền văn minh, Ở vận tốc 17.500 dặm trên giờ.
My perspective shifted cognitively, it changed me. And when I think about being that little skinny boy, from sometimes racist Lynchburg, Virginia, I would never have had that perspective to think about myself of being an astronaut, if my father hadn't taken us on a journey in this radical craft that we built with our own two hands.
Góc nhìn của tôi thay đổi, Và nó thay đổi tôi. Và tôi nghĩ về cậu nhóc gầy nhom ấy, Trong cái khoảng thời gian nào đó Ở Lynchburg, Virginia. Hồi đó tôi sẽ không bao giờ nghĩ mình Như một phi hành gia, Nếu bố tôi không đưa cả hai Vào chuyến hành trình đó Trong món đồ đơn giản được dựng nên Bởi chính đôi tay của bọn tôi.
When I came home, I realized that perspective is something that we all get and we all have. It's just how far do we open up our blinders to see that shift and that change. And going back to the space station, I think of, you know, Germans and Russians fighting Americans. We have these people living and working together. White folks, black folks, Russian folks, French folks, you know. All these different people coexisting in harmony as one race. And I think about the colors that I saw, the design of the modules, the way that things fit together, the way that it made us a community, our home.
Khi tôi về nhà, Tôi nhận ra góc nhìn là thứ Mà chúng ta đều có. Vấn đề chỉ là chúng ta rộng mở Được đến đâu Để thấy những khác biệt và đổi thay. Trở lại với câu chuyện trạm vũ trụ, Mọi người biết đấy, tôi nghĩ đến Người Đức và Nga chiến với Mỹ. Nhưng ở đây tất cả bọn tôi sống Và làm việc cùng nhau Người da trắng, người da đen, Người Đức, người Pháp. Tất cả những con người khác biệt ấy Cùng tồn tại hòa hợp như một chùng tộc. Rồi tôi nghĩ về những sắc màu tôi đã thấy, Về thiết kế của những module, Cái cách mọi thứ ăn khớp với nhau, Cách nó biến bọn tôi thành một tập thể Ngôi nhà của chúng tôi.
And so when I look up to space now, and I have this newfound perspective on the space station going overhead and looking there, and then looking back at my community and seeing the people that I'm living and working with, and coexisting with, I think it's something that we all can do now, especially in these times, to make sure that we have the right perspective.
Nên giờ khi tôi ngước nhìn vũ trụ, Tôi có một góc nhìn mới toanh Nhìn vào trạm vũ trụ Khi nó bay ngang qua ta Rồi nhìn lại cộng đồng của mình Nhìn những người tôi đang sống Và làm việc cùng Cùng tồn tại với nhau, Tôi nghĩ đó là điều tất cả chúng ta Có thể làm lúc này Nhất là trong những thời điểm thế này Để đảm bảo chúng ta có một Góc nhìn đúng đắn.
Thank you.
Cảm ơn mọi người.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)
Chee Pearlman: If you don't mind, could I just chat with you for a minute, because they're going to set up some things here. And I get to have you all to myself, OK.
Chee Pearlman: Nếu anh không phiền Tôi có thể xin 1 phút nói chuyện không, Họ sẽ đặt vài cái thứ ở đây. Rồi tôi sẽ được nói chuyện với anh, nhỉ.
Leland Melvin: Alright.
Leland Melvin: Được rồi.
CP: You guys don't get to hear this. So I have to tell you that in my family, we watch a lot of space movies about astronauts and stuff like that. I can't tell you why, but we do.
CP: Mọi người không cần nghe vụ này. Tôi phải nói với anh là Gia đình tôi xem cả tá phim về vũ trụ Về phi hành gia và mấy thứ như thế. Tôi không nói anh lý do đâu Chuyện nó thế.
(Laughter)
(Tiếng cười)
The thing that I wanted to ask you, though, is that we were seeing this movie the other day, and it was about one of the astronauts, one of your colleagues, and before he went up into space, they actually wrote an obituary, NASA wrote an obituary for him. And I was like, is that normal? And is that part of the job? Do you think about that peril that you're putting yourself in as you go into space?
Nhưng có một chuyện tôi muốn hỏi anh, Có hôm đấy bọn tôi xem phim nọ Về một phi hành gia, Một đồng nghiệp của anh. Trước khi anh ấy bước vào vũ trụ, Người ta thực ra đã viết cáo phó, NASA đã viết cáo phó cho anh ấy. Tôi kiểu, vậy là bình thường ư? Đó là một phần của công việc ư? Anh có nghĩ về mối nguy đó không Khi anh đưa bản thân vào vũ trụ?
LM: Yeah. So, I don't remember anyone writing my obituary, maybe that was an Apollo-day thing. But I do know that in the 135 shuttle flights that we've had, the shuttle that I flew on, we had two accidents that killed everyone on that mission. And we all know the perils and the risks that go along with this, but we're doing something that's much bigger than ourselves, and helping advance civilization, so the risk is worth the reward. And we all feel that way when we get into that vehicle ans strap into those million pounds of rocket fuel and go up to space.
LM: Ừm, Tôi không nhớ có ai viết cáo phó cho mình, Có thể đó là việc người ta làm thời Apollo Nhưng tôi biết là trong 135 chuyến Tàu con thoi mà bọn tôi thực hiện, Chiếc tàu con thoi đưa tôi lên, Từng có hai vụ tai nạn khiến Tất cả mọi người trong nhiệm vụ tử vong. Bọn tôi biết tất cả những hiểm họa Và rủi ro song hành cùng Nhưng bọn tôi đang làm chuyện Vĩ đại hơn bọn tôi rất nhiều. Giúp thúc đẩy nền văn minh, Nên rủi ro cũng đáng với phần thưởng thôi. Tất cả bọn tôi đều nghĩ vậy Khi bước vào con tàu ấy Buộc mình vào quả tên lửa Chứa hàng triệu pound nhiên liệu đó,
CP: Yeah, I've only seen the Hollywood version --
Và tiến vào vũ trụ.
it looks pretty terrifying, I have to tell you.
CP: Ừ, tôi từng xem vài phiên bản Của Hollywood -- Tôi phải nói với anh Là trông sợ phát khiếp.
LM: You should go.
LM: Cô nên đi thử.
(Laughter)
(Tiếng cười)
CP: Yeah, my husband's told me that a few times.
CP: Đôi lần chồng tôi cũng bảo tôi thế.
(Laughter)
(Tiếng cười)
LM: One-way trip or two-way?
LM: Một chiều hay hai chiều nào?
(Laughter)
(Tiếng cười)
CP: That’s a bit of a debate in our house.
CP: Ở nhà tôi thì vụ đấy Vẫn còn đang được bàn bạc.
(Laughter)
(Tiếng cười)
I wanted to, if I may ... You did touch on something that was very powerful and difficult, which is, you spoke about this incident that had happened to you when you were five years old, and that you were raped. And I just think that for you to be able to say those things, you know, on the TED stage, to be able to talk about that at all, is pretty fearless. And I wanted to get a sense from you, is that something that you think is important for you to share that now, to speak about it?
Nếu có thể, tôi muốn hỏi... Anh đã nhắc đến một chuyện Rất mạnh mẽ và khó khăn, Anh kể về sự kiện đó Chuyện xảy ra với anh Khi anh mới 5 tuổi, Rằng anh đã bị xâm hại. Tôi chỉ nghĩ là Để bản thân có thể nói những việc như thế Anh biết đấy, ngay trên sân khấu TED, Để có thể nói về hết thảy mọi chuyện, Là vô cùng quả cảm. Nên tôi muốn hiểu anh một chút Đó có phải điều quan trọng Anh muốn chia sẻ, Muốn nói về nó lúc này không?
LM: It's so important, especially for men, to talk about things that have happened, because we've been trained and told by our society that we have to be so tough and so hard and we can't tell of things that are happening to us. But I've had so many men contact me and tell me that, "You came through that, you got over that, I'm going to get over my alcoholism," and these things that are going on in them, because of what happened to them. And so we must share these stories, this is part of storytelling, to heal us and to make us whole as a community.
LM: Quan trọng chứ, nhất là với nam giới Khi nói về chuyện đã xảy ra Vì xã hội này đã dạy, đã bảo Rằng bọn tôi phải thật Cứng rắn và kiên cường. Vậy nên chúng tôi không thể nói Những chuyện đã xảy ra Nhưng có rất nhiều nam giới Đã liên lạc và nói tôi rằng, “Anh đã sống sót, anh đã vượt qua, Tôi cũng sẽ vượt qua Cơn nghiện rượu này,” Những thứ như thế diễn ra Trong lòng họ, Vì những chuyện đã xảy đến với họ. Nên ta phải chia sẻ những câu chuyện ấy, Đây là một phần của cách kể, Để chữa lành và biến chúng ta Thành một cộng đồng trọn vẹn,
CP: That's wonderful.
CP: Thật tuyệt vời.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)
And you know, quite honestly, you spoke about perspective shift, and that is a shift that I think we've been very slow to accept and to be able to speak about that, so we thank you for that. We thank you for being the amazing astronaut that you are, and thank you for coming to the TED stage, Leland.
Nói thật thì, anh đã kể về việc Thay đổi góc nhìn, Tôi nghĩ sự đổi thay đó là một chuyện Chúng ta đang làm vô cùng chậm. Nên chúng tôi biết ơn anh, Vì đã nói lên điều đó. Cảm ơn anh vì đã trở thành Một phi hành gia tuyệt vời như hiện tại, Cảm ơn anh đã đến với TED, Leland.
LM: Thank you so much, Chee.
LM: Cảm ơn cô, Chee
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)