I want to say that really and truly, after these incredible speeches and ideas that are being spread, I am in the awkward position of being here to talk to you today about television. So most everyone watches TV. We like it. We like some parts of it. Here in America, people actually love TV. The average American watches TV for almost 5 hours a day. Okay? Now I happen to make my living these days in television, so for me, that's a good thing. But a lot of people don't love it so much. They, in fact, berate it. They call it stupid, and worse, believe me. My mother, growing up, she called it the "idiot box."
Tôi muốn nói một cách chân thành rằng, so với những bài diễn thuyết đáng khâm phục và những ý tưởng tuyệt vời đang được lan truyền, tôi ở trong một tình huống không đẹp mắt chút nào khi đứng ở đây ngày hôm nay và nói với các bạn về các chương trình tivi. Hầu như tất cả mọi người xem tivi. Chúng ta thích nó hoặc phần nào đó của nó. Đây ở nước Mỹ, mọi người thực sự yêu thích tivi. Trung bình một người Mỹ xem tivi gần năm tiếng một ngày. Ok? Tôi vô tình lại kiếm sống qua tivi, thế nên điều đó đối với tôi là rất tốt. Nhưng có nhiều người không hề thích cái ý nghĩ đó Thực ra họ còn nhiếc móc nó. Họ gọi nó là ngu xuẩn, hoặc tệ hơn thế nữa, tin tôi đi. Mẹ tôi, khi bà lớn lên, bà gọi nó là "cái hộp ngu ngốc."
But my idea today is not to debate whether there's such a thing as good TV or bad TV; my idea today is to tell you that I believe television has a conscience. So why I believe that television has a conscience is that I actually believe that television directly reflects the moral, political, social and emotional need states of our nation -- that television is how we actually disseminate our entire value system. So all these things are uniquely human, and they all add up to our idea of conscience.
Nhưng tôi ở đây ngày hôm nay không phải để tranh luận về cái ý tưởng của tivi tốt hay tivi xấu; tôi ở đây ngày hôm nay là để nói cho bạn biết là tôi tin rằng các chương trình truyền hình đều có lương tâm. Lý do tôi tin rằng tivi có lương tâm là bởi vì tôi thực sự tin rằng các chương trình truyền hình phản ánh trực tiếp các nhu cầu về đạc đức, chính trị, xã hội và xúc cảm của đất nước này -- rằng tivi là cách mà chúng ta thực sự truyền đi toàn bộ hệ thống giá trị của xã hội này. Tất cả những điều đó là đặc trưng của con người, và chúng hội tụ lại thành ý tưởng về lương tâm.
Now today, we're not talking about good and bad TV. We're talking about popular TV. We're talking about top-10 Nielsen-rated shows over the course of 50 years. How do these Nielsen ratings reflect not just what you've heard about, which is the idea of our social, collective unconscious, but how do these top-10 Nielsen-rated shows over 50 years reflect the idea of our social conscience? How does television evolve over time, and what does this say about our society?
Vì thế ngày hôm nay, chúng ta sẽ không nói về TV tốt hay xấu. Chúng ta sẽ nói về TV đại chúng. Chúng ta sẽ bàn luận về các chương trình nằm trong tóp mười Nielsen trong vòng năm chục năm trở lại đây. Bằng cách nào mà những bản xếp hạng Nielsen này phản ánh không chỉ những gì mà bạn vừa nghe thấy, những ý tưởng vô thức của tập thể xã hội, mà những bảng xếp hạng này, qua năm chục năm qua còn phản ánh lương tâm của xã hội chúng ta.? Bằng cách nào mà truyền thông đã tiến hóa trong những năm vừa qua, và điều đó nói gì về xã hội này?
Now speaking of evolution, from basic biology, you probably remember that the animal kingdom, including humans, have four basic primal instincts. You have hunger; you have sex; you have power; and you have the urge for acquisitiveness. As humans, what's important to remember is that we've developed, we've evolved over time to temper, or tame, these basic animal instincts. We have the capacity to laugh and cry. We feel awe, we feel pity. That is separate and apart from the animal kingdom. The other thing about human beings is that we love to be entertained. We love to watch TV. This is something that clearly separates us from the animal kingdom. Animals might love to play, but they don't love to watch.
Nói về sự tiến hóa, có thể bạn sẽ nhớ từ môn sinh học rằng thế giới động vật, bao gồm con người, có bốn bản năng nguyên sơ. Đói khát, dục vọng, quyền lực và lòng tham. Làm người, điều quan trọng cần phải ghi nhớ là chúng ta đã phát triển và tiến hóa theo thời gian để điều chỉnh, hoặc chế ngự những bản năng động vật đó. Chúng ta có khả năng để cười và khóc. Chúng ta cảm thấy kinh sợ, và chúng ta có lòng trắc ẩn. Điều đó phân biệt và ngăn cách con người với động vật. Một điều khác về loài người là chúng ta muốn được giải trí. Chúng ta thích xem tivi. Điều đó rõ ràng ngăn cách chúng ta với thế giới loài vật. Động vật có thể thích chơi và vận động, nhưng chúng không thích xem.
So I had an ambition to discover what could be understood from this uniquely human relationship between television programs and the human conscious. Why has television entertainment evolved the way it has? I kind of think of it as this cartoon devil or angel sitting on our shoulders. Is television literally functioning as our conscience, tempting us and rewarding us at the same time?
Thế nên tôi có một tham vọng là tìm ra bài học ẩn chứa sau mối quan hệ đầy tính nhân bản giữa các chương trình truyền hình và ý thức con người. Vì sao truyền thông lại tiến hóa theo cái cách mà nó đã tiến hóa? Tôi nghĩ về điều đó như kiểu hoạt hình thiên thần và ác quỷ ngồi trên hai vai ta. Có thật là tivi đóng vai trò của lương tâm con người, dụ dỗ và ban thưởng chúng ta cùng một lúc?
So to begin to answer these questions, we did a research study. We went back 50 years to the 1959/1960 television season. We surveyed the top-20 Nielsen shows every year for 50 years -- a thousand shows. We talked to over 3,000 individuals -- almost 3,600 -- aged 18 to 70, and we asked them how they felt emotionally. How did you feel watching every single one of these shows? Did you feel a sense of moral ambiguity? Did you feel outrage? Did you laugh? What did this mean for you? So to our global TED audiences, I want to say that this was a U.S. sample. But as you can see, these emotional need states are truly universal. And on a factual basis, over 80 percent of the U.S.'s most popular shows are exported around the world. So I really hope our global audiences can relate.
Để bắt đầu trả lời những câu hỏi trên, chúng tôi đã làm một nghiên cứu. Chúng tôi quay lại năm mươi năm, đến mùa tivi những năm 1959/1960. Chúng tôi tham khảo những shows nằm trong tóp 20 Nielson, từng năm trong vòng 50 năm, một nghìn shows. Chúng tôi nói chuyện với hơn 3,000 người -- gần 3,600 người -- tuổi từ 18 đến 70, hỏi về cảm giác của họ: Bạn cảm thấy thế nào khi xem từng show đó? Bạn có cảm thấy một sự mơ hồ về đạo đức? Bạn có cảm thấy phẫn nộ? Hay buồn cười? Nó có nghĩa lý gì với bạn? Với đội ngũ khán giả toàn cầu của TED, tôi muốn nói rằng mẫu tham khảo này là của nước Mỹ. Nhưng bạn có thể thấy rằng, những nhu cầu xúc cảm này thực sự phổ biến trên toàn thế giới. Đứng từ một góc độ thực tế, trên 80% những shows được yêu thích của nước Mỹ được chiếu ra trên toàn thế giới. Thế nên tôi thực sự hy vọng là khán giả toàn cầu có thể kết nối với ý tưởng này.
Two acknowledgments before our first data slide: For inspiring me to even think about the idea of conscience and the tricks that conscience can play on us on a daily basis, I thank legendary rabbi, Jack Stern. And for the way in which I'm going to present the data, I want to thank TED community superstar Hans Rosling, who you may have just seen.
Tôi muốn gửi lời cảm tạ đến hai người trước khi bắt đầu trang dữ liệu đầu tiên: Người đã truyền cảm hứng cho tôi giúp tôi khai phá ý tưởng của lương tâm và những mưu mẹo mà lương tâm chúng ta dùng để điều khiển chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Tôi muốn cảm ơn vị giáo sĩ huyền thoại, Jack Stern. Và cho cái cách mà tôi sắp dùng để trình bày các dữ liệu này, tôi muốn cảm ơn ngôi sao sáng của cộng đồng TED, Hans Rosling, người mà các bạn có thể vừa mới nhìn thấy đây.
Okay, here we go. So here you see, from 1960 to 2010, the 50 years of our study. Two things we're going to start with -- the inspiration state and the moral ambiguity state, which, for this purpose, we defined inspiration as television shows that uplift me, that make me feel much more positive about the world. Moral ambiguity are televisions shows in which I don't understand the difference between right and wrong. As we start, you see in 1960 inspiration is holding steady. That's what we're watching TV for. Moral ambiguity starts to climb. Right at the end of the 60s, moral ambiguity is going up, inspiration is kind of on the wane. Why? The Cuban Missile Crisis, JFK is shot, the Civil Rights movement, race riots, the Vietnam War, MLK is shot, Bobby Kennedy is shot, Watergate. Look what happens. In 1970, inspiration plummets. Moral ambiguity takes off. They cross, but Ronald Reagan, a telegenic president, is in office. It's trying to recover. But look, it can't: AIDS, Iran-Contra, the Challenger disaster, Chernobyl. Moral ambiguity becomes the dominant meme in television from 1990 for the next 20 years.
Ok, bây giờ chúng ta có thể bắt đầu. Ở đây các bạn có thể thấy, từ năm 1960 đến 2010, năm chục năm của cuộc nghiên cứu. Hai điều mà chúng ta sẽ bắt đầu với, nguồn cảm hứng và sự mơ hồ đạo đức trong giới hạn mục đích của buổi nói chuyện ngày hôm nay, nguồn cảm hứng là bao gồm các chương trình truyền hình làm cho tôi cảm thấy phấn chấn, làm cho tôi cảm thấy lạc quan hơn về thế giới này. Còn sự mơ hồ đạo đức là các chương trình mà tôi không phân biệt được sự khác biệt giữa đúng và sai. Và chúng ta bắt đầu, như bạn có thể thấy trong năm 1960 nguồn cảm hứng được duy trì một cách vững chắc. Nó là lý do chúng ta xem tivi. Sự mơ hồ đạo đức bắt đầu tăng lên. Về cuối những năm 60, sự mơ hồ đạo đức tăng cao cảm hứng trở thành hết thời. Vì sao? Vụ rắc rối với tên lửa của Cuba, JFK bị bắn, phong trào đòi quyền bình đẳng của người da đen, những cuộc chiến chủng tộc, chiến tranh Việt Nam MLK bị bắn, Bobby Kennedy bị bắn, Watergate. Hãy nhìn xem chuyện gì đã xảy ra. Năm 1970, những nguồn cảm hứng tụt dốc thảm hại, thay vào đó là sự tăng cao của sự mơ hồ đạo đức. Chúng gặp nhau, nhưng Ronald Reagan, vị Tổng thống ăn hình của chúng ta, đang cầm quyền. Nó cố gắng phục hồi. Nhưng xem này, nó không thể: AIDS, vụ Iran-Contra, thảm họa của con tàu Kẻ thức thách, Chernobyl. Sự mơ hồ đạo đức trờ thành chủ đề chính thống trị các chương trình truyền hình trong vòng 20 năm kể từ năm 1990.
Take a look at this. This chart is going to document a very similar trend. But in this case, we have comfort -- the bubble in red -- social commentary and irreverence in blue and green. Now this time on TV you have "Bonanza," don't forget, you have "Gunsmoke," you have "Andy Griffith," you have domestic shows all about comfort. This is rising. Comfort stays whole. Irreverence starts to rise. Social commentary is all of a sudden spiking up. You get to 1969, and look what happens. You have comfort, irreverence, and social commentary, not only battling it out in our society, but you literally have two establishment shows -- "Gunsmoke" and "Gomer Pyle" -- in 1969 are the number-two- and number-three-rated television shows. What's number one? The socially irreverent hippie show, "Rowan and Martin's Laugh-In." They're all living together, right. Viewers had responded dramatically.
Hãy xem thử biểu đồ này. Nó cũng ghi lại những xu hướng tương tự. Nhưng trong trường hợp lại, chúng ta có sự an ủi -- hình tròn màu đỏ này -- những bình luận xã hội và sự thiếu tôn trọng trong màu xanh da trời và xanh lá cây. Lần này trên TV chúng ta có "Bonanza," đừng quên, chúng ta còn có "Gunsmoke". "Andy Griffith," chúng ta có những show gia đình về sự an ủi. Hình tròn màu đỏ đi lên. Sự an ủi vẫn được giữ nguyên. Sự thiếu tôn trọng bắt đầu gia tăng. Bình luận xã hội tăng lên đột biến Hãy xem năm 1969 chuyện gì đã xảy ra Sự an ủi, thiếu tôn trọng và bình luận xã hội, không chỉ xung đột trong xã hội chúng ta, mà thực sự còn có 2 chương trình xác minh -- "Gunsmoke" và "Gomer Pyle" -- trong năm 1969 chúng là những chương trình truyền hình xếp thứ 2 và thứ 3. Vậy thì chương trình nào xếp thứ nhất? Chương trình những thanh niên lập dị chống lại những qui ước của xã hội, "Rowan and Martin's Laugh-In." Tất cả các chương trình này tồn tại song song với nhau. Khán giả đã phản ứng rất dữ dội
Look at this green spike in 1966 to a bellwether show. When you guys hear this industry term, a breakout hit, what does that mean? It means in the 1966 television season, The "Smothers Brothers" came out of nowhere. This was the first show that allowed viewers to say, "My God, I can comment on how I feel about the Vietnam War, about the presidency, through television?" That's what we mean by a breakout show.
Hãy nhìn vào sự tăng đột biến trong năm 1966 của chương trình truyền hình. Khi nghe đến thuật ngữ công nghiệp "a breakout hit", các bạn nghĩ nó có nghĩa là gì? Điều này có nghĩa là trong các chương trình truyền hình năm 1966, chương trình "Smothers Brothers" đã xuất hiện hết sức bất ngờ. Đây là chương trình đầu tiên cho phép khán giả nói, "Lạy chúa, tôi có thể trình bày cảm nhận của mình về cuộc chiến tranh Việt Nam, về tổng thống thông qua ti vi chăng?" Chúng tôi gọi đó là một chương trình bùng nổ.
So then, just like the last chart, look what happens. In 1970, the dam bursts. The dam bursts. Comfort is no longer why we watch television. Social commentary and irreverence rise throughout the 70s. Now look at this. The 70s means who? Norman Lear. You have "All in the Family," "Sanford and Son," and the dominant show -- in the top-10 for the entire 70s -- "M<i>A</i>S*H." In the entire 50 years of television that we studied, seven of 10 shows ranked most highly for irreverence appeared on air during the Vietnam War, five of the top-10 during the Nixon administration. Only one generation, 20 years in, and we discovered, Wow! TV can do that? It can make me feel this? It can change us? So to this very, very savvy crowd, I also want to note the digital folks did not invent disruptive. Archie Bunker was shoved out of his easy chair along with the rest of us 40 years ago.
Tiếp theo, hãy nhìn vào phần cuối của biểu đồ và xem chuyện gì xảy ra. Vào năm 1970, giới hạn đã bị phá vỡ. Sự an ủi không còn là lí do tại sao chúng ta xem ti vi nữa. Bình luận xã hội và sự bất kính gia tăng vào những năm 70. Nào hãy nhìn lên màn hình. Những năm 70 có nghĩa là ai? Norman Lear. Chúng ta có các chương trình "All in the Family," "Sanford and Son," và chương trình chiếm ưu thế -- trong top 10 chương trình của những năm 70 -- "M<i>A</i>S*H." Trong suốt những năm 50 khi chúng tôi nghiên cứu về ti vi, có 7 trong số 10 chương trình xếp hạng là có sự bất kính cao nhất xuất hiện trong suốt chiến tranh Việt Nam, 5 trong top 10 chương trình là trong nhiệm kì của tổng thống Nixon. Chỉ trong vòng có một thế hệ, 20 năm, và chúng ta đã phát hiện ra rằng, Ôi! Ti vi có thế làm được như vậy ư? Nó có thể làm cho chúng ta cảm thấy thế này sao? Nó có thể thay đổi chúng ta? Do đó với những người thông minh ở đây, tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng những người làm công nghệ không gây ra sự phá hoại. Archie Bunker bị đuổi khỏi chiếc khế dễ chịu cùng với những người còn lại như chúng ta 40 năm trước đây.
This is a quick chart. Here's another attribute: fantasy and imagination, which are shows defined as, "takes me out of my everyday realm" and "makes me feel better." That's mapped against the red dot, unemployment, which is a simple Bureau of Labor Department statistic. You'll see that every time fantasy and imagination shows rise, it maps to a spike in unemployment. Do we want to see shows about people saving money and being unemployed? No. In the 70s you have the bellwether show "The Bionic Woman" that rocketed into the top-10 in 1973, followed by the "Six Million-Dollar Man" and "Charlie's Angels." Another spike in the 1980s -- another spike in shows about control and power. What were those shows? Glamorous and rich. "Dallas," "Fantasy Island." Incredible mapping of our national psyche with some hard and fast facts: unemployment.
Trên đây là một biểu đồ nhanh. Sau đây là một biểu đồ minh họa khác tính tưởng tượng, là những chương trình được giải thích là "mang tôi ra khỏi lĩnh vực thường nhật của mình" và "làm tôi cảm thấy tốt hơn." Điều này trái ngược với điểm màu đỏ, sự thất nghiệp, chính là một thống kê đơn giản của Văn phòng cục quản lí Lao động. Các bạn nhìn này, mỗi lần tính tưởng tượng tăng lên, nó kéo theo sự tăng đột biến của thất nghiệp. Liệu rằng bạn có muốn xem chương trình về những người tiết kiệm tiền và bị thất nghiệp không? Không. Vào những năm 70 chúng ta có chương trình "Những phụ nữ robot" mà đã leo lên top 10 trong năm 1973, và chỉ theo sau "Người đàn ông 6 triệu đô la" và "Những thiên thần của Charlie." Trong năm những 1980 lại có một chiều hướng tăng đột biến khác là các chương trình về kiểm soát và quyền lực. Vậy những chương trình này là gì? Quyến rũ và giàu có "Dallas," Hòn đảo tưởng tượng" Bản vẽ không thể tin được về tinh thần quốc gia với một vài thực tế khắc nghiệt và khó thay đổi: thất nghiệp.
So here you are, in my favorite chart, because this is our last 20 years. Whether or not you're in my business, you have surely heard or read of the decline of the thing called the three-camera sitcom and the rise of reality TV. Well, as we say in the business, X marks the spot. The 90s -- the big bubbles of humor -- we're watching "Friends," "Frasier," "Cheers" and "Seinfeld." Everything's good, low unemployment. But look: X marks the spot. In 2001, the September 2001 television season, humor succumbs to judgment once and for all. Why not? We had a 2000 presidential election decided by the Supreme Court. We had the bursting of the tech bubble. We had 9/11. Anthrax becomes part of the social lexicon. Look what happens when we keep going. At the turn of the century, the Internet takes off, reality television has taken hold. What do people want in their TV then? I would have thought revenge or nostalgia. Give me some comfort; my world is falling apart. No, they want judgment. I can vote you off the island. I can keep Sarah Palin's daughter dancing. I can choose the next American Idol. You're fired. That's all great, right?
Và sau đây là biểu đồ yêu thích của tôi, bởi đây chính là kết quả trong 20 năm cuối của cuộc nghiên cứu. Cho dù bạn có ở trong ngành của tôi hay không, thì chắc hẳn là bạn cũng đã có đọc hoặc nghe nói về sự suy giảm của chương trình sitcom 3 máy camera và sự gia tăng của chương trình truyền hình thực tế. Vâng, như chúng tôi nói trong vấn đề này, X chỉ điểm. Trong thập kỉ 90, xuất hiện các chương trình mang tính hài hước, chúng ta được xem "Friends," "Frasier," "Cheer" và 'Seinfield." Mọi thứ đều tốt đẹp, tỉ lệ thất nghiệp thấp. Nhưng hãy nhìn chỗ điểm X chỉ. Năm 2001, trong các chương trình Ti vi vào tháng 9 năm 2001, yếu tố hài hước chắc chắn đã không vượt qua những đánh giá. Vậy lí do là ở đâu? Năm 2000 diễn ra cuộc bầu cử tổng thống do tòa án tối cao quyết định. Năm này cũng xảy ra bùng nổ bong bóng Internet. Và sự kiện 11/9. Bệnh than đã trở thành một thuật ngữ xã hội. Hãy xem những gì xãy ra khi chúng ta tiếp tục. Vào đầu thế kỉ này, Internet trở nên phổ biến, chương trình truyền hình thực tế cũng phát triển mạnh mẽ. Vào thời điểm đó thì mọi người đã mong chờ gì ở Ti Vi của họ? Tôi đã muốn trả thù hoặc là cảm thấy hoài cổ. Hãy an ủi tôi; thế giới đang đổ sập trước mắt tôi. Không, họ muốn được đánh giá. Tôi có thể bầu cho anh bị mất chức Tôi có thể làm cho con gái của Sarah Palin khiêu vũ. Tôi có thể chọn thần tượng tiếp theo của nước Mĩ. Anh bị loại Tất cả đều hết sức tuyệt vời phải không?
So as dramatically different as these television shows, pure entertainment, have been over the last 50 years -- what did I start with? -- one basic instinct remains. We're animals, we need our moms. There has not been a decade of television without a definitive, dominant TV mom. The 1950s: June Cleever in the original comfort show, "Leave it to Beaver." Lucille Ball kept us laughing through the rise of social consciousness in the 60s. Maude Findlay, the epitome of the irreverent 1970s, who tackled abortion, divorce, even menopause on TV. The 1980s, our first cougar was given to us in the form of Alexis Carrington. Murphy Brown took on a vice president when she took on the idea of single parenthood. This era's mom, Bree Van de Kamp. Now I don't know if this is the devil or the angel sitting on our conscience, sitting on television's shoulders, but I do know that I absolutely love this image.
Do đo rất khác so với những chương trình truyền hình này, các chương trình giả trí theo ý nghĩa đích thực của nó đã đi qua cách đây 50 năm -- tôi đã bắt đầu từ đâu nhỉ? -- vẫn còn một bản năng cơ bản. Chúng ta là động vật, và chúng ta cũng cần có mẹ. Không có thời kì nào mà ti vi lại không có các chương trình rõ ràng và phổ biến về mẹ. Thập niên 50: June Cleever trong chương trình an ủi phiên bản gốc, "Leave it to Beaver." Lucille Ball luôn luôn làm chúng ta bật cười thông qua sự tăng lên của ý thức xã hội trong những năm 60. Maude Findlay, hình ảnh thu nhỏ của yếu tố bất kính trong những năm 70, người đã cản trợ nạn phá thai, li hôn, thậm chí cả sự mãn kinh trên ti vi. Trong thập niên 80, chúng ta đã biết đến hình ảnh loài báo corgar qua hình ảnh Alexis Carrington. Murphy Brown giữ chức phó tổng thống khi bà đưa ra ý tưởng chỉ cần bố hoặc mẹ nuôi dạy con cái. Đây là thời kì của những bà mẹ, Bree Van de Kamp. Tôi không biết liệu đây là ác quỷ hay thiên thần đang ngự trị trong lương tâm chúng ta, ở trên những chương trình truyền hình, chỉ biết rằng tôi hoàn toàn yêu thích hình ảnh này.
So to you all, the women of TEDWomen, the men of TEDWomen, the global audiences of TEDWomen, thank you for letting me present my idea about the conscience of television. But let me also thank the incredible creators who get up everyday to put their ideas on our television screens throughout all these ages of television. They give it life on television, for sure, but it's you as viewers, through your collective social consciences, that give it life, longevity, power or not.
Vậy đối với tất cả các bạn, nhưng người phụ nữ của TEDWomen, những người đàn ông của TEDWomen các khán giả trên khắp toàn cầu của TEDWomen, cảm ơn vì đã lắng nghe tôi trình bày ý kiến của mình về lương tâm của các chương trình truyền hình. Tôi cũng xin cảm ơn những người làm chương trình tuyệt vời của chúng ta những người thức dậy hàng ngày và đưa các ý tưởng lên màn ảnh trong mọi thời đại của truyền hình. Chắc chắn họ đã đem lại sự sống cho truyền hình, nhưng chính các bạn, những khán giả, thông qua ý thức xã hội tập thể, có thể đem lại sự sống, tồn tài lâu dài hoặc sức mạnh cho các chương trình hoặc là không.
So thanks very much.
Xin cảm ơn các bạn rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)