I want to talk about my investigations into what technology means in our lives -- not just our immediate life, but in the cosmic sense, in the kind of long history of the world and our place in the world. What is this stuff? What is the significance? And so, I want to kind of go through my little story of what I found out.
Tôi muốn nói về công trình nghiên cứu của mình về công nghệ có ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống của chúng ta -- không chỉ trong cuộc sống hiện tại, mà còn mang ý nghĩa rộng lớn hơn, trong bối cảnh lịch sử của thế giới và vị trí của chúng ta trên thế giới: Vậy câu chuyện ở đây là gì? Ý nghĩa ở đây là gì? Và, tôi muốn nói thông qua câu chuyện nhỏ về điều tôi đã tìm thấy.
One of the first things I started to investigate was the history of the name of technology. In the United States, there is a State of the Union address given by every president since 1790. And each one of those is kind of summing up the most important things for the United States at that time. If you search for the word "technology," it was not used until 1952. So, technology was sort of absent from everybody's thinking until 1952, which happened to be the year of my birth. And obviously, technology had existed before then, but we weren't aware of it. And so it was sort of an awakening of this force in our life.
Điều đầu tiên mà tôi bắt đầu điều tra là lịch sử của cái tên công nghệ. Và ở Mỹ có 1 nơi lưu trữ bài diễn thuyết của các vị tổng thống từ năm 1790. Và mỗi bài diễn thuyết này thực sự là 1 tư liệu tổng hợp những điều quan trọng nhất của nước Mỹ vào thời điểm đó. Nếu bạn tìm thử từ "công nghệ", nó không được sử dụng cho đến năm 1952. Vậy, công nghệ đã vắng bóng trong suy nghĩ của con người mãi đến năm 1952, năm sinh của tôi. Nhưng chắc chắn rằng, công nghệ đã tồn tại từ trước đó mà ta chưa nhận ra, nó giống như là ta đã thức tỉnh sức mạnh này trong cuộc sống chúng ta.
I actually did research to find out the first use of the word "technology." It was in 1829, and it was invented by a guy who was starting a curriculum -- a course, bringing together all the kinds of arts and crafts, and industry -- and he called it "Technology." And that's the very first use of the word.
Tôi đã nghiên cứu để tìm ra lần đầu tiên từ "công nghệ" được sử dụng. Đó là vào năm 1829, phát kiến bởi 1 người, anh đã bắt đầu 1 chương trình giáo dục - 1 khóa học tập hợp các loại hình nghệ thuật, thủ công, và công nghiệp - và anh ta gọi đó là "Công nghệ". Đó là lần đầu tiên từ này được sử dụng.
So what is this stuff that we're all consumed by and bothered by? Alan Kay calls it, "Technology is anything that was invented after you were born."
Vậy, cái vấn đề đang bao quanh ta, làm phiền ta ở đây là gì? Alan Kay gọi, "Công nghệ là bất cứ thứ gì được phát minh sau khi chúng ta sinh ra".
(Laughter)
(Cười)
Which is sort of the idea we normally have about what technology is: it's all that new stuff. It's not roads, or penicillin, or factory tires; it's the new stuff. My friend Danny Hillis says kind of a similar one, he says, "Technology is anything that doesn't work yet."
Những ý tưởng mà chúng ta thường nghĩ về công nghệ là: Tất cả đó là công cụ mới. Đó không phải đường, hay thuốc kháng sinh, hay lốp xe máy; đó là 1 điều gì đó mới. Bạn tôi Danny Hillis đã nói "Công nghệ là thứ gì đó chưa hoạt động."
(Laughter)
(Cười)
Which is, again, a sense that it's all new.
Điều này, cho thấy nó là 1 điều mới mẻ.
But we know that it's just not new. It actually goes way back, and what I want to suggest is, it goes a long way back. So, another way to think about technology, what it means, is to imagine a world without technology. If we were to eliminate every single bit of technology in the world today -- and I mean everything, from blades to scrapers to cloth -- we, as a species, would not live very long. We would die by the billions, and very quickly: the wolves would get us, we would be defenseless, we would be unable to grow enough food or find enough food.
Nhưng chúng ta đều biết nó không mới. Nó thực sự đã có từ lâu, hay từ rất lâu. Vậy, 1 cách khác để nghĩ về công nghệ, là tưởng tượng 1 thế giới không có công nghệ. nếu chúng ta xóa bỏ công nghệ khỏi thế giới ngày nay - ý tôi là mọi thứ, từ con dao đến mảnh vải - chúng ta không thể tồn tại lâu, dưới góc nhìn là một loại vật. Hàng tỷ người sẽ chết... một cách nhanh chóng. Loài sói sẽ tấn công, và chúng không thể tự bảo vệ mình, chúng ta không thể trồng hoặc kiếm đủ thức ăn.
Even the hunter-gatherers used some elementary tools. So, they had minimal technology, but they had some technology. And if we study those hunter-gatherer tribes and the Neanderthal, which are very similar to early man, we find out a very curious thing about this world without technology, and this is a kind of a curve of their average age.
Thậm chí những người đi săn cũng phải dùng những công cụ thô sơ. Và như vậy, dù họ có công nghệ ở mức tối thiểu, nhưng họ đã có 1 số công nghệ. Và nếu chúng ta nghiên cứu các bộ tộc đi săn và người Neanderthal, tộc người rất giống với người tối cổ, ta tìm ra một thứ rất đáng tò mò về 1 thế giới không có công nghệ. và đây là đường biểu diễn tuổi thọ trung bình của họ.
There are no Neanderthal fossils that are older than 40 years old that we've ever found, and the average age of most of these hunter-gatherer tribes is 20 to 30. There are very few young infants, because they die -- high mortality rate -- and there's very few old people. So the profile is sort of for your average San Francisco neighborhood: a lot of young people. And if you go there, you say, "Hey, everybody's really healthy." Well, that's because they're all young.
Chúng tôi không thể tìm được hóa thạch nào của người Neanderthal sống hơn 40 tuổi và tuổi thọ trung bình của hầu hết những bộ tộc đi săn này là từ 20 đến 30. Có rất ít trẻ em vì chúng đã chết - tỷ lệ tử vong cao - và rất ít người già. Và điều này giống với người hàng xóm San Francisco của bạn: rất nhiều người trẻ. Khi đến đó bạn nói, "Mọi người thật khỏe." Tốt thôi, đó là vì họ đều trẻ.
Same thing with the hunter-gatherer tribes and early man: you didn't live beyond the age of 30. So it was a world without grandparents. And grandparents are very important, because they are the transmitter of cultural evolution and information. Imagine a world where basically everybody was 20 to 30 years old. How much learning can you do? You can't do very much learning in your own life, it's so short, and there's nobody to pass on what you do learn. So that's one aspect.
Và điều đó tương tự với các bộ lạc đi săn là bạn đã không sống qua tuổi 30. Vậy, đó là 1 thế giới không có ông bà. Và ông bà là người rất quan trọng, bởi vì họ là người truyền lại sự mở mang văn hóa và thông tin. Tưởng tượng 1 thế giới với con người chỉ từ 20 đến 30 tuổi. Bạn có thể học được bao nhiêu? Bạn không thể học nhiều điều trong đời, nó quá ngắn, và cũng không có ai có thể truyền lại những điều bạn đã học Đó là 1 khía cạnh.
It was a very short life. But at the same time, anthropologists know that most hunter-gatherer tribes of the world, with that very little technology, actually did not spend a very long time gathering the food they needed: three to six hours a day. Some anthropologists call that the original affluent society, because they had bankers' hours, basically. So it was possible to get enough food. But when the scarcity came, when the highs and lows and the droughts came, then people went into starvation. And that's why they didn't live very long.
Đó là 1 cuộc đời ngắn ngủi. Nhưng cùng lúc đó các nhà nhân chủng học biết rằng hầu như các bộ tộc săn bắt trên thế giới, với rất ít công nghệ, thực tế họ đã không dành nhiều thời gian thu thập thức ăn mà họ cần: 3 đến 6 giờ một ngày. Một vài nhà nhân chủng học gọi đó là xã hội giàu có nguyên bản. Vì họ có quỹ thời gian cơ bản. Vậy nên họ có thể lấy đủ thức ăn. Nhưng khi sự khan hiếm diễn ra và hạn hán kéo đến, họ bắt đầu chết do đói. Và đó là lý do họ không thể sống lâu.
So what technology brought, through the very simple tools like these stone tools here -- even something as small as this -- the early bands of humans were actually able to eliminate to extinction about 250 megafauna animals in North America when they first arrived 10,000 years ago. So, long before the industrial age, we've been affecting the planet on a global scale with just a small amount of technology.
Vậy, điều mà công nghệ đem lại, thông qua những công cụ rất đơn giản như công cụ bằng đá đây - thậm chí là những thứ nhỏ thế này - thì những nhóm người đầu tiên này đã có khả năng sinh tồn giữa khoảng 250 động vật khổng lồ ở Bắc Mĩ khi họ đến đó lần đầu tiên vào 10.000 năm trước. Rất lâu trước kỉ nguyên công nghiệp chúng ta đã tác động đến toàn hành tinh, với chỉ 1 nền công nghệ nhỏ bé.
The other thing that the early man invented was fire. And fire was used to clear out, and again, affected the ecology of grass and whole continents, and was used in cooking. It enabled us to actually eat all kinds of things. It was, in a certain sense, in a McLuhan sense, an external stomach, in the sense that it was cooking food that we could not eat otherwise. And if we didn't have fire, we actually could not live. Our bodies have adapted to these new diets. Our bodies have changed in the last 10,000 years.
Một điều khác mà những con người đầu tiên phát minh ra là lửa. Và lửa được dùng để làm sạch, một lần nữa, tác động đến hệ sinh thái học của cỏ và toàn bộ lục địa, và lửa cũng được dùng để nấu ăn. Nó cho phép ta ăn tất cả các loại thức ăn. Đó như 1 định nghĩa theo McLuhan, là dạ dày ngoài, tức là thức ăn cần được chế biến, và ta không thể làm ngược lại. Và nếu chúng ta không có lửa, chúng ta thực sự không thể sống. Cơ thể chúng ta phải thích nghi với chế độ ăn mới. Cơ thể chúng ta đã thay đổi từ 10.000 năm qua.
So, with that little bit of technology, humans went from a small band of 10,000 or so -- the same number as Neanderthals everywhere -- and we suddenly exploded. With the invention of language around 50,000 years ago, the number of humans exploded, and very quickly became the dominant species on the planet. And they migrated into the rest of the world at two kilometers per year until, within several tens of thousands of years, we occupied every single watershed on the planet and became the most dominant species, with a very small amount of technology.
Vậy nên, với một ít công nghệ, con người đi từ 1 nhóm nhỏ 10.000 hoặc - cùng số lượng với người Neanderthal - đã gia tăng. Với sự phát minh ra ngôn ngữ khoảng 50.000 trước, dân số tăng một cách bùng nổ, và trở thành loài chủ yếu trên hành tinh rất nhanh chóng Và họ di cư đến những nơi còn lại trên thế giới với tốc độ 2 km/năm đến khi, trong suốt hàng chục nghìn năm, chúng ta đã chiếm đến từng mảnh đất và trở thành giống loài chủ yếu, chỉ với nền công nghệ nhỏ bé. Và thậm chí vào lúc đó, với sự xuất hiện của nông nghiệp,
And even at that time, with the introduction of agriculture, 8,000, 10,000 years ago, we started to see climate change. So climate change is not a new thing; what's new is just the degree of it. Even during the agricultural age, there was climate change. So already, small amounts of technology were transforming the world. And what this means, and where I'm going, is that technology has become the most powerful force in the world. All the things we see today that are changing our lives, we can always trace back to the introduction of some new technology.
8.000 - 10.000 năm trước chúng ta bắt đầu thấy khí hậu thay đổi. Khí hậu thay đổi không là điều gì mới. Điểm mới ở đây đó là mức độ. Trong suốt kỉ nguyên nông nghiệp khí hậu đã thay đổi. Và, sự sẵn có của nền công nghệ nhỏ bé đã làm thế giới biến đổi. Và ý nghĩa của điều này, đó là công nghệ đã trở thành lực lượng mạnh mẽ nhất thế giới. Tất cả mọi thứ chúng ta thấy ngày nay đang thay đổi cuộc sống này, ta có thể tìm lại để giới thiệu thêm những công nghệ mới.
So it's a force, that is the most powerful force that has been unleashed on this planet, and in such a degree, that I think it's become who we are. In fact, our humanity and everything that we think about ourselves, is something we've invented. So we've invented ourselves. Of all the animals that we've domesticated, the most important animal has been us.
Vậy, đó là 1 lực lượng mạnh mẽ nhất đã giải phóng hành tinh này, và về trình độ, tôi nghĩ nó đã trở thành -- chúng ta. Thực tế, nhân loại và mọi thứ chúng ta nghĩ về bản thân mình là điều gì đó chúng ta đã phát minh ra. Chúng ta đã tự phát minh ra mình. Loài quan trọng nhất mà chúng ta thuần hóa là chính chúng ta. Đúng không?
So humanity is our greatest invention, but of course, we're not done yet. We're still inventing, and this is what technology is allowing us to do; it's continually to reinvent ourselves. It's a very, very strong force. I call this entire thing -- us humans as our technology, everything that we've made, gadgets in our lives -- we call that the technium. That's this world. My working definition of technology is: anything useful that a human mind makes. It's not just hammers and gadgets, like laptops. But it's also law. And, of course, cities are ways to make things more useful to us. While this is something that comes from our mind, it also has its roots deeply into the cosmos.
Vậy thì, loài người là phát minh tuyệt vời nhất của chúng ta. Nhưng dĩ nhiên chúng ta vẫn chưa dừng lại. Ta vẫn đang phát minh, và công nghệ cho phép ta - tiếp tục phát minh chính chúng ta. Đó là 1 thế lực mạnh, rất mạnh. Tôi gọi toàn bộ điều đó là công nghệ của chúng ta, mọi thứ chúng ta làm ra, giúp ích cho cuộc sống - ta gọi đó là kỹ thuật. Đó là thế giới này. Công việc định nghĩa công nghệ của tôi là "những thứ có lợi do con người làm ra." Không chỉ là búa hay tiện ích như laptop. Nhưng đó còn là luật pháp. Và tất nhiên các thành phố đang tạo ra những điều hữu ích hơn cho chúng ta. Những điều này đến từ suy nghĩ của ta, nó còn có nguồn gốc sâu xa đến từ vũ trụ này.
It goes back. The origins and roots of technology go back to the Big Bang, in this way, in that they are part of this self-organizing thread that starts at the Big Bang and goes through galaxies and stars, into life, into us. And the three major phases of the early universe was energy, when the dominant force was energy; then the dominant force, as it cooled, became matter; and then, with the invention of life four billion years ago, the dominant force in our neighborhood became information. That's what life is: an information process that was restructuring and making new order.
Nguyên bản và nguồn gốc của công nghệ trở lại với thuyết Big Bang, theo hướng này, chúng ta là 1 phần của chính những mảnh vụn bắt đầu từ vụ nổ Big Bang đi xuyên qua dải ngân hà và các vì sao, trở thành cuộc sống, trở thành chúng ta. Và 3 giai đoạn chính của vũ trụ sơ khai là năng lượng, là nguồn lực chính; sau đó khí bị lạnh đi, trở thành vật chất; và rồi, với sự phát triển của 4 triệu năm về trước, năng lượng chính trở thành thông tin. Đó là cuộc sống: đó là quá trình thông tin được tái cấu trúc và đổi mới trình tự. Nguồn năng lượng này, theo tiên đề Einstein cho thấy
So, energy and matter, Einstein showed were equivalent, and now new sciences of quantum computing show that entropy and information and matter and energy are all interrelated. So it's one long continuum. You put energy into the right kind of system, and out comes wasted heat, entropy, and extropy, which is order. It's the increased order.
nó cân bằng, và bây giờ khoa học mới về tính toán lượng tử cho thấy entropy, thông tin, vật chất và năng lượng có mối quan hệ, và là 1 chuỗi liên tục. Bạn đặt năng lượng đi vào 1 hệ thống và đầu ra là nhiệt, entropy và extropy, theo thứ tự. Đó là một trình tự gia tăng.
Where does this order come from? Its roots go way back. We actually don't know. But we do know that the self-organization trend throughout the universe is long, and it began with things like galaxies; they maintained their order for billions of years. Stars are basically nuclear fission machines that self-organize and self-sustain themselves for billions of years: order against the extropy of the world. And flowers and plants are the same thing, extended, and technology is basically an extension of life.
Trình tự đó đến từ đâu? Chúng ta thực sự không biết. Nhưng chúng ta biết xu hướng nó là vậy xuyên suốt vũ trụ, nó bắt đầu với 1 thứ như dải ngân hà; và duy trì trình tự này trong hàng tỷ năm. Các vì sao là cỗ máy hợp nhất nguyên tử tự tổ chức và duy trì trong hàng tỷ năm, trình tự này chống lại entropy thế giới. Và hoa và cây cỏ là tương tự nhau, được mở rộng, và công nghệ cơ bản là sự mở rộng của cuộc sống.
One trend that we notice in all those things is that the amount of energy per gram per second that flows through this is actually increasing. The amount of energy is increasing through this little sequence. And the amount of energy per gram per second that flows through life is actually greater than a star -- because of the star's long lifespan, the energy density in life is actually higher than a star. And the energy density that we see in the greatest amount anywhere in the universe is actually in a PC chip. There is more energy flowing through, per gram per second, than anything that we have any other experience with.
1 xu thế mà chúng ta nhận thấy ở mọi thứ là nguồn năng lượng/ gam/ giây chảy qua đây, thực sự đang tăng lên. Lượng năng lượng đang tăng lên xuyên suốt trình tự nhỏ này. Và lượng năng lượng trên mỗi gam/giây chảy qua cuộc sống thực sự cao hơn so với 1 ngôi sao - vì tuổi thọ kéo dài của ngôi sao, hàm lượng năng lượng trong cuộc sống thực sự cao hơn. Và hàm lượng năng lượng chúng ta thấy cao hơn hẳn bất cứ nơi nào trong vũ trụ là nằm ở con chip PC. Nó có nhiều năng lượng chảy qua trên mỗi gam/giây, hơn bất cứ thứ gì khác chúng ta từng biết. Điều tôi muốn đề nghị là nếu bạn muốn thấy
And so, what I would suggest is that if you want to see where technology is going, we continue that trajectory, and we say, "Well, it's going to become more energy-dense, that's where it's going." And so what I've done is, I've taken the same kinds of things and looked at other aspects of evolutionary life and say, "What are the general trends in evolutionary life?" And there are things moving towards greater complexity, moving towards greater diversity, moving towards greater specialization, sentience, ubiquity, and most important, evolvability. Those very same things are also present in technology. That's where technology is going.
nơi công nghệ đang hướng tới, hãy tiếp tục quỹ đạo này, và nghĩ rằng "Chuyện gì làm cho năng lượng trở nên dày đặc, là nơi nó hướng đến". Và những gì tôi làm là tập hợp tất cả những thứ tương tự nhau và nhìn vào những khía cạnh khác nhau của sự tiến hóa sự sống và nghĩ, "Xu hướng chung của sự tiến hóa là gì?" Và mọi thứ trở nên phức tạp, đa dạng hơn, trở nên chuyên biệt hóa hơn, có mặt ở khắp nơi, và điều quan trọng nhất là: Những thứ tương tự nhau này cũng là công nghệ. Đó là nơi công nghệ hướng đến.
In fact, technology is accelerating all the aspects of life. And we can see that happening; just as there's diversity in life, there's more diversity in things we make. Things in life start off being general cells, and they become specialized: you have tissue cells, muscle, brain cells. The same thing happens with, say, a hammer, which is general at first and becomes more specific. So I would like to say that while there are six kingdoms of life, we can think of technology basically as a seventh kingdom of life. It's a branching off from the human form.
Thực tế, công nghệ đang thúc đẩy mọi mặt của cuộc sống, nếu ta thấy nó diễn ra; đó là sự đa dạng của cuộc sống, những thứ ta làm ra ngày càng đa dạng. Mọi thứ bắt đầu thoát ra khỏi khuôn khổ, và trở nên chuyên biệt: Bạn có tế bào mô, cơ, não. Và những điều tương tự xảy ra như cái búa, ban đầu rất thô sơ rồi từ từ trở nên chuyên biệt. Tôi muốn nói là nếu có 6 vương quốc của sự sống, thì ta có thể xem công nghệ là vương quốc thứ 7. Đó là nhánh tách ra từ hình mẫu con người.
But technology has its own agenda, like anything, like life itself. For instance, right now, three-quarters of the energy that we use is actually used to feed the technium itself. In transportation, it's not to move us; it's to move the stuff we make or buy. I use the word "want." Technology wants. This is a robot that wants to plug itself in to get more power. Your cat wants more food. A bacterium, which has no consciousness at all, wants to move towards light. It has an urge, and technology has an urge.
Nhưng công nghệ có lộ trình của riêng nó, như bất kỳ thứ nào khác. Ví dụ, ngay đây, 3/4 năng lượng ta dùng là cho chính những thiết bị công nghệ này. Trong vận tải, nó không vận chuyển ta mà vận chuyển thứ mà ta mua hoặc làm ra. Tôi dùng từ "muốn". Công nghệ muốn. Chú robot này muốn được sạc pin để có thêm năng lượng. Con mèo của bạn muốn thêm thức ăn. Và vi khuẩn, loài không hề có ý thức, muốn di chuyển đến nơi có ánh sáng. Đó là sự thôi thúc, và công nghệ cũng vậy.
At the same time, it wants to give us things, and what it gives us is basically progress. You can take all kinds of curves, and they're all pointing up. There's really no dispute about progress, if we discount the cost of that. And that's the thing that bothers most people, is that progress is really real, but we wonder and question: What are the environmental costs of it?
Nó muốn cho chúng ta nhiều thứ, và những điều chúng cho ta cơ bản là sự tiến bộ. Chúng có thể vẽ mọi đường cong bạn muốn. Sẽ không có sự tranh luận về sự tiến bộ, nếu chúng ta thảo luận về giá của chúng. Và điều khiến hầu hết chúng ta khó chịu, đó là sự tiến bộ là hiện hữu, nhưng chúng ta lại tự hỏi: Cái giá cho những thứ này là gì?
I did a survey of the number of species of artifacts in my house, and there's 6,000. Other people have come up with 10,000. When King Henry of England died, he had 18,000 things in his house, but that was the entire wealth of England, so ...
Tôi đã làm 1 cuộc khảo sát số lượng vật dụng trong nhà tôi, và con số là 6.000. Những người khác lên đến 10.000 vật dụng. Khi vua Henry của vương quốc Anh chết, ông ấy có 18.000 đồ vật trong nhà, và đó là tất cả sự giàu có của nước Anh.
(Laughter)
Và với tất cả sự giàu có đó,
And with that entire wealth of England, King Henry could not buy any antibiotics, he could not buy refrigeration, he could not buy a trip of a thousand miles, whereas this rickshaw wallah in India could save up and buy antibiotics and he could buy refrigeration. He could buy things that King Henry, in all his wealth, could never buy. That's what progress is about.
vua Henry không thể mua kháng sinh, cũng không thể mua tủ lạnh, hay 1 chuyến du lịch hàng trăm dặm. Trong khi người lái xe kéo này ở Ấn Độ có thể dành dụm và mua kháng sinh và anh ấy cũng có thể mua tủ lạnh. Anh ấy có thể mua những thứ mà vua Henry không mua được. Đó là vì sự tiến bộ.
So, technology is selfish; technology is generous. That conflict, that tension, will be with us forever: sometimes it wants to do what it wants to do, and sometimes it's going to do things for us. We have confusion about what we should think about a new technology. Right now the default position when a new technology comes along, is people talk about the precautionary principle, which is very common in Europe, which says, basically, "Don't do anything. When you meet a new technology, stop, until it can be proven that it does no harm." I think that really leads nowhere.
Công nghệ là ích kỉ; là hào phóng. Sự mâu thuẫn đó sẽ theo chúng ta mãi, đôi khi nó muốn làm điều nó muốn, và đôi khi nó làm điều đó cho chúng ta. Chúng ta thấy bối rối khi nghĩ về công nghệ mới. Bây giờ vị trí mặc định về việc khi nào 1 công nghệ mới xuất hiện, là chúng ta - những người nói về nguyên tắc phòng bị, điều rất phổ biến ở châu Âu, nói đơn giản là "Đừng làm bất kì điều gì. Khi bạn gặp 1 công nghệ mới, hãy dừng lại, đến khi nó chứng minh nó vô hại." Tôi nghĩ điều đó thực sự chả dẫn đến đâu.
But a better way is what I call the proactionary principle, which is, you engage with technology. You try it out. You obviously do what the precautionary principle suggests, you try to anticipate it, but after anticipating it, you constantly asses it, not just once, but eternally. And when it diverts from what you want, we prioritize risk, we evaluate not just the new stuff, but the old stuff. We fix it; but most importantly, we relocate it. And what I mean by that is, we find a new job for it.
Nhưng cái tôi gọi là nguyên tắc phòng bị, là: Bạn có liên hệ với công nghệ. Bạn thử nghiệm nó. Bạn chắc chắn làm điều mà nguyên tắc phòng bị đã đề nghị, bạn thử đoán trước, nhưng sau đó, bạn lại luôn lừa nó, không chỉ 1 lần, mà luôn luôn là vậy. Và khi nó thay đổi khác với bạn mong muốn, bạn ưu tiên rủi ro, bạn đánh giá không chỉ những thứ mới, mà cả những thứ cũ. Chúng ta sửa đổi, thay đổi vị trí của nó. Và điều tôi muốn nói là chúng ta tìm thấy 1 công việc mới cho nó. Năng lượng nguyên tử, nhân bản
Nuclear energy, fission, is a really bad idea for bombs. But it may be a pretty good idea relocated into sustainable nuclear energy for electricity, instead of burning coal. When we have a bad idea, the response to a bad idea is not no ideas, it's not to stop thinking. The response to a bad idea -- like, say, a tungsten lightbulb -- is a better idea. So, better ideas is really always the response to technology we don't like; it's basically better technology. And actually, in a certain sense, technology is a kind of a method for generating better ideas, if you can think about it that way.
là ý tưởng tồi cho việc chế tạo bom. Nhưng nó có thể là 1 ý tưởng tốt để tái thiết năng lượng nguyên tử bền vững cho điện năng, thay vì sử dụng than đốt. Khi chúng ta có ý tưởng tồi, sự phản ứng lại ý tưởng đó không phải là không có ý tưởng, nhưng là ngừng suy nghĩ thôi. Sự đáp trả cho ý tưởng tồi - giống như, bóng đèn vonfram - là 1 ý tưởng tốt hơn. Đúng không? Vậy, những ý tưởng tốt hơn thực sự - luôn đáp lại công nghệ điều ta không thích về cơ bản, tốt hơn công nghệ. Và thực sự, công nghệ là 1 phương pháp giúp tạo ra ý tưởng tốt hơn, nếu bạn có thể nghĩ theo hướng đó.
So, maybe spraying DDT on crops is a really bad idea. But DDT sprayed on local homes -- there's nothing better to eliminate malaria, besides insect DDT-impregnated mosquito nets. But that's a really good idea; that's a good job for technology.
Có thể phun DDT lên hoa màu là ý tưởng tệ. Nhưng DDT được phun lên nhà, sẽ là 1 thứ tốt nhất để loại bỏ gỉ sét, bên cạnh đó, nó còn hạn chế côn trùng sinh sản và muỗi làm tổ. Nhưng đó thực sự là ý tưởng tốt; đó là mặt tốt của công nghệ.
So our job as humans is to parent our mind children, to find them good friends, to find them a good job. And so, every technology is sort of a creative force looking for the right job. That's actually my son, right here.
Vậy, công việc của chúng ta là nguồn gốc cho suy nghĩ của trẻ con, là tìm cho chúng những người bạn tốt, là tìm cho chúng công việc tốt. Và, mọi công nghệ là 1 nguồn sáng tạo để tìm thấy đúng công việc. Đó thực sự là con trai tôi, ở ngay đây.
(Laughter)
(Cười)
There are no bad technologies, just as there are no bad children. We don't say children are neutral; children are positive. We just have to find them the right place.
Không có công nghệ xấu, giống như không có đứa trẻ xấu. Ta đừng nói chúng là trung lập, lạc quan. Chúng ta chỉ cần tìm 1 nơi đúng với chúng.
And so, what technology gives us over the long term -- over this sort of extended evolution from the beginning of time, through the invention of the plants and animals, and the evolution of life, the evolution of brains -- what that is constantly giving us is increasing differences: It's increasing diversity, it's increasing options, it's increasing choices, opportunities, possibilities and freedoms. That's what we get from technology all the time. That's why people leave villages and go into cities -- because they are always gravitating towards increased choices and possibilities. And we are aware of the price; we pay a price for that, but we're aware of it, and generally, we will pay the price for increased freedoms, choices and opportunities.
Và rồi, điều công nghệ cho ta, suốt thời gian dài, suốt các giai đoạn mở rộng tiến hóa - ngay từ khi bắt đầu, xuyến suốt sự hình thành động thực vật, và sự tiến hóa của cuộc sống, của não bộ - những thứ nó đang đem lại cho ta đang tăng lên khác nhau: tăng sự đa dạng, tăng các giải pháp, tăng sự lựa chọn, cơ hội, khả năng và sự tự do. Đó là những gì ta có từ công nghệ. Đó là lý do tại sao con người rời bỏ làng và chuyển đến thành phố, là vì họ luôn hướng về những cơ hội và khả năng. Và chúng ta nhận thấy cái giá của nó. Chúng ta phải trả cho điều đó, và ta thấy chúng ta sẽ trả cái giá cho sự tự do, lựa chọn và cơ hội gia tăng.
Even technology wants clean water. Is technology diametrically opposed to nature? Because technology is an extension of life, it's in parallel and aligned with the same things that life wants. So that I think technology loves biology, if we allow it to. Great movement starting billions of years ago is moving through us and it continues to go, and our choice, so to speak, in technology, is really to align ourselves with this force much greater than ourselves.
Thậm chí công nghệ muốn làm sạch nước. Có phải công nghệ đã hoàn toàn thay đổi tự nhiên? Bởi vì công nghệ là phần mở rộng của cuộc sống, song song với những thứ tương tự mà cuộc sống muốn. Tôi nghĩ công nghệ thích sinh học, nếu chúng ta cho phép điều đó. Sự chuyển động bắt đầu từ hàng tỷ năm trước vẫn đang tiếp tục ở giữa chúng ta, và sự lựa chọn của chúng ta, trong công nghệ, đã sắp xếp chính chúng ta với nguồn lực tốt hơn chúng ta tự làm.
So, technology is more than just the stuff in your pocket; it's more than just gadgets, it's more than just things that people invent. It's actually part of a very long story -- a great story -- that began billions of years ago. It's moving through us, this self-organization, and we're extending and accelerating it, and we can be part of it by aligning the technology that we make with it. And I really appreciate your attention today.
Vậy, công nghệ không chỉ là những thứ nằm trong túi của bạn. Nó không chỉ là tiện ích; không chỉ là thứ con người tạo ra. Nó thực sự là 1 phần của câu chuyện rất dài, 1 câu chuyện tuyệt vời, bắt đầu từ hàng tỷ năm trước. Và nó di chuyển giữa chúng ta, ta đang mở rộng và đẩy nhanh tiến độ của nó và ta có thể là 1 phần của nó qua việc hiệu chỉnh công nghệ mà ta làm việc cùng. Tôi rất biết ơn sự có mặt của các bạn hôm nay. Cảm ơn.
Thank you.
(Vỗ tay)
(Applause)