In two weeks time, that's the ninth anniversary of the day I first stepped out onto that hallowed "Jeopardy" set. I mean, nine years is a long time. And given "Jeopardy's" average demographics, I think what that means is most of the people who saw me on that show are now dead. (Laughter) But not all, a few are still alive. Occasionally I still get recognized at the mall or whatever. And when I do, it's as a bit of a know-it-all. I think that ship has sailed, it's too late for me. For better or for worse, that's what I'm going to be known as, as the guy who knew a lot of weird stuff.
Hai tuần nữa, là kỷ niệm 9 năm kể từ ngày đầu tiên tôi bước chân vào game show Jeopardy thần thánh. 9 năm quả là một thời gian dài, và đã có cuộc thống kê nhân khẩu về Jeopardy rằng những người thấy tôi trên chương trình đầu tiên đó giờ đã chết. (Tiếng cười) (Jeopardy là một gameshow nổi tiếng của Mỹ) Nhưng không phải tất cả, một vài người vẫn còn đó. Đôi khi người ta vẫn nhận ra tôi tại siêu thị hoặc nơi nào đó. Những lúc như thế, tôi giống như ngài-biết-tuốt, nhưng con thuyền danh vọng đó giờ đã đi bỏ lại tôi. Dù tốt hay xấu thì tôi cũng được mọi người biết như một gã biết nhiều thứ kỳ quặc.
And I can't complain about this. I feel like that was always sort of my destiny, although I had for many years been pretty deeply in the trivia closet. If nothing else, you realize very quickly as a teenager, it is not a hit with girls to know Captain Kirk's middle name. (Laughter) And as a result, I was sort of the deeply closeted kind of know-it-all for many years. But if you go further back, if you look at it, it's all there. I was the kind of kid who was always bugging Mom and Dad with whatever great fact I had just read about -- Haley's comet or giant squids or the size of the world's biggest pumpkin pie or whatever it was. I now have a 10-year-old of my own who's exactly the same. And I know how deeply annoying it is, so karma does work. (Laughter)
Tôi không phàn nàn về việc đó. Tôi nghĩ nó giống như là một loại định mệnh, mặc dù tôi đã tốn nhiều năm vào những thứ không quan trọng đó. Chứ gì nữa, bạn dễ dàng nhận ra, ở tuổi teen nếu biết tên lót của Captain Kirk cũng không gây ấn tượng được gì với các cô nàng. (Tiếng cười) Và kết quả tôi đã giam mình làm ngài-biết-tuốt trong nhiều năm. Nhưng khi nhìn lại, bạn sẽ thấy tất cả vẫn còn đó. Tôi từng là một loại trẻ nhỏ chuyên quấy rầy bố và mẹ với những thứ hiện thực kỳ diệu mà mình vừa biết được -- sao chổi Haley hay mực ống khổng lồ, kích thước của chiếc bánh bí đỏ lớn nhất thế giới, đại loại như thế. Bây giờ thì tôi có một đứa nhóc 10 tuổi y như vậy. Và tôi đã biết việc đó phiền phức như thế nào, luật nhân quả báo ứng. (Tiếng cười)
And I loved game shows, fascinated with game shows. I remember crying on my first day of kindergarten back in 1979 because it had just hit me, as badly as I wanted to go to school, that I was also going to miss "Hollywood Squares" and "Family Feud." I was going to miss my game shows. And later, in the mid-'80s, when "Jeopardy" came back on the air, I remember running home from school every day to watch the show. It was my favorite show, even before it paid for my house. And we lived overseas, we lived in South Korea where my dad was working, where there was only one English language TV channel. There was Armed Forces TV, and if you didn't speak Korean, that's what you were watching. So me and all my friends would run home every day and watch "Jeopardy."
Tôi yêu các chương trình gameshow, hào hứng với chúng. Tôi nhớ mình đã khóc thế nào ngày đầu tiên đi mẫu giáo năm 1979 bởi vì, tuy rất thích đến trường, nhưng đến trường nghĩa là... tôi sẽ phải bỏ lỡ Hollywood Squares và Family Feud (những game show khác). Tôi rất nhớ chúng. Sau đó, những năm 80 khi Jeopardy phát sóng trở lại, Tôi nhớ mình đã chạy từ trường về nhà mỗi ngày để được xem nó. Đó là chương trình yêu thích của tôi, ngay cả trước khi nó đã giúp tôi... trả tiền nhà. Gia đình tôi sống ở nước ngoài, cha tôi làm việc ở Hàn Quốc chỗ đó chỉ có duy nhất một kênh truyền hình tiếng Anh. Đó là Armed Forces TV và nếu bạn không biết tiếng Hàn thì đó là kênh duy nhất bạn có. Đó là lý do tôi và những đứa bạn đều chạy về nhà mỗi ngày để xem Jeopardy.
I was always that kind of obsessed trivia kid. I remember being able to play Trivial Pursuit against my parents back in the '80s and holding my own, back when that was a fad. There's a weird sense of mastery you get when you know some bit of boomer trivia that Mom and Dad don't know. You know some Beatles factoid that Dad didn't know. And you think, ah hah, knowledge really is power -- the right fact deployed at exactly the right place.
Tôi luôn là một thằng bé đam mê tìm hiểu những thứ xung quanh. Tôi nhớ từ những năm 80, tôi đã có thể chơi thắng bố mẹ tôi trò Trivia Pursuit (game như jeopardy) điều đó quả thật thích thú. Bạn sẽ có một cảm giác thông thái kỳ lạ khi bạn biết nhiều hơn bố mẹ bạn. Bạn biết những thông tin về Beatles mà bố bạn không biết, và bạn nghĩ, à ha, kiến thức thực sự là sức mạnh -- sức mạnh phải được phát huy đúng chỗ.
I never had a guidance counselor who thought this was a legitimate career path, that thought you could major in trivia or be a professional ex-game show contestant. And so I sold out way too young. I didn't try to figure out what one does with that. I studied computers because I heard that was the thing, and I became a computer programmer -- not an especially good one, not an especially happy one at the time when I was first on "Jeopardy" in 2004. But that's what I was doing.
Tôi chưa từng gặp cố vấn nghề nghiệp nào nghĩ rằng chuyện này là con đường sự nghiệp nghiêm túc, hay bạn có thể có chuyên ngành kiến thức chung chung hay trở thành một thí sinh thi game show chuyên nghiệp. Vậy nên tôi từ bỏ nó khi còn rất nhỏ. Tôi đã không nghĩ ra nghề phù hợp với kiến thức mà mình có. Tôi học ngành máy tính vì nghĩ nó là một thứ gì đó hay ho và tôi đã trở thành lập trình viên -- không phải là một người giỏi lắm không phải là một người đặc biệt hạnh phúc lắm cho đến khi tôi tham gia Jeopardy lần đầu năm 2004. Nhưng đó là những gì tôi làm.
And it made it doubly ironic -- my computer background -- a few years later, I think 2009 or so, when I got another phone call from "Jeopardy" saying, "It's early days yet, but IBM tells us they want to build a supercomputer to beat you at 'Jeopardy.' Are you up for this?" This was the first I'd heard of it. And of course I said yes, for several reasons. One, because playing "Jeopardy" is a great time. It's fun. It's the most fun you can have with your pants on. (Laughter) And I would do it for nothing. I don't think they know that, luckily, but I would go back and play for Arby's coupons. I just love "Jeopardy," and I always have. And second of all, because I'm a nerdy guy and this seemed like the future. People playing computers on game shows was the kind of thing I always imagined would happen in the future, and now I could be on the stage with it. I was not going to say no.
Và chuyện đó trớ trêu gấp bội -- nền tảng của tôi ngành máy tính -- vài năm sau đó, tôi nhớ là khoảng 2009 khi tôi nhận một cuộc gọi từ Jeopardy rằng: "Hơi sớm để thông báo, nhưng IBM nói với chúng tôi họ muốn tạo một siêu máy tính có thể đánh bại anh trong Jeopardy. Anh có sẵn sàng cho chuyện này không?" Lần đầu tôi nghe được chuyện lạ vậy. Dĩ nhiên là tôi đồng ý, vì một vài lý do. Thứ nhất, bởi vì được chơi Jeopardy luôn là khoảng thời gian tuyệt vời. Nó thú vị, nó hầu như là trò hay ho nhất mà bạn có thể chơi khi còn mặc quần. (Tiếng cười) Tôi sẽ chơi nó cho dù không được gì. May là họ không biết điều đó, nhưng tôi sẽ trở lại và chơi để lấy thêm phần thưởng cho Arby. Đơn giản là tôi yêu Jeopardy và luôn luôn như thế. Thứ hai, bởi vì tôi là một gã mọt sách trên máy tính và chuyện này có vẻ như có tương lai. Người ta đấu nhau với máy tính trong trong game shows là những gì tôi luôn tưởng tượng sẽ xảy ra trong tương lai và giờ thì tôi có thể dự phần vào chuyện đó. Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ từ chối.
The third reason I said yes is because I was pretty confident that I was going to win. I had taken some artificial intelligence classes. I knew there were no computers that could do what you need to do to win on "Jeopardy." People don't realize how tough it is to write that kind of program that can read a "Jeopardy" clue in a natural language like English and understand all the double meanings, the puns, the red herrings, unpack the meaning of the clue. The kind of thing that a three- or four-year-old human, little kid could do, very hard for a computer. And I thought, well this is going to be child's play. Yes, I will come destroy the computer and defend my species. (Laughter)
Bởi vì lý do thứ 3 là tôi đã rất tự tin mình sẽ thắng. Tôi đã từng học vài lớp về trí tuệ nhân tạo. Tôi biết máy tính không thể làm được việc mà bạn cần làm để giành chiến thắng trong Jeopardy. Mọi người không nhận thức được khó khăn như thế nào để viết được một chương trình có thể đọc hiểu những manh mối mà Jeopardy đưa ra trong thứ ngôn ngữ tự nhiên như tiếng Anh và hiểu được những hàm ý những từ đồng nghĩa, đồng thanh hay cách chơi chữ để giải được những ý nghĩa của manh mối. Những thứ một đứa bé 3 hay 4 tuổi có thể làm được, nhưng sẽ rất khó cho một cái máy tính. Tôi nghĩ sẽ như là một trò chơi trẻ con thôi. Vâng, tôi sẽ tiêu diệt cái máy tính và bảo vệ giống loài của tôi. (Tiếng cười)
But as the years went on, as IBM started throwing money and manpower and processor speed at this, I started to get occasional updates from them, and I started to get a little more worried. I remember a journal article about this new question answering software that had a graph. It was a scatter chart showing performance on "Jeopardy," tens of thousands of dots representing "Jeopardy" champions up at the top with their performance plotted on number of -- I was going to say questions answered, but answers questioned, I guess, clues responded to -- versus the accuracy of those answers. So there's a certain performance level that the computer would need to get to. And at first, it was very low. There was no software that could compete at this kind of arena. But then you see the line start to go up. And it's getting very close to what they call the winner's cloud. And I noticed in the upper right of the scatter chart some darker dots, some black dots, that were a different color. And thought, what are these? "The black dots in the upper right represent 74-time 'Jeopardy' champion Ken Jennings." And I saw this line coming for me. And I realized, this is it. This is what it looks like when the future comes for you. (Laughter) It's not the Terminator's gun sight; it's a little line coming closer and closer to the thing you can do, the only thing that makes you special, the thing you're best at.
Nhưng năm tháng đi qua IBM đã chi hàng đống tiền bạc và nhân lực cho những bộ vi xử lý, tôi cập nhật những thông tin từ họ, và bắt đầu cảm thấy chút lo lắng. Tôi nhớ một bài báo khoa học về chuyện các phần mềm dùng để trả lời câu hỏi có một biểu đồ. Đó là một biểu đồ phân tán thể hiện khả năng trả lời trong Jeopardy, hơn 10 ngàn đốm tròn ở phía trên thể hiện những nhà vô địch Jeopardy với biểu hiện của họ trước những con số -- Tôi định nói câu hỏi được trả lời, nhưng câu trả lời được hỏi lại, tôi nghĩ những gợi ý cho câu hỏi -- đối đầu với độ chính xác của những câu trả lời. Đó là cấp độ xử lý nhất định mà máy tính phải đạt được. Đầu tiên, nó rất chậm. Không có một phần mềm nào có thể chiến thắng trong lĩnh vực rộng như thế này. Nhưng rồi bạn thấy biểu đồ bắt đầu đi lên. Và nó bắt đầu gần bằng với vị trí của những nhà vô địch. Tôi để ý phía góc trên bên phải nơi cạnh những đốm đen đã có một màu khác. Nghĩ xem đó là gì? "Những đốm đen đại diện cho 74 lần vô địch Jeopardy của Ken Jennings." Tôi thấy nó đã tiến gần đến tôi, và tôi biết chuyện xong rồi đó. Tương lai đang đến có hình dạng như thế này. (Tiếng cười) Nó không phải là nòng súng ngắm của "Terminator"; nó là một đường đến ngày càng tiệm cận những gì bạn có thể làm, thứ duy nhất làm cho bạn trở nên đặc biệt, thứ mà bạn xuất sắc nhất.
And when the game eventually happened about a year later, it was very different than the "Jeopardy" games I'd been used to. We were not playing in L.A. on the regular "Jeopardy" set. Watson does not travel. Watson's actually huge. It's thousands of processors, a terabyte of memory, trillions of bytes of memory. We got to walk through his climate-controlled server room. The only other "Jeopardy" contestant to this day I've ever been inside. And so Watson does not travel. You must come to it; you must make the pilgrimage.
Và rồi cuộc chơi cũng đã diễn ra một năm sau, nó rất khác với những Jeopardy mà tôi từng quen thuộc. Chúng tôi không chơi ở LA như thường lệ. Watson (tên máy tính của IBM) không thể di chuyển. Watson khổng lồ. Nó là hàng ngàn vi xử lý, một nghìn tỷ byte bộ nhớ, tỷ tỷ byte bộ nhớ. Chúng tôi đi xuyên qua phòng điểu khiển server. Đấu thủ Jeopardy duy nhất mà tôi từng đột nhập vào bên trong. Watson không thể di chuyển. Bạn phải tìm đến Watson, bạn phải thực hiện chuyến hành hương.
So me and the other human player wound up at this secret IBM research lab in the middle of these snowy woods in Westchester County to play the computer. And we realized right away that the computer had a big home court advantage. There was a big Watson logo in the middle of the stage. Like you're going to play the Chicago Bulls, and there's the thing in the middle of their court. And the crowd was full of IBM V.P.s and programmers cheering on their little darling, having poured millions of dollars into this hoping against hope that the humans screw up, and holding up "Go Watson" signs and just applauding like pageant moms every time their little darling got one right. I think guys had "W-A-T-S-O-N" written on their bellies in grease paint. If you can imagine computer programmers with the letters "W-A-T-S-O-N" written on their gut, it's an unpleasant sight.
Tôi và một người chơi khác hồi hộp trong phòng nghiên cứu bí mật của IBM giữa rừng mùa đông lạnh lẽo ở Westchester để đấu với một cái máy tính. Chúng tôi đã tức khắc nhận ra rằng máy tính có lợi thế sân nhà rất lớn. Một logo Watson to ở giữa sân đấu. Giống như bạn phải đấu với Chicago Bulls, đó là những gì ở giữa sân đấu. Còn xung quanh là đám đông gồm những sếp to và lập trình viên của IBM cổ vũ cho cục cưng bé bỏng của họ, thứ họ đã tốn hàng triệu đôla đầu tư hy vọng chống lại hy vọng rằng con người thất bại, và họ cầm biểu ngữ "Cố lên Watson" và vỗ tay như người mẹ cổ vũ cho đứa con cưng khi nó trả lời đúng. Tôi nghĩ một số gã dùng cả phấn nước trang điểm để vẽ lên bụng chữ "W-A-T-S-O-N". Nếu bạn có thể tưởng tượng những lập trình viên với chữ "W-A-T-S-O-N" được viết trên bụng như thế chắc hẳn không dễ chịu gì.
But they were right. They were exactly right. I don't want to spoil it, if you still have this sitting on your DVR, but Watson won handily. And I remember standing there behind the podium as I could hear that little insectoid thumb clicking. It had a robot thumb that was clicking on the buzzer. And you could hear that little tick, tick, tick, tick. And I remember thinking, this is it. I felt obsolete. I felt like a Detroit factory worker of the '80s seeing a robot that could now do his job on the assembly line. I felt like quiz show contestant was now the first job that had become obsolete under this new regime of thinking computers. And it hasn't been the last.
Nhưng họ đúng, họ toàn toàn đúng. Tôi không muốn nhiều chuyện phá hoại, nếu bạn vẫn đang coi chương trình nhưng Watson chiến thắng một cách thuận lợi. Tôi nhớ lúc đứng ở bục thi đấu tôi có thể nghe thấy tiếng nhịp tay nho nhỏ như tiếng côn trùng. Có một ngón tay robot nhịp nhịp trên nút bấm dành quyền trả lời, và bạn có thể nghe những tiếng tic, tic, tic nho nhỏ. Tôi nhớ là mình đã nghĩ: thế là xong. Tôi cảm thấy mình bị lỗi thời rồi. Tôi cảm giác như là công nhân ở nhà máy Detroit những năm 80 nhìn con robot sau này đã thay họ làm việc trên dây chuyền lắp ráp. Tôi cảm giác nghề đi thi trả lời câu hỏi là nghề đầu tiên trở nên lỗi thời dưới chế độ thống trị của những cỗ máy suy nghĩ. Vẫn chưa hết.
If you watch the news, you'll see occasionally -- and I see this all the time -- that pharmacists now, there's a machine that can fill prescriptions automatically without actually needing a human pharmacist. And a lot of law firms are getting rid of paralegals because there's software that can sum up case laws and legal briefs and decisions. You don't need human assistants for that anymore. I read the other day about a program where you feed it a box score from a baseball or football game and it spits out a news article as if a human had watched the game and was commenting on it. And obviously these new technologies can't do as clever or creative a job as the humans they're replacing, but they're faster, and crucially, they're much, much cheaper. So it makes me wonder what the economic effects of this might be. I've read economists saying that, as a result of these new technologies, we'll enter a new golden age of leisure when we'll all have time for the things we really love because all these onerous tasks will be taken over by Watson and his digital brethren. I've heard other people say quite the opposite, that this is yet another tier of the middle class that's having the thing they can do taken away from them by a new technology and that this is actually something ominous, something that we should worry about.
Nếu bạn xem tin tức, bạn sẽ vô tình thấy -- và tôi đã thấy nhiều lần -- ngành dược sĩ bây giờ, đã có máy chia thuốc theo đơn thuốc tự động mà không thực sự cần một người dược sĩ. Và rất nhiều công ty luật sa thải những trợ lý luật sư vì đã có phần mềm có thể thống kê những vụ kiện, bản tóm tắt và những phán quyết. Bạn không cần sự hỗ trợ của con người cho những việc như thế nữa. Tôi đã đọc ở đâu đó một chương trình bạn chỉ cần nạp vào nó tỉ số bàn thắng từ một trận đấu bóng chày hay bóng đá nó sẽ phun ngược lại một bài báo về trận đấu đó, như thể một người đã xem trận đấu và bình luận về nó. Tất nhiên những công nghệ mới này không thể làm những việc đòi hỏi sự khéo léo hay sáng tạo như con người mà chúng đang thay thế, nhưng nó nhanh hơn, cơ bản hơn và rẻ hơn rất rất rất nhiều. Vậy nên nó làm tôi suy nghĩ đến những ảnh hưởng kinh tế của nó. Tôi đọc thấy một nhà kinh tế học nói rằng, với những công nghệ này chúng ta sẽ tiến vào kỷ nguyên vàng son của sự thoải mái khi tất cả chúng ta có thời gian làm những việc chúng ta thật sự thích bởi vì đã có Watson và những anh em kỹ thuật số của nó lo những việc nặng nhọc. Tôi cũng nghe những điều ngược lại hoàn toàn rằng chuyện đó như thêm một trói buộc cho tầng lớp lao động khi công ăn việc làm của họ sắp bị thứ công nghệ mới này cướp đi, chuyện đó thật sự là không dễ chịu, chuyện đó làm cho bạn lo lắng.
I'm not an economist myself. All I know is how it felt to be the guy put out of work. And it was friggin' demoralizing. It was terrible. Here's the one thing that I was ever good at, and all it took was IBM pouring tens of millions of dollars and its smartest people and thousands of processors working in parallel and they could do the same thing. They could do it a little bit faster and a little better on national TV, and "I'm sorry, Ken. We don't need you anymore." And it made me think, what does this mean, if we're going to be able to start outsourcing, not just lower unimportant brain functions. I'm sure many of you remember a distant time when we had to know phone numbers, when we knew our friends' phone numbers. And suddenly there was a machine that did that, and now we don't need to remember that anymore. I have read that there's now actually evidence that the hippocampus, the part of our brain that handles spacial relationships, physically shrinks and atrophies in people who use tools like GPS, because we're not exercising our sense of direction anymore. We're just obeying a little talking voice on our dashboard. And as a result, a part of our brain that's supposed to do that kind of stuff gets smaller and dumber. And it made me think, what happens when computers are now better at knowing and remembering stuff than we are? Is all of our brain going to start to shrink and atrophy like that? Are we as a culture going to start to value knowledge less? As somebody who has always believed in the importance of the stuff that we know, this was a terrifying idea to me.
Tôi không phải nhà kinh tế tất cả những gì tôi biết là cảm giác một người bị cướp mất việc là như thế nào. Nó làm người ta thật sự suy sụp. Nó thật kinh khủng. Thứ duy nhất mà bạn giỏi bị cướp mất bởi hàng chục triệu đôla và những người thông minh nhất của IBM hàng ngàn bộ vi xử lý song song và chúng có thể làm việc tương tự bạn. Chúng có thể làm nhanh hơn và tốt hơn trên kênh truyền hình quốc gia, và "Xin lỗi, Ken. chúng tôi không cần cậu nữa". Chuyện này làm tôi nghĩ, cái gì thế này nếu chúng ta đang bắt đầu thay thế không chỉ những chức năng không quan trọng của bộ não. Tôi chắc tất nhiều bạn còn nhớ khoảng thời gian trước khi chúng ta phải ghi nhớ số điện thoại của người quen và bạn bè. Rồi đột nhiên máy móc đã làm việc đó và bây giờ chúng ta không cần phải ghi nhớ nữa. Tôi đọc đâu đó chứng minh rằng bộ phận hippocampus - hồi hải mã bộ phận trong não trước của chúng ta, nắm giữ những mối quan hệ đặc biệt bị teo nhỏ và hao mòn trong những người sử dụng công cụ như GPS, bởi vì chúng ta không luyện tập khả năng định hướng nữa. Chúng ta chỉ việc tuân lệnh cái giọng chỉ bảo trên màn hình. Hệ quả là phần não đúng ra được dùng cho việc định hướng dần trở nên teo nhỏ và vô dụng. Nó làm tôi nghĩ, vậy chuyện gì xảy ra khi ngày nay máy tính tốt hơn chúng ta trong việc nhận biết và ghi nhớ? Có phải bộ não của tất cả chúng ta đều bắt đầu teo nhỏ và hao mòn như vậy? Văn hoá chúng ta đang dần coi nhẹ giá trị của kiến thức sao? Với tư cách là một người luôn tin vào tầm quan trọng của những điều mà con người thật sự hiểu biết, suy nghĩ này làm tôi kinh hãi.
The more I thought about it, I realized, no, it's still important. The things we know are still important. I came to believe there were two advantages that those of us who have these things in our head have over somebody who says, "Oh, yeah. I can Google that. Hold on a second." There's an advantage of volume, and there's an advantage of time.
Càng nghĩ nhiều về nó tôi nhận ra: Không phải thế! Nó vẫn quan trọng. Những thứ chúng ta biết vẫn quan trọng. Tôi tin những người có sẵn kiến thức trong đầu có hai lợi thế trước những người kiểu: "Oh, vâng, tôi có thể Google nó, đợi chút". Đó là lợi thế về khối lượng và lợi thế về thời gian.
The advantage of volume, first, just has to do with the complexity of the world nowadays. There's so much information out there. Being a Renaissance man or woman, that's something that was only possible in the Renaissance. Now it's really not possible to be reasonably educated on every field of human endeavor. There's just too much. They say that the scope of human information is now doubling every 18 months or so, the sum total of human information. That means between now and late 2014, we will generate as much information, in terms of gigabytes, as all of humanity has in all the previous millenia put together. It's doubling every 18 months now. This is terrifying because a lot of the big decisions we make require the mastery of lots of different kinds of facts. A decision like where do I go to school? What should I major in? Who do I vote for? Do I take this job or that one? These are the decisions that require correct judgments about many different kinds of facts. If we have those facts at our mental fingertips, we're going to be able to make informed decisions. If, on the other hand, we need to look them all up, we may be in trouble. According to a National Geographic survey I just saw, somewhere along the lines of 80 percent of the people who vote in a U.S. presidential election about issues like foreign policy cannot find Iraq or Afghanistan on a map. If you can't do that first step, are you really going to look up the other thousand facts you're going to need to know to master your knowledge of U.S. foreign policy? Quite probably not. At some point you're just going to be like, "You know what? There's too much to know. Screw it." And you'll make a less informed decision.
Đầu tiên về khối lượng, trong một thế giới phức tạp như ngày nay. Quá nhiều thông tin ngoài kia. Để trở thành những nhà Phục Hưng là chuyện chỉ có thể trong thời Phục Hưng. Giờ thì không thể học cho hết những kiến thức trong tất cả lĩnh vực của loài người. Quá nhiều. Người ta nói quy mô thông tin của loài người đang được gấp đôi lên sau mỗi 18 tháng, tổng những kiến thức loài người. Nghĩa là từ giờ đến cuối năm 2014 chúng ta sẽ tạo ra một lượng thông tin, nhìn góc độ gigabyte, bằng tổng thông tin loài người có được từ vài thiên niên kỷ trước cộng lại với nhau. Nó gấp đôi lên sau mỗi 18 tháng kể từ bây giờ. Điều này thật kinh khủng bởi vì rất nhiều quyết định chúng ta ra dựa trên sự thấu hiểu nhiều dạng thông tin. Quyết định kiểu như tôi nên học trường nào? Nên chọn chuyên ngành nào? Tôi sẽ bầu cho ai? Tôi nhận làm việc này hay việc kia? Những quyết định này đòi hỏi sự đánh giá chính xác dựa trên nhiều loại thông tin khác nhau. Nếu chúng ta có sẵn những thông tin này trong đầu, chúng ta có thể đi đến một quyết định đúng đắn. Ngược lại, nếu chúng ta phải tìm kiếm nó chúng ta có thể gặp rắc rối. Theo một nghiên cứu trên National Geographic tôi vừa xem, đâu đó khoảng 80% người tham gia bỏ phiếu bầu chọn tổng thống Hoa Kỳ vì vấn đề như chính sách ngoại giao không tìm ra Iraq và Afghanistan trên bản đồ. Nếu bạn không tự mình làm được việc đó, liệu bạn có sẵn sàng tìm kiếm hàng ngàn thông tin khác mà bạn cần biết để nắm vững kiến thức về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ? Tất nhiên là không. Có thể là bạn sẽ phản ứng kiểu: "Bạn biết chứ? Quá nhiều thứ cần biết. Kệ nó đi". Và bạn sẽ ra một quyết định thiếu căn cứ.
The other issue is the advantage of time that you have if you have all these things at your fingertips. I always think of the story of a little girl named Tilly Smith. She was a 10-year-old girl from Surrey, England on vacation with her parents a few years ago in Phuket, Thailand. She runs up to them on the beach one morning and says, "Mom, Dad, we've got to get off the beach." And they say, "What do you mean? We just got here." And she said, "In Mr. Kearney's geography class last month, he told us that when the tide goes out abruptly out to sea and you see the waves churning way out there, that's the sign of a tsunami, and you need to clear the beach." What would you do if your 10-year-old daughter came up to you with this? Her parents thought about it, and they finally, to their credit, decided to believe her. They told the lifeguard, they went back to the hotel, and the lifeguard cleared over 100 people off the beach, luckily, because that was the day of the Boxing Day tsunami, the day after Christmas, 2004, that killed thousands of people in Southeast Asia and around the Indian Ocean. But not on that beach, not on Mai Khao Beach, because this little girl had remembered one fact from her geography teacher a month before.
Vấn đề tiếp theo là lợi thế về thời gian mà bạn có nếu bạn có tất cả kiến thức sẵn trong đầu. Tôi luôn nhớ câu chuyện về một bé gái tên Tilly Smith, 10 tuổi đến từ vùng Surrey, nước Anh trong một chuyến du lịch cùng với bố mẹ của bé vài năm trước ở Phuket, Thái Lan. Một buổi sáng nọ, em đã chạy ào đến nói với bố mẹ: "Bố, mẹ, chúng ta phải đi khỏi bãi biển ngay". Bố mẹ em hỏi: "Ý con là sao? Chúng ta vừa mới tới đây thôi mà". Em trả lời: "Thầy Kearney trong giờ Địa Lý tháng trước nói rằng khi những con sóng đánh ngược ra biển đột ngột và chúng ta thấy những con sóng đánh xoáy dữ dội ngoài xa đó là dấu hiệu của sóng thần, và mọi người phải đi khỏi bãi biển ngay". Bạn sẽ làm gì nếu một bé gái 10 tuổi chạy đến và nói với bạn như vậy? Bố mẹ con bé đã suy nghĩ và cuối cùng họ quyết định tin vào con bé. Họ nói cho cứu hộ rồi trở về khách sạn và cứu hộ đã sơ tán được hơn 100 người khỏi bờ biển, thật may mắn, vì đó là ngày sóng thần đã xảy ra, đúng ngày lễ Boxing Day một ngày sau giáng sinh 2004, sóng thần đã lấy đi hàng ngàn mạng sống khắp Đông Nam Á và quanh Ấn Độ Dương. Nhưng không phải trên bãi biển Mai Khao đó mà là kiến thức từ giáo viên địa lý cô bé ghi nhớ một tháng trước.
Now when facts come in handy like that -- I love that story because it shows you the power of one fact, one remembered fact in exactly the right place at the right time -- normally something that's easier to see on game shows than in real life. But in this case it happened in real life. And it happens in real life all the time. It's not always a tsunami, often it's a social situation. It's a meeting or job interview or first date or some relationship that gets lubricated because two people realize they share some common piece of knowledge. You say where you're from, and I say, "Oh, yeah." Or your alma mater or your job, and I know just a little something about it, enough to get the ball rolling. People love that shared connection that gets created when somebody knows something about you. It's like they took the time to get to know you before you even met. That's often the advantage of time. And it's not effective if you say, "Well, hold on. You're from Fargo, North Dakota. Let me see what comes up. Oh, yeah. Roger Maris was from Fargo." That doesn't work. That's just annoying. (Laughter)
Kiến thức trở nên hữu ích như vậy đấy -- tôi thích câu chuyển bởi vì nó cho bạn thấy sức mạnh của kiến thức một khi kiến thức được ghi nhớ và được sử dụng đúng nơi, đúng thời điểm -- thường bạn chỉ thấy trên game show hơn là ngoài đời thực. Nhưng trường hợp này đã xảy ra trong đời thật. Nó luôn xảy ra trong đời thật. Không chỉ là sóng thần, mà những tình huống ngoài xã hội, cuộc họp, phỏng vấn công việc hay là buổi hẹn hò đầu tiên hoặc những mối quan hệ bỗng trở nên suôn sẻ bởi cả hai phía nhận ra họ có chung một số mảng kiến thức phổ thông. Bạn nói bạn từ đâu đến, tôi nói: "Ồ, vâng" hay trường bạn học hay nghề nghiệp bạn làm, và tôi chỉ biết chút ít về nó cũng đủ làm câu chuyện tiếp tục. Con người thích sự chia sẻ kết nối được tạo ra này khi có ai đó biết chút gì đó về bạn. Cảm giác giống như họ đã bỏ thời gian tìm hiểu trước khi gặp bạn. Thường đó là lợi thế về mặt thời gian. Nó sẽ không hiệu quả nếu bạn nói: "À, khoan đã. Bạn đến từ Fargo, North Dakota. Để tôi xem nào. Ồ, vâng, Roger Maris cũng đến từ Fargo." Nó không hiệu quả. Nó làm người ta thấy phiền thôi. (Tiếng cười)
The great 18th-century British theologian and thinker, friend of Dr. Johnson, Samuel Parr once said, "It's always better to know a thing than not to know it." And if I have lived my life by any kind of creed, it's probably that. I have always believed that the things we know -- that knowledge is an absolute good, that the things we have learned and carry with us in our heads are what make us who we are, as individuals and as a species. I don't know if I want to live in a world where knowledge is obsolete. I don't want to live in a world where cultural literacy has been replaced by these little bubbles of specialty, so that none of us know about the common associations that used to bind our civilization together. I don't want to be the last trivia know-it-all sitting on a mountain somewhere, reciting to himself the state capitals and the names of "Simpsons" episodes and the lyrics of Abba songs. I feel like our civilization works when this is a vast cultural heritage that we all share and that we know without having to outsource it to our devices, to our search engines and our smartphones.
Nhà tư tưởng, nhà thần học vĩ đại người Anh thế kỷ 18, bạn của Dr. Johnson, ngài Samuel Parr từng nói: "Sẽ luôn tốt hơn nếu bạn biết một chuyện hơn là bạn không biết". Và nếu tôi phải sống cuộc đời theo bất kỳ tín ngưỡng nào đó thì... chính là nó. Tôi đã luôn tin rằng những gì chúng ta biết -- những kiến thức chắc chắn là chuyện tốt, những thứ chúng ta đã học và cất giữ chúng trong đầu chúng ta là những thứ đã làm nên chúng ta như những cá thể riêng biệt, như một giống loài. Tôi không biết liệu tôi có muốn sống trong một thế giới mà nơi đó kiến thức là lạc hậu không. Tôi không muốn sống trong một thế giới mà kỹ năng văn hóa bị thay thế bởi những trái bóng nhỏ đặc biệt này, làm cho không ai trong chúng ta hiểu biết về những giao tiếp phổ thông từng được dùng để kết nối những nền văn minh của chúng ta lại với nhau. Tôi không muốn tôi trở thành người-biết-tuốt cuối cùng ngồi trên một ngọn núi đâu đó tự kể lại tên những thủ phủ của các bang, tên những tập phim Simpsons và mấy lời bài hát của nhóm Abba. Tôi cảm thấy nền văn minh của chúng ta hiệu quả một khi những kiến thức văn hóa xã hội truyền thống chúng ta có, chúng ta biết mà không phải thuê các thiết bị bên ngoài, những cỗ máy tìm kiếm hay điện thoại thông minh giúp chúng ta lưu trữ.
In the movies, when computers like Watson start to think, things don't always end well. Those movies are never about beautiful utopias. It's always a terminator or a matrix or an astronaut getting sucked out an airlock in "2001." Things always go terribly wrong. And I feel like we're sort of at the point now where we need to make that choice of what kind of future we want to be living in. This is a question of leadership, because it becomes a question of who leads the future. On the one hand, we can choose between a new golden age where information is more universally available than it's ever been in human history, where we all have the answers to our questions at our fingertips. And on the other hand, we have the potential to be living in some gloomy dystopia where the machines have taken over and we've all decided it's not important what we know anymore, that knowledge isn't valuable because it's all out there in the cloud, and why would we ever bother learning anything new.
Trong điện ảnh, khi những cỗ máy như Watson bắt đầu biết suy nghĩ mọi thứ luôn không có kết thúc tốt đẹp. Những bộ phim ấy không bao giờ kết thúc có hậu. Kiểu phim như "The Terminator" hay "Matrix" hay phi hành gia bị kẹt ngoài không gian trong phim "2001". Mọi thứ luôn đi đến tồi tệ. Và tôi cảm giác chúng ta hiện đang ở thời điểm cần đưa ra sự lựa chọn: loại tương lai nào mà chúng ta muốn sống trong đó. Đây là câu hỏi cho những người lãnh đạo, bởi vì nó trở thành câu hỏi: ai sẽ dẫn dắt tương lai. Một mặt, chúng ta có thể chọn giữa một kỷ nguyên vàng son nơi mà thông tin được phổ biến sẵn nhiều hơn bao giờ hết trong lịch sử nhân loại nơi chúng ta có câu trả lời cho tất cả câu hỏi trong tầm tay. Mặt khác, chúng ta có khả năng phải sống ở nơi u ám đổ nát nơi mà máy móc nắm toàn quyền và tất cả chúng ta quyết định rằng chuyện chúng ta biết gì không quan trọng nữa, kiến thức không còn giá trị nữa bởi vì mọi thứ nằm sẵn trong đám mây (công nghệ điện toán đám mây) tại sao chúng ta phải mệt người cố gắng học thứ gì đó mới chi nữa.
Those are the two choices we have. I know which future I would rather be living in. And we can all make that choice. We make that choice by being curious, inquisitive people who like to learn, who don't just say, "Well, as soon as the bell has rung and the class is over, I don't have to learn anymore," or "Thank goodness I have my diploma. I'm done learning for a lifetime. I don't have to learn new things anymore." No, every day we should be striving to learn something new. We should have this unquenchable curiosity for the world around us. That's where the people you see on "Jeopardy" come from. These know-it-alls, they're not Rainman-style savants sitting at home memorizing the phone book. I've met a lot of them. For the most part, they are just normal folks who are universally interested in the world around them, curious about everything, thirsty for this knowledge about whatever subject.
Đó là 2 sự lựa chọn chúng ta. Tôi thì biết mình thích cuộc sống như thế nào trong tương lai rồi. Tất cả chúng ta có thể chọn sự chọn lựa đó, bằng cách hãy trở thành người ham hiểu biết, tìm tòi -- là người thích học hỏi chứ không phải chỉ nói: "Khi nào chuông reo thì lớp học sẽ kết thúc, ta không phải học thêm gì nữa," hoặc "Cảm ơn chúa, tôi đã có tấm bằng, đời này chuyện học đến đây kết thúc. Tôi sẽ không phải học thêm gì mới nữa cả." Không, mỗi ngày chúng ta phải không ngừng học hỏi một cái gì đó mới. Chúng ta phải có sự kiên trì học hỏi về thế giới xung quanh chúng ta. Những người tham gia Jeopardy đến từ những nẻo đường đó. Những người-biết-tuốt, họ là những bác học kiểu Rainman ngồi ở nhà và ghi nhớ danh bạ điện thoại. Tôi đã gặp rất nhiều những người như họ. Về mọi mặt, họ là những người bình thường những người luôn thích thú những thứ xung quanh mình, tìm tòi khám phá chúng, khát khao có kiến thức về tất cả lĩnh vực.
We can live in one of these two worlds. We can live in a world where our brains, the things that we know, continue to be the thing that makes us special, or a world in which we've outsourced all of that to evil supercomputers from the future like Watson. Ladies and gentlemen, the choice is yours.
Chúng ta có thể sống ở một trong hai thế giới đó. Chúng ta có thể sống ở một thế giới -- nơi mà bộ óc và những điều chúng ta hiểu biết tiếp tục làm chúng ta trở nên đặc biệt, hoặc ở thế giới khác chúng ta phụ thuộc tất cả vào những siêu cổ máy ma thuật đến từ tương lai như Watson. Kính thưa quý vị, sự lựa chọn là ở các bạn.
Thank you very much.
Cảm ơn các bạn rất nhiều.