(Interpreter voice-over) Hello, everyone. My name is Keith Nolan. I’m a cadet private. My talk today is on the topic of the military. How many of you out there thought you’d ever like to join the military? I see a number of you nodding. And I thought the same thing ever since I was young.
(Thông dịch viên) Chào mọi người. Tôi là Keith Nolan. Tôi là một binh nhì tập sự. Chủ đề tôi chia sẻ hôm nay là quân đội. Ai ở đây từng nghĩ mình muốn tham gia quân đội? Tôi thấy một số bạn gật đầu. Tôi cũng có suy nghĩ như thế kể từ khi còn nhỏ.
Growing up, I’d always wanted to join the military. I loved military history and I’ve read a great deal on the subject. Also, I have various family members, such as my grandfather and great uncle, who fought in World War II. And like them, I wanted the same thing: to serve my country. So the question is: Can I? No, I can’t. Why? Simply because I’m deaf. Regardless of that fact, I still had that longing to join the military.
Lớn lên, tôi luôn muốn vào quân đội. Tôi yêu lịch sử quân sự và tôi đã đọc rất nhiều về đề tài này. Và rất nhiều thành viên gia đình tôi, như là ông tôi và chú của ba tôi từng chiến đấu ở Thế chiến thứ II. Và giống như họ, tôi cũng muốn như vậy: phụng sự tổ quốc. Câu hỏi đặt ra: Tôi có thể không? Không, tôi không thể. Tại sao? Đơn giản chỉ vì tôi bị điếc. Bất kể sự thật đó, tôi vẫn khao khát gia nhập quân đội.
For example, after I graduated from high school, three months before 9/11 occurred, I went to a naval recruiting center with high hopes of joining the navy. I went in and a strapping naval man stood up and addressed me. As he was speaking to me, it was impossible for me to read his lips, so I said, “I'm sorry, I’m deaf.” He tore off a little piece of paper and wrote down three words: “Bad ear. Disqual.” He didn't even fully spell out "Disqualified," just: “Bad ear. Disqual.” So I went on my way. I tried various locations a number of different times, trying to join, but over and over again, I got the same response: “Sorry, you’re deaf. We can’t accept you.”
Ví dụ, sau khi tốt nghiệp trung học, ba tháng trước khi xảy ra sự kiện 9/11, tôi đến trung tâm tuyển quân của Hải quân với hy vọng có thể gia nhập hải quân. Tôi đi vào và một người mặc quân phục đứng dậy và nói chuyện với tôi. Khi ông ấy nói, tôi không thể đọc được chuyển động môi của ông, vì vậy tôi đã nói, “Tôi xin lỗi, tôi bị điếc”. Ông ấy đã xé một mảnh giấy nhỏ và viết xuống vài từ: "Tai kém. Không đạt". Ông ấy thậm chí chẳng ghi đầy đủ “Không đạt chuẩn”. mà chỉ là “Tai kém. Không đạt”. Vậy nên tôi phải ra về. Tôi đã thử nhiều lần ở các đơn vị khác, cố gắng để nhập ngũ, nhưng lặp đi lặp lại, tôi nhận cùng một câu trả lời: “Xin lỗi, bạn bị điếc. Chúng tôi không thể nhận bạn.”
So I shifted gears and decided to become a teacher. I completed a master's in deaf education and taught for almost two years, until this past spring, when three things occurred that changed that course, the first of which, while I was teaching a high school history class. I’d lectured on the Mexican-American War. The bell had rung, and I was seated at my desk, when one of my students, who is deaf, approached me and said that he’d like to join the military. I said, “Ah, sorry. You can’t. You're deaf.” Then I caught myself. It struck me that all along I had been told no, I can’t, and now I was perpetuating that same message to the next generation, to my own student. That realization had a large impact that really resonated with me.
Nên tôi đổi hướng, và quyết định trở thành giáo viên. Tôi hoàn tất bằng thạc sĩ về giáo dục khiếm thính và đi dạy trong gần hai năm, cho đến mùa xuân vừa rồi, khi ba điều xảy ra làm thay đổi con đường đó. Đầu tiên, khi tôi đang dạy tiết lịch sử tại lớp trung học. Tôi đã giảng về Chiến tranh Mexico-Mỹ. Chuông tan lớp vang lên, tôi ngồi ở bàn của mình, một trong những học sinh khiếm thính tiến đến gần tôi và nói rằng cậu muốn gia nhập quân đội. Tôi nói, “À, thật tiếc. Em không thể. Em bị điếc mà.” Rồi tôi tự ngộ ra một điều. Tôi nhận ra trước giờ người khác cứ bảo tôi không đủ khả năng, và giờ tôi lặp lại thông điệp tương tự với thế hệ tiếp theo, với chính học sinh của mình. Nhận thức đó tạo tác động lớn mà thực sự liên can nhiều đến tôi.
Now, the second thing that happened, my friend had just moved to Israel. Did you know that in Israel they accept deaf people into the military? How can deaf people be in the military, right? Could this really be true? Come on! Well, I went to Israel last summer to see for myself. I interviewed 10 deaf Israeli soldiers, all of those video interviews and questions I’ve compiled, and the findings, I’ll share with you later.
Và, điều thứ hai đã xảy ra, là bạn của tôi vừa mới chuyển đến Israel. Các bạn có biết ở Israel, họ chấp nhận người khiếm thính nhập ngũ không? Sao người khiếm thính lại có thể nhập ngũ cơ chứ? Có thể nào đây là sự thật không? Thôi nào! À, tôi đã đến Israel vào mùa hè năm ngoái để tự mình kiểm chứng. Tôi đã phỏng vấn mười người lính Isarel khiếm thính, tất cả những video phỏng vấn và câu hỏi tôi đã soạn sẵn, cả những kết luận nữa, tôi sẽ chia sẻ với các bạn sau.
Thirdly, CSUN here, my alma mater, had recently started up an Army ROTC program. ROTC, which stands for Reserve Officer Training Corps, allows students working on their college majors to concurrently participate in the ROTC program. Upon graduation, ROTC students have a military career ready and waiting for them. So if one joined the army, one could commission as a second lieutenant. That's generally the ROTC program here at CSUN.
Thứ ba, tại CSUN nơi này, trường cũ của tôi, gần đây đã bắt đầu một chương trình ROTC của Quân đội. ROTC là viết tắt của Quân đoàn Huấn luyện Sĩ quan dự bị, cho phép sinh viên tiếp tục học chuyên ngành đồng thời tham gia vào chương trình ROTC. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên ROTC đã có một sự nghiệp quân sự sẵn sàng và chờ đợi họ. Vậy nếu sinh viên đó gia nhập quân đội, họ có thể được phong quân hàm thiếu úy. Đó gọi chung là chương trình ROTC tại CSUN.
Having learned that, I was intrigued. I already had a profession as a teacher, but I went ahead anyway and sent an email off to the program, explaining that I was a teacher of the deaf, wondering if I could take a few classes with them and perhaps share their lessons with my students. I got an email response back, and surprisingly, it was the first time that I wasn't told, "Sorry, no, you can’t. You’re deaf." It said, "Well, that's interesting. I think maybe we can work something out and you can take a few classes with us." This was unprecedented. So naturally, I was shocked. Although I was teaching, I decided I had to grab the opportunity right away and get my foot in the door. Altogether, that's how it transpired. Now, with all my life experiences, having talked with all the people I had, and given everything I’ve read, I decided to write a research paper called “Deaf in the Military.” I'll share with you what those 98 pages entail.
Khi biết về điều đó, tôi thấy khá tò mò. Nghề nghiệp hiện tại của tôi là giáo viên, nhưng tôi vẫn cứ gửi email đến chương trình, giải thích rằng tôi là giáo viên khiếm thính, muốn hỏi xem tôi có thể tham gia vài lớp học cùng họ không và có thể chia sẻ bài học của họ cho sinh viên của tôi. Tôi đã nhận được email phản hồi, và đáng ngạc nhiên, đó là lần đầu tiên tôi không nhận lại câu: “Xin lỗi, không được, bạn khiếm thính”. Họ nói, "Ồ, thật thú vị. Tôi nghĩ có lẽ ta có thể tìm cách và bạn có thể tham gia vài lớp với chúng tôi. ” Điều này chưa từng có trước đây. Vì vậy, đương nhiên, tôi đã bị sốc. Mặc dù đang giảng dạy, nhưng tôi quyết định chớp lấy cơ hội ngay và khởi bước thuận lợi. Tất cả, đó là cách nó diễn ra. Bây giờ, với tất cả kinh nghiệm sống của tôi, nhờ nói chuyện với mọi người tôi quen, cộng với mọi thứ tôi đã đọc, tôi quyết định viết một bài nghiên cứu có tên là “Khiếm thính trong Quân đội.” Tôi sẽ chia sẻ với bạn 98 trang đó chứa nội dung gì.
Here in America, we’ve actually had deaf soldiers serving in the past. In fact, during the Texas War of Independence, there was a key character named Deaf Smith, who made a large contribution to that war effort. For the American Civil War, Gallaudet University actually has archived a list of deaf soldiers in that war from the North and the South, showing that deaf soldiers were even fighting against each other. During World War II, there are a few rare examples of deaf people who made it into the military at that time and were able to serve their country as well. History illustrates the fact that America has had deaf soldiers, in contrast to today.
Ở Mỹ này, thực sự đã có những người lính khiếm thính phục vụ trong quá khứ. Trên thực tế, trong cuộc Chiến tranh giành độc lập ở Texas, có một nhân vật chủ chốt tên Deaf Smith, người đã đóng góp rất lớn cho nỗ lực chiến tranh đó. Đối với cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, Đại học Gallaudet đã lưu trữ danh sách những người lính khiếm thính tham chiến từ phía Bắc và phía Nam, cho thấy những người lính khiếm thính thậm chí chiến đấu chống lại nhau. Trong suốt thế chiến II, có một vài ví dụ hiếm hoi về những người khiếm thính đã vào được quân đội lúc bấy giờ cũng như có thể phục vụ quốc gia của họ. Lịch sử chứng minh rằng Mỹ đã từng có những người lính khiếm thính, trái ngược với thời nay.
In my paper, I also discuss the deaf Israeli soldiers. I learned that they serve in non-combat roles. The deaf soldiers are not on the front lines engaged in fire, but rather, are behind the lines serving in supportive roles. There are a plethora of various non-combat jobs accessible to the deaf: intelligence, computer technology, map drawing, supply, military dog training -- the list goes on. The communication between deaf Israeli soldiers and other soldiers who are hearing is carried out with the same approaches deaf people in general use with the hearing public on a daily basis. You can use your voice, lip-read, gestures, sometimes another soldier knows sign language and that can be utilized, pen and paper, texts, computers, emails -- seriously, there’s no magic wand necessary. It's the same thing we do every day. Interpreters are used there primarily for boot camp training. For the average work, it’s not necessary to have an interpreter by your side. The Israeli Army is comprised of small groups. Each of these units with deaf soldiers have developed their own way of communicating with each other, so there’s no need for interpreters. The top picture is of one soldier I met. The bottom photo is of Prime Minister Begin with a deaf soldier in Israel.
Trong bài báo, tôi cũng bàn về những người lính Israel khiếm thính. Tôi được biết họ phục vụ ở những vị trí hậu phương. Lính khiếm thính không chiến đấu ở tiền tuyến đầy lửa đạn, thay vào đó lui về hậu phương hỗ trợ tiền tuyến. Có hàng đống những việc hậu phương mà lính khiếm thính có thể làm, tình báo, kỹ thuật máy tính, vẽ bản đồ, cung ứng, huấn luyện chó quân đội và còn rất nhiều nữa. Sự giao tiếp giữa người lính khiếm thính và những người lính khác được thực hiện giống với cách người khiếm thính hay sử dụng trong cuộc sống thường nhật với xã hội. Bạn có thể dùng giọng nói, đọc chuyển động môi, hoặc cử chỉ, đôi khi tận dụng ngôn ngữ kí hiệu nếu những người lính khác có biết, viết ra giấy, tin nhắn, máy tính, email,.. Thật sự, ta chẳng cây đũa phép nào cả. Đó là điều mà chúng ta làm mỗi ngày. Thông dịch viên thường được sử dụng cho trại huấn luyện doanh trại. Với công việc bình thường, không cần thiết có thông dịch viên đồng hành. Quân đội Israel bao gồm những nhóm nhỏ. Từng nhóm này có những người lính khiếm thính đã tự tìm ra cách giao tiếp với nhau, vì thế, không cần đến thông dịch viên. Bức tranh đầu là một người lính tôi đã gặp. Bức tranh bên dưới là Thủ tướng Begin cùng một người lính khiếm thính tại Israel.
Another part of my paper touches on disabled soldiers in the US Military. Obviously, military work can be dangerous and involve injury. One example here is Captain Luckett. Due to an explosion, he lost his leg. He’s recovered and currently has a prosthetic leg. Now that he’s strong, he's back in combat, still fighting in Afghanistan. It’s remarkable. And guess what? He’s not the only one. There are 40 other soldiers like him, amputees who are serving in combat zones. Incredible.
Phần khác của bài báo cáo tiếp cận những người lính khuyết tật trong Quân đội Mỹ. Tất nhiên, công việc quân đội có thể nguy hiểm và gây chấn thương. Một ví dụ ở đây là Đại úy Luckett. Vì một vụ nổ, anh ấy mất đi chân của mình. Anh ấy đã hồi phục và hiện giờ đang sử dụng chân giả. Bây giờ khi đã khỏe, anh ấy quay lại chiến trường và tiếp tục chiến đấu ở Afghanistan. Thật đáng kinh ngạc. Và bạn thử đoán xem? Không chỉ có một mình anh ấy. Có 40 người lính khác cũng như anh ấy, những người khuyết chi đang phục vụ trong vùng chiến. Thật đáng kinh ngạc.
Also, we have a blind soldier here. While he was in Iraq, an explosion from a suicide car bomber destroyed his eyesight. He’s recovered and hasn’t left the army. The army has retained him on active duty, and he’s currently running a hospital for wounded soldiers. I also found out online about another soldier, who is deaf in one ear. He’s developed civil programs in Iraq, one of which actually started a school for the deaf in Iraq. All of this is incredible. But I am going to ask all of you: If the US Military can retain their disabled soldiers, why can’t they accept disabled citizens as well? Moreover, out of all the US Military jobs, 80% are non-combat positions. There are many jobs that we in the Deaf community can do. If I were to be in the military, I’d like to do intelligence work. But there is an array of other things we can do, such as mechanics, finance, medicine, etc.
Tương tự vậy, ở đây ta có một người lính mù. Khi anh ấy phục vụ ở Iraq, vụ nổ do kẻ ôm bom tự sát cài vào xe hơi đã phá hủy thị lực của anh ấy. Anh ấy đã hồi phục và chưa rời khỏi quân đội. Quân đội đã giữ anh ấy tại ngũ, và anh ấy hiện đang điều hành một bệnh viện cho thương binh. Tôi cũng tìm được trên mạng tin về một người lính khác bị mất thính lực một bên tai. Anh xuất thân từ chương trình dân dụng tại Iraq, chương trình khởi dựng trường học cho những người khiếm thính tại Iraq. Tất cả điều này thật là không tưởng. Bây giờ tôi xin hỏi tất cả các bạn: Nếu quân đội Mỹ có thể giữ lại những người lính khuyết tật của họ, sao họ lại không thể chấp nhận những công dân khuyết tật? Vả lại, trong số tất cả các công việc của Quân đội Hoa Kỳ, 80% là những vị trí hậu phương. Có nhiều công việc mà cộng đồng khiếm thính chúng tôi có thể đảm nhận. Nếu được tham gia quân đội, tôi muốn được làm công việc tình báo. Nhưng có hàng tá thứ khác chúng tôi có thể làm, như cơ khí, tài chính, y học, vân vân.
So to summarize, I’ve presented three premises to support my argument, the first being, Israeli defense openly accepts deaf soldiers. If you have the qualities and skills required, they’ll take you. Secondly, the US Military has accommodations for retaining their disabled soldiers. And lastly, 80% of occupations in the military are non-combat. Now, can we Deaf Americans serve our country? Yes! Of course! Absolutely, without a doubt!
Vậy để tóm gọn, tôi sẽ trình bày ba tiền đề để ủng hộ lập luận của mình. Đầu tiên, Bộ quốc phòng Israel công khai chấp nhận những người lính khiếm thính. Nếu bạn đáp ứng đủ tố chất và kĩ năng, họ sẽ nhận bạn. Thứ hai, Quân đội Hoa Kỳ có đủ chỗ để giữ lại những binh lính khuyết tật. Và điều cuối, 80% công việc trong quân đội là việc hậu phương. Những người Mỹ khiếm thính chúng tôi có thể phục vụ quốc gia chứ? Được chứ! Dĩ nhiên rồi! Hoàn toàn không còn nghi ngờ gì!
Now I’ll explain a bit about my experience in the Army ROTC, which began last fall. I have been involved with that thus far and it’s still going on now. Really, I need to preface this by saying that this is the first time my battalion had ever had a deaf cadet. They had never experienced that before. So of course, they were taken aback, wondering, initially, how I would do this or that, how would we communicate and such, which is a natural reaction, considering that many of them had never interacted with a deaf person prior to me. Plus, I was taken aback by this -- it was the real thing, the army. I had to learn a whole new world, full of military jargon, with its own culture and everything. So we started out slow, getting to know each other and learning how to work together, progressively.
Tôi sẽ giải thích sơ về những trải nghiệm trong Quân ngũ ROTC của tôi, bắt đầu vào mùa thu năm ngoái. Tôi đã được tham gia cho đến nay và hiện tại vẫn đang tiếp tục. Thật ra, tôi cần phải nói trước điều này, đây là lần đầu tiên tiểu đoàn của tôi có một học viên khiếm thính. Chưa từng có trường hợp nào trước đây. Nên phản ứng ban đầu của họ là ngạc nhiên và băn khoăn về cách tôi làm việc này việc kia, cách chúng tôi giao tiếp, tương tự thế, đó là phản ứng tự nhiên khi mà nhiều người trong số họ chưa từng tiếp xúc với người khiếm thính trước khi gặp tôi. Thêm vào đó, tôi đã rất ngạc nhiên bởi vì quân đội trở thành hiện thực với tôi rồi. Tôi phải làm quen với thế giới mới, với đầy những thuật ngữ quân sự, với văn hóa riêng của nó và mọi thứ. Chúng tôi bắt đầu từ từ, làm quen với nhau và dần dần học cách làm việc cùng nhau.
For example, on the first day of class, I had no uniform. So I showed up in regular clothes, while the other cadets were all in uniform. I found out that every morning at 5:30, there was physical training, PT. On Fridays, there would be field training -- labs -- off-campus, and occasionally, we would have weekend training at a military base. So I showed up, ready, each morning at 5:30, with all the cadets in uniform and me in civilian clothes. They told me, “Hey, you know, you don't need to work out. You can just simply take classes.” I told them I wanted to, anyway. They acknowledged that, and I continued to show up every morning to train.
Ví dụ như, vào ngày học đầu tiên, tôi không có quân phục. Nên tôi đến lớp với thường phục, trong khi các học viên khác đều mặc quân phục. Tôi biết được rằng mỗi sáng lúc 5:30, sẽ có buổi tập luyện thể chất, PT. Vào thứ Sáu, sẽ có huấn luyện thực địa, phòng thí nghiệm, ngoài kí túc xá, và thỉnh thoảng vào cuối tuần, sẽ có khóa huấn luyện tại căn cứ quân sự. Nên 5 giờ 30 mỗi sáng, tôi đã có mặt và sẵn sàng, mặc thường phục và đứng cùng với các học viên mặc quân phục. Họ nói: “Này, anh biết đấy, anh không cần phải luyện tập. Anh chỉ cần đến lớp học thôi." Tôi đáp, là vì tôi muốn thôi. Họ hiểu ý tôi và tôi lại tiếp tục đến tập luyện mỗi sáng.
When Friday came, I asked if I could do the field training. I was told no, just stick with class. I insisted that I wanted to try. Somewhat reluctantly, they let me attend the lab, but only as an observer; I would only be allowed to sit and watch, not participate. Alright, so, I showed up on Friday, and watched as the cadets learned marching drill commands, like how to stand at attention, how to properly salute, and all the basics. I had to ask again if I could join. Finally, I got the go-ahead. I went to get in formation. I figured I better stand in the second line, so I could watch what the cadets were doing in the row ahead of me. But the officer who opened the door for me to join the ROTC program spotted me in the back and said, “Hey! Uh-uh. I want you in the front. You want to be a soldier? You've got to learn the commands just like the rest of them. You’re not going to follow other people. Learn it yourself!” I thought, "Wow. He’s viewing me like any person, giving dignity to who I am." I was impressed by that.
Vào thứ Sáu, tôi hỏi xem mình có được tham gia huấn luyện thực địa. Họ bảo tôi, không được, cứ tập trung đến lớp thôi. Tôi nài nỉ rằng mình muốn được thử. Dù hơi miễn cưỡng, họ vẫn cho tôi tham gia cùng, nhưng chỉ được đứng quan sát. Tôi chỉ được ngồi xem, mà không được tham gia. Thôi cũng được, tôi có mặt vào hôm thứ Sáu, và quan sát các học viên học các lệnh diễn tập hành quân, đứng nghiêm ra sao, động tác chào như thế nào là chuẩn, và những thứ cơ bản. Tôi phải hỏi xin được tham gia thêm lần nữa. Cuối cùng cũng được phép. Tôi nghĩ “được thôi”. Tôi đứng vào hàng ngũ. Tốt hơn hết thì tôi nên đứng hàng hai, để có thể quan sát cách các học viên phía trước thực hiện. Nhưng người chỉ huy đã cho tôi cơ hội tham gia chương trình ROTC đã nhận ra tôi đang đứng phía sau và nói: “Này. Ừ anh đấy. Anh lên phía đầu hàng đi. Muốn thành người lính hả? Anh phải học các lệnh như mọi người thôi. Đừng bắt chước người khác. Tự mình học đi!” Tôi thầm nghĩ: “Chà. Anh ấy xem tôi như bao người, đề cao lòng tự tôn của tôi.” Tôi đã rất ấn tượng về điều đó.
So as the weeks went by, I still didn’t have a uniform. I asked if it would be possible to get one, but I was told it wasn't. So I continued on that way, until one day, I was informed that I’d be getting a uniform. "Please!" I said, “Really? Why? What changed?” I was told, “We see your motivation, you show up every morning, dedicated, and always gave a 110% effort.” They wanted to give me the uniform. It was remarkable. We went to the warehouse to get my uniform. I assumed I’d just get a uniform and a pair of boots, nothing more. But they filled two duffel bags chock-full of gear: helmet, ammo vest, shovel, sleeping bag -- the whole nine yards. I was astonished. And I have to tell you, each morning that I get up and put on my uniform, I feel privileged. It’s truly an honor to wear the uniform.
Nhiều tuần nữa trôi qua, tôi vẫn không được phát quân phục. Tôi hỏi liệu tôi có được nhận quân phục không? Câu trả lời là không. Vậy nên tôi vẫn cứ như mọi ngày, và đến một hôm, tôi biết được rằng mình sắp được nhận quân phục. Tôi nói: “Làm ơn đi. Có thật không? Sao đột nhiên lại như vậy?” Họ nói:” Chúng tôi thấy được nỗ lực của anh, anh quyết tâm có mặt mỗi sáng, và luôn nỗ lực 110% sức mình." Họ muốn trao cho tôi bộ quân phục. Thật không tin được. Chúng tôi đi đến nhà kho để lấy quân phục. Tôi đinh ninh sẽ chỉ nhận một bộ quân phục và đôi giày bốt mà thôi. Nhưng họ nhét vào hai túi vải thô đầy những trang thiết bị: mũ bảo hiểm, áo chống đạn, xẻng, túi ngủ, dài tận chín thước. Tôi lấy làm kinh ngạc. Và tôi phải nói rằng, mỗi sáng thức dậy và được mặc quân phục lên người, tôi thấy thật vinh dự. Thật sự vinh dự khi được mặc quân phục.
So, moving along, when it came time to train at the garrison base, at first, I was told I couldn’t go. There was concern on the ROTC's part that if the interpreter were to get injured during the training, it would be a liability issue. So we had to figure out all those issues and confusion, but we worked it out, and in the end, they let me go. That's how events were unfolding; I was permitted to do more and more.
Thì, chuyện cứ tiếp diễn, khi đã đến lúc tập huấn tại căn cứ đồn trú, ban đầu, họ bảo tôi không thể tham gia, Phía ROTC có lo ngại rằng nếu phiên dịch viên của tôi bị thương trong buổi tập huấn, sẽ làm nảy sinh vấn đề trách nhiệm. Vì vậy, chúng tôi phải giải quyết tất cả những vấn đề và sự nhầm lẫn đó, nhưng chúng tôi đã làm được, và cuối cùng, họ cho phép tôi đi. Đó là cách các sự kiện đã diễn ra; Tôi dần được phép làm nhiều điều hơn.
Once, at the garrison base, during one of the training days, a huge Chinook helicopter with its tandem rotors landed right down to us, forcefully spinning exhilaration in the air. All of us cadets were supposed to be getting on board. Everyone was geared up and ready. However, the cadre had decided I wasn’t going to be able to ride the Chinook. They were afraid if the pilot shouted out orders, how would I be able to follow the instructions? I’d potentially cause a disruption. So I had to stand aside, while the others were filing toward the helicopter. I could see the cadre huddled up, discussing, mulling it over. At the last minute, one of them said, “Come on! Get on the helicopter!” I rushed over and got in. It was such a thrill.
Có lần, tại căn cứ đồn trú, trong một trong những ngày đào tạo ấy, một chiếc trực thăng Chinook khổng lồ, có cánh quạt song song hạ cánh xuống chỗ chúng tôi, cánh quạt quay bần bật trong không trung. Tất cả binh nhì đều phải leo lên máy bay. Mọi người đã chuẩn bị và sẵn sàng. Tuy nhiên, cán bộ quyết định tôi không được bước lên chiếc Chinook. Họ sợ rằng nếu phi công hét to mệnh lệnh, làm sao tôi có thể làm theo hướng dẫn? Tôi có khả năng gây ra gián đoạn. Vì vậy, tôi phải đứng sang một bên, trong khi những người khác đổ dồn về phía trực thăng. Tôi có thể thấy các vị cán bộ tụ lại, thảo luận, bàn tán sôi nổi. Vào phút chót, một trong số họ nói, “Nào! Bước lên trực thăng đi! ” Tôi chạy vội và nhảy lên. Thật phấn khích.
And that was the spirit of learning about and supporting one another that carried over. And since then, I’ve been involved in everything they do, without any separation. This is where my passion lies. I love them. I’ll show you some pictures here.
Và đó là tinh thần học hỏi và hỗ trợ lẫn nhau đã được tiếp nối. Và kể từ đó, tôi tham gia mọi việc họ làm, không có sự tách biệt nào cả. Đam mê của tôi thuộc về nơi này. Tôi yêu họ. Tôi sẽ cho bạn xem một số hình ảnh ở đây.
Bruin Battalion, Bravo Company -- that’s the name of the group I belong to. The cadre are the officers and sergeants who oversee the ROTC program. In the beginning, you can see, it was a bit of an awkward phase. But once they learned more about me and what I’m capable of doing, there's been tremendous support and unity. The cadets, my fellow peers -- well, when you train and sweat together, you feel the bond of camaraderie right away. A brother- or sisterly cohesiveness makes them like family. In training and military science classes, we learn theories of warfare, how to lead soldiers, how to do reconnaissance, strategies, how to knock out a bunker and land navigation, where you’re finding your way out in the mountains. As far as accommodations, I’ve been provided with interpreters through the National Center on Deafness, NCOD, here at CSUN. And I really have to thank them, because it's hard to find interpreters who are willing to wake up at 4:30 in the morning, or sometimes even 3:30 in the morning.
Tiểu đoàn Bruin, Công ty Bravo, đó là tên của nhóm mà tôi tham gia. Cán bộ là các sĩ quan và trung sĩ phụ trách giám sát chương trình ROTC. Ban đầu, bạn có thể thấy, giai đoạn đó hơi ngượng ngùng. Nhưng một khi họ đã hiểu thêm về tôi và những gì tôi có thể làm được, họ nhiệt tình hỗ trợ và gắn kết. Các học viên, đồng môn của tôi, chà, khi bạn cùng tập luyện và đổ mồ hôi, bạn sẽ cảm thấy tình bằng hữu thân thiết ngay lập tức. Sự gắn kết như anh em hoặc chị em khiến họ giống như gia đình vậy. Trong các lớp đào tạo và khoa học quân sự, chúng tôi học các lý thuyết về chiến tranh, cách chỉ huy lính, cách trinh sát, chiến lược, cách để loại bỏ boong-ke và điều hướng trên bộ, ở nơi bạn đang tìm đường ra khỏi vùng núi. Bên cạnh chỗ ở, tôi được cung cấp thông dịch viên thông qua Trung tâm Quốc gia về Khiếm thính - NCOD, ở đây tại CSUN. Và tôi thực sự phải cảm ơn họ, bởi vì rất khó để tìm thông dịch viên sẵn sàng thức dậy lúc 4 giờ 30 sáng, hoặc đôi khi thậm chí 3 giờ 30 sáng.
That's the officer who emailed me back, saying I think you can have a few classes with us. That's Lieutenant Mendoza. That’s my interpreter there, before class starts. This is a picture from last fall, when we were new to training.
Đó là sĩ quan đã gửi email trả lời tôi, nói rằng tôi nghĩ bạn có thể học một vài lớp với chúng tôi. Đó là Trung úy Mendoza. Còn kia là thông dịch viên của tôi, trước khi lớp bắt đầu. Đây là một hình ảnh từ mùa thu năm ngoái, khi chúng tôi mới tập luyện.
This is Lieutenant Colonel Phelps, this being his name sign. He's the commanding officer of the entire Bruin Battalion. Every time I see him walk by, it’s rather inspiring. I mean, the way he presents himself, you can see he’s the epitome of a soldier. Plus, he doesn't view me as a deaf person. He looks at my skills and capabilities instead. He’s really pushed for me, and I respect him for all that.
Đây là Trung tá Phelps, đây là tên ký hiệu của anh ấy. Anh ấy là sĩ quan chỉ huy của toàn bộ Tiểu đoàn Bruin. Mỗi lần nhìn thấy anh ta đi ngang qua, tôi cảm thấy rất có động lực. Ý tôi là, cách anh thể hiện bản thân, bạn có thể thấy anh là người lính mẫu mực. Thêm vào đó, anh ấy không xem tôi là người khiếm thính. Thay vào đó, anh ấy nhìn vào kỹ năng và năng lực của tôi. Anh ta tạo động lực cho tôi, và tôi tôn trọng anh ấy vì tất cả những điều đó.
That’s me during one of the exercises. This is that Chinook helicopter I almost didn’t get on. Every cadet has a mentor. My mentor is Cinatl. He’s a really sharp soldier. He teaches me all the finer points and how to execute them ideally.
Đó là tôi trong một buổi tập. Đây là trực thăng Chinook mà tôi suýt không được bước lên. Mỗi học viên đều có một người cố vấn. Người hướng dẫn của tôi là Cinatl. Anh ta là một người lính thực sự sắc sảo. Anh ấy dạy cho tôi mọi điều tinh túy và cách lý tưởng để thực hiện chúng.
This top picture is when a group of us went to Las Vegas to compete in a test, to see if we could match the German troops' physical training standards. It involved swimming, timed sprints, marksmanship and numerous fitness events. I passed them and satisfied the requirements to be awarded the gold German Armed Forces Proficiency Badge right here. This is one of the sergeants, Sergeant Richardson. I love this guy. He doesn't take baloney from any of us cadets.
Hình ảnh hàng trên cùng này là khi nhóm chúng tôi đến Las Vegas để thi thử một bài kiểm tra, để xem chúng tôi có phù hợp tiêu chuẩn huấn luyện thể chất của Đức hay không. Bao gồm bơi lội, chạy nước rút bấm giờ, thiện xạ và nhiều hoạt động thể dục. Tôi đã vượt qua chúng và đáp ứng các yêu cầu, để được trao tặng Huy hiệu Thành thạo Lực lượng Vũ trang Đức bằng vàng ngay đây. Đây là một trong những trung sĩ, Trung sĩ Richardson. Tôi ngưỡng mộ anh chàng này. Anh ta không chấp nhận kiểu chểnh mảng của học viên.
Here I am one morning, when we trekked seven and a half miles with a 40-pound rucksack in less than two hours. Here are a few of my fellow cadets. I've been with them long enough that I’ve developed name signs for them. On the right, here, is Trinidad. I gave him this name sign because he's always very sarcastic. He's a veteran, having served in Iraq and Afghanistan. The female is Frigo, whose nickname is "Refrigerator," hence her name sign. We’re always competing intellectually in class. The cadet on the end is Jarvy. He's a top athlete. I've given him this sign because of the scar he has here.
Đây là tôi trong một buổi sáng khi chúng tôi hành quân bảy dặm rưỡi với một chiếc ba lô nặng 40 pound trong chưa đầy hai giờ. Đây là một vài đồng đội của tôi. Tôi đã ở với họ đủ lâu để tôi tự nghĩ ra ký hiệu cho tên của họ. Ở bên phải, ở đây, là Trinidad. Tôi cho anh ấy ký hiệu tên này bởi vì anh ấy luôn rất mỉa mai. Anh ấy là một cựu chiến binh, từng phục vụ ở Iraq và Afghanistan. Người phụ nữ tên là Frigo, có biệt danh là “Tủ lạnh” ký hiệu tên của cô từ đây mà ra. Chúng tôi luôn cạnh tranh về trí tuệ trong lớp. Người học viên ở cuối là Jarvy. Anh ấy là một vận động viên hàng đầu. Tôi tạo cho anh ta ký hiệu này vì anh ấy có vết sẹo ở đây.
Do you know who this is? This is the Chairman of the Joint Chiefs of Staff. He is the highest-ranking military officer and principal military advisor to President Obama and Secretary of Defense Gates. He gave a talk at UCLA to a full house. Afterwards, I lined up to shake his hand. Having done so, I greeted him, “It’s a great pleasure to meet you.” I signed and my interpreter voiced for me. Admiral Mullen turned to the interpreter and said, “It’s nice to meet you,” addressing the interpreter, who refrained to clarify. He seemed a little confused and just quickly moved on to shake hands with the rest of the soldiers. So I’m not sure whether he really knew that I'm deaf or not.
Bạn biết đây là ai không? Đây là Chủ tịch của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Ông ấy là sĩ quan quân đội cấp cao nhất và cố vấn quân sự chính cho Tổng thống Obama và Bộ trưởng Quốc phòng Gates. Ông đã diễn thuyết tại UCLA với lượng khán giả chật kín khán đài. Sau đó, tôi xếp hàng để bắt tay ông. Khi đó, tôi chào ông, “Rất vui được gặp ngài.” Tôi làm ký hiệu và thông dịch viên của tôi lồng tiếng cho tôi. Đô đốc Mullen quay sang thông dịch viên và nói, “Rất vui được gặp các bạn,” ông nói với thông dịch viên, người đã từ chối đính chính sự thật. Ông ấy có vẻ hơi bối rối và nhanh chóng chuyển sang bắt tay với những người lính còn lại. Vì vậy, tôi không chắc liệu ông ấy có thực sự biết tôi khiếm thính hay không.
So everything’s been moving along, gung-ho, full speed ahead, until two weeks ago, when something occurred. Well, the ROTC has four levels. I’m currently doing the first two levels, which finishes up this May. The third level will begin in the fall. But in order to move up, you need to pass a medical exam. Obviously, I’m deaf, so I’d fail a hearing test. So we sat down, and I was told that if I wanted to continue to the third level, I couldn’t do any of the PT workouts in the morning, nor the Friday lab field trainings, nor the army base trainings. My uniform, I would have to give back as well. I could take the classes, audit them, and that’s all. It really hit me. It was a huge blow.
Mọi thứ cứ tiếp tục, một cách hăng hái và lao vun vút về phía trước, cho đến hai tuần trước, có chuyện xảy ra. Vâng, ROTC có bốn cấp. Tôi hiện đang ở hai cấp đầu tiên, sẽ kết thúc vào tháng Năm này. Mức thứ ba sẽ bắt đầu vào mùa thu. Nhưng để được thăng cấp, bạn cần vượt qua kiểm tra sức khỏe. Rõ ràng, tôi khiếm thính, vì vậy tôi rớt vòng kiểm tra thính giác. Vì vậy, chúng tôi ngồi xuống, và tôi được bảo rằng nếu tôi muốn tiếp tục bước đến cấp độ thứ ba, tôi không thể đến các buổi tập thể lực mỗi sáng nữa, cũng như đào tạo thực địa vào thứ Sáu, hoặc huấn luyện tại căn cứ quân sự. Đồng phục của tôi, tôi cũng phải trả lại. Tôi có thể tham gia các lớp học, làm kiểm tra, và chấm hết. Tôi hoàn toạn bị đáng gục. Đó là một sốc lớn.
Many of the officers and cadets have empathized with this sudden shock of disappointment, and are wondering why this has to be the case. Colonel Phelps has tried to speak with the higher-ups in the chain of command and explain to them that I’m one of the top cadets, having passed all the events and receiving high marks on my exams. But their response is unwavering: policy is policy, and if you’re deaf, you’re disqualified. I know that the cadre has tried to find various ways. They found out that there's a deaf cadet at The Citadel, a military college in South Carolina. That particular cadet will be completing his fourth year there and graduating this May. Yet, he's in the same predicament that I'm in -- unable to join the army because he’s deaf.
Nhiều cán bộ và các học viên đã đồng cảm với cú sốc thất vọng đầy bất ngờ này, và đang tự hỏi tại sao điều này phải xảy ra. Đại tá Phelps đã thử nói chuyện với những người chức cao hơn trong hệ thống quân hàm và giải thích rằng tôi là một trong những học viên hàng đầu, đã vượt qua tất cả các sự kiện và đạt điểm cao trong các bài kiểm tra. Nhưng phản ứng của họ không lung lay: chính sách là chính sách, và nếu khiếm thính, bạn bị truất quyền tại ngũ. Tôi biết rằng cán bộ đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau. Họ phát hiện có một học viên khiếm thính tại The Citadel, một trường cao đẳng quân sự ở Nam Carolina. Học viên đặc biệt đó sẽ hoàn thành năm học thứ tư của anh ở trường và tốt nghiệp vào tháng Năm này. Tuy nhiên, anh ta cũng rơi vào tình trạng khó xử như tôi, không thể tham gia quân đội vì anh ấy khiếm thính.
Yet, all of my fellow cadets and the officers have told me not to give up; the policy must change. I was advised to talk with my congressman. And I've brought this issue to Henry Waxman, the district congressman here in LA, to get the ball rolling with his advocacy for my cause. However, I need your help and support to lobby. All of us, you know?
Tuy nhiên, tất cả đồng đội của tôi và cán bộ bảo tôi không được từ bỏ; chính sách phải thay đổi. Tôi được khuyên nên nói chuyện với nghị sĩ của tôi. Và tôi đã nói vấn đề này với Henry Waxman, nghị sĩ cấp quận ở Los Angeles, để bắt đầu có được sự ủng hộ của ông cho trường hợp của mình. Tuy nhiên, tôi cần sự giúp đỡ và hỗ trợ vận động hành lang của bạn. Tất cả chúng ta, bạn hiểu mà nhỉ?
If you remember back in US history, African-Americans were told they couldn’t join the military, and now they serve. Women as well were banned, but now they've been allowed. The military has and is changing. Today is our time. Now it’s our turn.
Nếu bạn nhớ lại trong lịch sử Hoa Kỳ, Người Mỹ gốc Phi được bảo rằng họ không thể tham gia quân đội, nhưng giờ họ đang phục vụ tại ngũ. Phụ nữ cũng bị cấm, nhưng bây giờ họ đã được phép. Quân đội đã và đang thay đổi. Thời khắc này là của ta. Đã đến lượt ta hành động. Hooah!
Hooah!
(Vỗ tay)
(Applause)