The global economic financial crisis has reignited public interest in something that's actually one of the oldest questions in economics, dating back to at least before Adam Smith. And that is, why is it that countries with seemingly similar economies and institutions can display radically different savings behavior?
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm nhen nhóm lại mối quan tâm của công chúng về vài điều vốn là một trong những câu hỏi lâu đời nhất của kinh tế học từ ít nhất là trước thời Adam Smith. Và đó là, tại sao những đất nước có nền kinh tế và thể chế tương tự nhau lại cho thấy những cung cách tiết kiệm hoàn toàn khác nhau?
Now, many brilliant economists have spent their entire lives working on this question, and as a field we've made a tremendous amount of headway and we understand a lot about this. What I'm here to talk with you about today is an intriguing new hypothesis and some surprisingly powerful new findings that I've been working on about the link between the structure of the language you speak and how you find yourself with the propensity to save. Let me tell you a little bit about savings rates, a little bit about language, and then I'll draw that connection.
Hiện nay, một số nhà kinh tế học lỗi lạc đã dành cả đời họ cho câu hỏi này và ở lĩnh vực này chúng ta đã có những bước tiến triển to lớn và chúng ta hiểu khá nhiều về điều này. Điều tôi muốn nói với các bạn ngày hôm nay là một giả thuyết mới đầy hấp dẫn và một vài khám phá mới bất ngờ đầy sức mạnh của tôi về mối quan hệ giữa cấu trúc loại ngôn ngữ bạn nói và thiên hướng bạn tiết kiệm. Để tôi nói cho các bạn một chút về mức tiết kiệm, một chút về ngôn ngữ, và sau đó tôi sẽ đưa ra sự liên hệ giữa chúng.
Let's start by thinking about the member countries of the OECD, or the Organization of Economic Cooperation and Development. OECD countries, by and large, you should think about these as the richest, most industrialized countries in the world. And by joining the OECD, they were affirming a common commitment to democracy, open markets and free trade. Despite all of these similarities, we see huge differences in savings behavior.
Bắt đầu bằng những suy nghĩ về các nước thành viên trong nhóm OECD, hay còn gọi là Organization of Economic Cooperation and Development (Tổ chức Hợp Tác và Phát triển Kinh tế). Các nước OECD, nhìn chung là bạn nên nghĩ về chúng như là các nước giàu nhất, công nghiệp hóa nhất trên thế giới. Và bằng việc gia nhập OECD, họ đã xác nhận một cam kết chung đối với nền dân chủ, thị trường mở và giao dịch tự do. Ngoại trừ tất những điểm chung này, chúng ta thấy những sự khác biệt to lớn về cách tiết kiệm.
So all the way over on the left of this graph, what you see is many OECD countries saving over a quarter of their GDP every year, and some OECD countries saving over a third of their GDP per year. Holding down the right flank of the OECD, all the way on the other side, is Greece. And what you can see is that over the last 25 years, Greece has barely managed to save more than 10 percent of their GDP. It should be noted, of course, that the United States and the U.K. are the next in line.
Ở phía trái của đồ thị này, là các nước OECD tiết kiệm hơn một phần tư GDP (tổng sản phẩm quốc nội) mỗi năm và một vài nước OECD tiết kiệm hơn một phần ba GDP mỗi năm. Qua phía bên phải, ngoài cùng, là Hy Lạp Và bạn có thể thấy là trong suốt 25 năm qua, Hy Lạp chỉ có thể tiết kiệm được hơn 10 phần trăm GDP của họ. Cần phải chú ý là, đương nhiên, Mỹ và Anh ở ngay kế tiếp.
Now that we see these huge differences in savings rates, how is it possible that language might have something to do with these differences? Let me tell you a little bit about how languages fundamentally differ. Linguists and cognitive scientists have been exploring this question for many years now. And then I'll draw the connection between these two behaviors.
Bây giờ khi chúng ta đã thấy một sự khác biệt lớn trong mức tiết kiệm, làm thế nào mà ngôn ngữ lại có thể liên quan đến những sự khác biệt này? Để tôi nói cho các bạn một chút về ngôn ngữ cơ bản khác nhau thế nào. Những nhà ngôn ngữ học và nhà khoa học về nhận thức đã tìm hiểu câu hỏi này trong nhiều năm. Và sau đó tôi sẽ đưa ra mối liên hệ giữa hai điều này.
Many of you have probably already noticed that I'm Chinese. I grew up in the Midwest of the United States. And something I realized quite early on was that the Chinese language forced me to speak about and -- in fact, more fundamentally than that -- ever so slightly forced me to think about family in very different ways.
Nhiều người trong số các bạn có lẽ đã nhận ra tôi là người Trung Quốc. Tôi lớn lên ở Midwest, Mỹ. Và một điều tôi sớm nhận ra đó là tiếng Trung đã buộc tôi phải nói về và -- cơ bản hơn là -- buộc tôi phải nghĩ về gia đình theo những cách rất khác nhau.
Now, how might that be? Let me give you an example. Suppose I were talking with you and I was introducing you to my uncle. You understood exactly what I just said in English. If we were speaking Mandarin Chinese with each other, though, I wouldn't have that luxury. I wouldn't have been able to convey so little information. What my language would have forced me to do, instead of just telling you, "This is my uncle," is to tell you a tremendous amount of additional information. My language would force me to tell you whether or not this was an uncle on my mother's side or my father's side, whether this was an uncle by marriage or by birth, and if this man was my father's brother, whether he was older than or younger than my father. All of this information is obligatory. Chinese doesn't let me ignore it. And in fact, if I want to speak correctly, Chinese forces me to constantly think about it.
Như thế nào cơ? Để tôi cho bạn một ví dụ. Giả sử tôi đang nói chuyện với các bạn và giới thiệu bạn với bác tôi. Các bạn đã hiểu chính xác những gì tôi vừa nói bằng tiếng Anh. Nhưng nếu chúng ta nói tiếng Trung Quốc phổ thông với nhau, thì không được như thế. Tôi sẽ không chỉ truyền tải một chút thông tin như vậy được. Ngôn ngữ của tôi bắt tôi, thay vì chỉ nói "Đây là bác tôi", mà phải nói một lượng rất lớn thông tin kèm theo. Ngôn ngữ của tôi buộc tôi phải nói với các bạn đây là bác bên mẹ hay bên bố tôi, đây là bác dâu/rể hay là bác ruột, và nếu đây là anh em trai của bố tôi, thì ông ấy lớn hơn bố tôi, hay nhỏ hơn. Tất cả những thông tin này là bắt buộc. Tiếng Trung không cho phép tôi bỏ qua chúng. Và thực tế, nếu tôi muốn nói một cách chính xác, tiếng Trung yêu cầu tôi phải liên tục nghĩ về điều đó.
Now, that fascinated me endlessly as a child, but what fascinates me even more today as an economist is that some of these same differences carry through to how languages speak about time. So for example, if I'm speaking in English, I have to speak grammatically differently if I'm talking about past rain, "It rained yesterday," current rain, "It is raining now," or future rain, "It will rain tomorrow." Notice that English requires a lot more information with respect to the timing of events. Why? Because I have to consider that and I have to modify what I'm saying to say, "It will rain," or "It's going to rain." It's simply not permissible in English to say, "It rain tomorrow."
Điều đó đã không ngừng lôi cuốn tôi khi còn là một đứa trẻ, nhưng giờ đây khi là một nhà kinh tế học, điều còn mê hoặc tôi hơn nữa đó là một vài sự khác biệt tương tự này cũng có ở cách ngôn ngữ nói về thời gian nữa. Ví dụ như nếu tôi nói tiếng Anh, tôi phải sử dụng ngữ pháp cách khác nếu tôi nói về cơn mưa đã qua: "It rained yesterday," (Hôm qua trời đã mưa), cơn mưa hiện tại, "It is raining now" (Trời đang mưa), hoặc cơn mưa trong tương lai "It will rain tomorrow" (Ngày mai trời sẽ mưa) Để ý rằng tiếng Anh yêu cầu rất nhiều thông tin liên quan đến thời điểm của sự kiện. Tại sao? Bởi vì tôi phải xem xét và bổ nghĩa những gì tôi nói "It will rain" (Trời sẽ mưa), hay là "It's going to rain" (Trời sắp mưa). Nó đơn giản là trong tiếng Anh không dùng cách nói "It rain tomorrow" (Trời 'mưa' ngày mai).
In contrast to that, that's almost exactly what you would say in Chinese. A Chinese speaker can basically say something that sounds very strange to an English speaker's ears. They can say, "Yesterday it rain," "Now it rain," "Tomorrow it rain." In some deep sense, Chinese doesn't divide up the time spectrum in the same way that English forces us to constantly do in order to speak correctly.
Ngược lại, đó gần như chính xác là những gì bạn cần nói ở tiếng Trung. Một người nói tiếng Trung về cơ bản có thể nói điều gì đó mà nghe có vẻ rất kì lạ đối với người nói tiếng Anh. Họ có thể nói, "Yesterday it rain" (Hôm qua trời mưa), "Now it rain" (Trời đang mưa), "Tomorrow it rain" (Ngày mai mưa). Một cách sâu sắc hơn, tiếng Trung không phân chia khoảng thời gian theo cách mà tiếng Anh bắt chúng ta phải liên tục làm để có thể nói một cách chính xác
Is this difference in languages only between very, very distantly related languages, like English and Chinese? Actually, no. So many of you know, in this room, that English is a Germanic language. What you may not have realized is that English is actually an outlier. It is the only Germanic language that requires this. For example, most other Germanic language speakers feel completely comfortable talking about rain tomorrow by saying, "Morgen regnet es," quite literally to an English ear, "It rain tomorrow."
Vậy sự khác biệt này trong ngôn ngữ chỉ có ở những hệ ngôn ngữ rất, rất xa nhau như tiếng Anh và tiếng Trung thôi sao? Thật ra là không. Có rất nhiều trong số các bạn ở đây biết rằng, tiếng Anh thuộc nhóm ngôn ngữ German. Điều bạn có lẽ không nhận thấy đó là tiếng Anh thực ra tách biệt khỏi nhóm. Đó là ngôn ngữ duy nhất trong nhóm German cần điều này. Ví dụ như đa số những người nói tiếng thuộc nhóm German khác hoàn toàn có thể thoải mái nói về mưa trong ngày mai bằng cách nói "Morgen regnet es," tương tự như người nói tiếng Anh nghe "It rain tomorrow" (Ngày mai mưa).
This led me, as a behavioral economist, to an intriguing hypothesis. Could how you speak about time, could how your language forces you to think about time, affect your propensity to behave across time? You speak English, a futured language. And what that means is that every time you discuss the future, or any kind of a future event, grammatically you're forced to cleave that from the present and treat it as if it's something viscerally different. Now suppose that that visceral difference makes you subtly dissociate the future from the present every time you speak. If that's true and it makes the future feel like something more distant and more different from the present, that's going to make it harder to save. If, on the other hand, you speak a futureless language, the present and the future, you speak about them identically. If that subtly nudges you to feel about them identically, that's going to make it easier to save.
Điều này đã dẫn tôi, một nhà kinh tế học hành vi, đến một giả thuyết hấp dẫn. Cách bạn nói về thời gian, cách ngôn ngữ của bạn yêu cầu bạn phải nghĩ về thời gian, ảnh hưởng đến thiên hướng hành động của bạn theo thời gian thế nào? Bạn nói tiếng Anh, một ngôn ngữ ở thì tương lai. Điều đó có nghĩa là mỗi khi bạn nói về tương lai, hoặc bất kì một sự kiện tương lai nào, về mặt ngữ pháp bạn bị buộc phải tách điều đó ra khỏi hiện tại và đối xử nó như thể nó là một điều gì đó khác biệt theo bản năng. Giả sử sự khác biệt bản năng đó khiến bạn tách biệt tương lai ra khỏi hiện tại mỗi khi bạn nói. Nếu đó là sự thật và nó khiến tương lai có cảm giác như một điều gì đó xa xôi, và rất khác biệt so với hiện tại, điều đó khiến chúng ta khó tiết kiệm hơn. Nếu, về mặt khác, bạn nói một ngôn ngữ không có thì tương lai, hiện tại và tương lai, bạn nói về chúng tương tự nhau.. Nếu điều đó nhẹ nhàng thúc bạn cảm thấy chúng tương tự nhau, điều đó khiến việc tiết kiệm trở nên dễ dàng hơn.
Now this is a fanciful theory. I'm a professor, I get paid to have fanciful theories. But how would you actually go about testing such a theory? Well, what I did with that was to access the linguistics literature. And interestingly enough, there are pockets of futureless language speakers situated all over the world. This is a pocket of futureless language speakers in Northern Europe. Interestingly enough, when you start to crank the data, these pockets of futureless language speakers all around the world turn out to be, by and large, some of the world's best savers.
Đây là một giả thuyết kì lạ. Tôi là giáo sư, và tôi được trả tiền để có những giả thuyết kì lạ. Nhưng làm thế nào để chứng minh được một giả thuyết như vầy? Vâng, điều tôi đã làm đó là truy cập các tài liệu ngôn ngữ học. Và khá thú vị, có đầy những nhóm người nói ngôn ngữ không thì tương lai ở khắp nơi trên thế giới. Đây là một nhóm người nói ngôn ngữ không thì tương lai ở phía Bắc Âu. Khá thú vị, khi bạn bắt đầu quay vòng những số liệu này những nhóm người nói ngôn ngữ không thì tương lai trên toàn thế giới hóa ra, nhìn chung, lại là những người tiết kiệm giỏi nhất.
Just to give you a hint of that, let's look back at that OECD graph that we were talking about. What you see is that these bars are systematically taller and systematically shifted to the left compared to these bars which are the members of the OECD that speak futured languages. What is the average difference here? Five percentage points of your GDP saved per year. Over 25 years that has huge long-run effects on the wealth of your nation.
Để cho các bạn thấy điều đó, bây giờ hãy cùng nhìn lại trên đồ thị OECD mà chúng ta đã nói đến. Điều bạn thấy là những thanh này cao hơn và chuyển dịch dần về phia trái một cách hệ thống so với những thanh này của những thành viên OECD nói ngôn ngữ ở thì tương lai. Sự khác biệt trung bình ở đây là gì? 5 phần trăm GDP tiết kiệm mỗi năm. Trong suốt 25 năm, điều đó có ảnh hưởng lâu dài to lớn đến sự giàu có của đất nước bạn.
Now while these findings are suggestive, countries can be different in so many different ways that it's very, very difficult sometimes to account for all of these possible differences. What I'm going to show you, though, is something that I've been engaging in for a year, which is trying to gather all of the largest datasets that we have access to as economists, and I'm going to try and strip away all of those possible differences, hoping to get this relationship to break. And just in summary, no matter how far I push this, I can't get it to break. Let me show you how far you can do that.
Và khi những phát hiện này còn mang tính chất gợi ý, các nước có thể khác biệt theo nhiều cách khác nhau mà thỉnh thoảng rất khó có thể giải thích nguyên nhân cho tất cả các sự khác nhau này. Cái tôi muốn cho các bạn thấy là một điều mà tôi đã gắn bó trong suốt một năm, đó là cố gắng thu thập tất cả những hệ dữ liệu lớn nhất mà những nhà kinh tế học chúng tôi có quyền truy cập, và tôi sẽ cố gắng loại bỏ đi những khác biệt có thể hy vọng phá vỡ mối liên hệ này. Tóm lại, dù có làm thế nào thì đến giờ tôi vẫn chưa thể phá vỡ nó. Để tôi cho các bạn thấy bạn có thể làm điều đó thế nào.
One way to imagine that is I gather large datasets from around the world. So for example, there is the Survey of Health, [Aging] and Retirement in Europe. From this dataset you actually learn that retired European families are extremely patient with survey takers. (Laughter) So imagine that you're a retired household in Belgium and someone comes to your front door. "Excuse me, would you mind if I peruse your stock portfolio? Do you happen to know how much your house is worth? Do you mind telling me? Would you happen to have a hallway that's more than 10 meters long? If you do, would you mind if I timed how long it took you to walk down that hallway? Would you mind squeezing as hard as you can, in your dominant hand, this device so I can measure your grip strength? How about blowing into this tube so I can measure your lung capacity?" The survey takes over a day. (Laughter) Combine that with a Demographic and Health Survey collected by USAID in developing countries in Africa, for example, which that survey actually can go so far as to directly measure the HIV status of families living in, for example, rural Nigeria. Combine that with a world value survey, which measures the political opinions and, fortunately for me, the savings behaviors of millions of families in hundreds of countries around the world.
Một cách để tưởng tượng là tôi thu thập những hệ dữ liệu lớn trên khắp thế giới. Ví dụ như, dữ liệu từ bản điều Tra Sức Khỏe, [Tuổi Già], và Nghỉ hưu ở Châu Âu. có thể giúp bạn nhận thấy những gia đình về hưu ở Châu Âu cực kì kiên nhẫn với những người làm khảo sát. (Cười) Tưởng tượng bạn là một hộ về hưu ở Bỉ, và ai đó đến trước cửa nhà bạn. "Xin lỗi, tôi có thể nghiên cứu hồ sơ chứng khoán của anh được không? Bạn có biết nhà mình trị giá bao nhiêu không? Bạn có ngại nói ra không? Có khi nào nhà bạn có hành lang dài hơn 10 mét không? Nếu có, bạn có phiền không nếu tôi đo xem mất bao lâu để bạn đi hết hành lang đó? Bạn có phiền siết thiết bị này càng mạnh càng tốt bằng tay thuận để tôi có thể đo sức nắm chặt của bạn? Còn việc thổi vào chiếc ống này để tôi có thể đo dung tích phổi của bạn nữa?" Một cuộc khảo sát mất đến hơn một ngày. (Cười) Kết hợp với cuộc điều tra Nhân khẩu học và Sức khỏe thu thập bởi USAID ở các nước đang phát triển ở Châu Phi, ví dụ vậy, mà cuộc điều tra đó có thể thống kê một cách trực tiếp tình trạng HIV của các hộ gia đình ở, ví dụ như, vùng nông thôn Nigeria. Kết hợp nó với một cuộc khảo sát giá trị thế giới, đo lường về quan điểm chính trị, và may mắn cho tôi, là hành vi tiết kiệm của hàng triệu gia đình ở hàng trăm đất nước trên thế giới.
Take all of that data, combine it, and this map is what you get. What you find is nine countries around the world that have significant native populations which speak both futureless and futured languages. And what I'm going to do is form statistical matched pairs between families that are nearly identical on every dimension that I can measure, and then I'm going to explore whether or not the link between language and savings holds even after controlling for all of these levels.
Lấy tất cả dữ liệu đó, kết hợp chung, và bản đồ này là những gì bạn có được. Chín đất nước trên khắp thế giới có lượng lớn dân số bản xứ nói cả ngôn ngữ thì tương lai lẫn ngôn ngữ không có thì tương lai. Và điều tôi sắp làm sau đây là tạo ra những cặp thống kê tương thích giữa các gia đình gần như giống hệt nhau trên mọi phương diện tôi có thể đo đạc, và khám phá xem liệu có mối liên quan giữa ngôn ngữ và sự tiết kiệm không thậm chí là sau khi kiểm soát các mức độ này.
What are the characteristics we can control for? Well I'm going to match families on country of birth and residence, the demographics -- what sex, their age -- their income level within their own country, their educational achievement, a lot about their family structure. It turns out there are six different ways to be married in Europe. And most granularly, I break them down by religion where there are 72 categories of religions in the world -- so an extreme level of granularity. There are 1.4 billion different ways that a family can find itself.
Vậy những đặc điểm chúng ta có thể kiểm soát là gì? Tôi sẽ kết hợp những gia đình ở trên cùng một đất nước cư trú, nhân khẩu học -- giới tính, tuổi tác --- mức thu nhập trong chính đất nước của họ, thành tựu giáo dục, rất nhiều về cấu trúc gia đình. Kết quả là có sáu cách kết hợp khác nhau ở Châu Âu. Và ở cách chia nhỏ nhất, tôi chia ra theo tôn giáo có tất cả 72 nhóm tôn giáo trên thế giới -- cực điểm của khả năng chia nhỏ. Có 1.4 tỉ cách khác nhau có thể thấy ở một hộ gia đình
Now effectively everything I'm going to tell you from now on is only comparing these basically nearly identical families. It's getting as close as possible to the thought experiment of finding two families both of whom live in Brussels who are identical on every single one of these dimensions, but one of whom speaks Flemish and one of whom speaks French; or two families that live in a rural district in Nigeria, one of whom speaks Hausa and one of whom speaks Igbo.
Từ giờ mọi thứ tôi chuẩn bị nói với các bạn đó chỉ là so sánh những điều cơ bản gần như giống hệt nhau ở các hộ gia đình. Nó càng ngày càng gần đến thử nghiệm tưởng tượng của việc tìm kiếm hai gia đình cùng sống ở Brussels tương tự về mọi mặt nhưng một nói tiếng Flemish và một nói tiếng Pháp; và hai gia đình cùng sống trong một huyện quê ở Nigeria, một nói tiếng Hausa và một nói tiếng Igbo
Now even after all of this granular level of control, do futureless language speakers seem to save more? Yes, futureless language speakers, even after this level of control, are 30 percent more likely to report having saved in any given year. Does this have cumulative effects? Yes, by the time they retire, futureless language speakers, holding constant their income, are going to retire with 25 percent more in savings.
Bây giờ sau tất cả những mức kiểm soát hình hột này, liệu những người nói ngôn ngữ không thì tương lai có tiết kiệm hơn không? Có, những người nói ngôn ngữ không thì tương lai, thậm chí sau mức độ kiểm soát này, cho thấy tiết kiệm tốt hơn 30 phần trăm trong bất kì năm nào. Liệu nó có tác động dồn không? Có, đến khi họ nghỉ hưu, những người nói ngôn ngữ không có thì tương lai, giữ mức thu nhập đều đặn, sẽ nghỉ hưu với số tiết kiệm nhiều hơn 25 phần trăm.
Can we push this data even further? Yes, because I just told you, we actually collect a lot of health data as economists. Now how can we think about health behaviors to think about savings? Well, think about smoking, for example. Smoking is in some deep sense negative savings. If savings is current pain in exchange for future pleasure, smoking is just the opposite. It's current pleasure in exchange for future pain. What we should expect then is the opposite effect. And that's exactly what we find. Futureless language speakers are 20 to 24 percent less likely to be smoking at any given point in time compared to identical families, and they're going to be 13 to 17 percent less likely to be obese by the time they retire, and they're going to report being 21 percent more likely to have used a condom in their last sexual encounter. I could go on and on with the list of differences that you can find. It's almost impossible not to find a savings behavior for which this strong effect isn't present.
Liệu chúng ta có thể đẩy những dữ liệu này xa hơn không? Có, bởi vì tôi vừa nói với các bạn, chúng tôi thu thập thông tin về sức khỏe như những nhà kinh tế học. Làm thế nào ta có thể nghĩ về những hành vi sức khỏe như những vấn đề tiết kiệm? Ví dụ như về hút thuốc chẳng hạn. Hút thuốc theo một nghĩa sâu xa nào đó thì là tiết kiệm âm. Nếu tiết kiệm là nỗi đau hiện tại đổi lại niềm vui tương lai thì hút thuốc là ngược lại. Đó là sự tận hưởng hiện tại cho nỗi đau tương lai. Điều chúng ta nên nghĩ tới đó là hiệu ứng ngược lại. Và đó quả thực là những gì chúng tôi tìm thấy. Những người nói ngôn ngữ không có thì tương lai ít hút thuốc hơn 20 đến 24 phần trăm tại bất kì thời điểm nào so với các gia đình tương tự, và họ có ít hơn 13 đến 17 phần trăm khả năng bị béo phì tại thời điểm họ về hưu và họ cũng hơn 21 phần trăm tỉ lệ sử dụng bao cao su ở lần quan hệ cuối. Tôi có thể tiếp tục với hàng danh sách những điều khác nhau mà bạn có thể tìm thấy. Gần như là không thể không tìm thấy một hành vi tiết kiệm nào mà tác động lớn này không có mặt.
My linguistics and economics colleagues at Yale and I are just starting to do this work and really explore and understand the ways that these subtle nudges cause us to think more or less about the future every single time we speak. Ultimately, the goal, once we understand how these subtle effects can change our decision making, we want to be able to provide people tools so that they can consciously make themselves better savers and more conscious investors in their own future.
Những nhà ngôn ngữ học và đồng nghiệp kinh tế học của tôi ở Yale và tôi chỉ đang bắt đầu công việc này và thực sự khám phá và hiểu ra những cách mà các cú hích nhẹ này khiến chúng ta nghĩ nhiều hơn hay ít hơn về tương lai mỗi lần chúng ta nói. Cuối cùng, mục tiêu, là khi chúng tôi hiểu những tác động này có thể thay đổi quyết định của mình thế nào, chúng tôi muốn cung cấp cho mọi người những công cụ có thể giúp họ ý thức tiết kiệm tốt hơn và ý thức đầu tư hơn vào tương lai của họ.
Thank you very much.
Xin cám ơn rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)