On my desk in my office, I keep a small clay pot that I made in college. It's raku, which is a kind of pottery that began in Japan centuries ago as a way of making bowls for the Japanese tea ceremony. This one is more than 400 years old. Each one was pinched or carved out of a ball of clay, and it was the imperfections that people cherished.
Trên bàn làm việc ở văn phòng của tôi, có một chiếc bát nhỏ bằng đất sét mà tôi tự làm khi còn học đại học. Đó là raku, một kĩ thuật làm gốm xuất phát ở Nhật Bản từ hàng thế kỉ trước và chuyên làm ra những chiếc bát cho nghi lễ trà đạo. Tác phẩm này đã hơn 400 tuổi. Mỗi chiếc bát được tách ra hoặc chạm khắc từ một quả bóng đất sét, và người ta trân trọng sự không hoàn hảo của nó.
Everyday pots like this cup take eight to 10 hours to fire. I just took this out of the kiln last week, and the kiln itself takes another day or two to cool down, but raku is really fast. You do it outside, and you take the kiln up to temperature. In 15 minutes, it goes to 1,500 degrees, and as soon as you see that the glaze has melted inside, you can see that faint sheen, you turn the kiln off, and you reach in with these long metal tongs, you grab the pot, and in Japan, this red-hot pot would be immediately immersed in a solution of green tea, and you can imagine what that steam would smell like. But here in the United States, we ramp up the drama a little bit, and we drop our pots into sawdust, which catches on fire, and you take a garbage pail, and you put it on top, and smoke starts pouring out. I would come home with my clothes reeking of woodsmoke.
Những sản phẩm thông dụng như chiếc cốc này cần được nung trong 8 đến 10 giờ. Tôi vừa lấy nó ra khỏi lò tuần trước, và bản thân chiếc lò cần 1 đến 2 ngày nữa để nguội, nhưng raku diễn ra rất nhanh. Bạn thực hiện nó ngoài trời, nung nóng lò đến nhiệt độ cần thiết. Trong 15 phút, nó sẽ đạt tới 1,500 độ. Ngay khi bạn thấy lớp men bên trong đã nóng chảy, thấy lớp nước bóng nhạt, bạn tắt lò và dùng những chiếc kẹp kim loại dài để kẹp lấy chiếc bình. Ở Nhật Bản, chiếc bình nóng đỏ này sẽ ngay lập tức được nhúng trong một dung dịch trà xanh. Bạn có thể hình dung làn khói tỏa ra sẽ có mùi hương như thế nào. Nhưng ở Hoa Kỳ này, chúng ta làm tăng sự kịch tính lên một chút. Chúng ta thả những chiếc bình vào mùn cưa, chúng bắt lửa, và bạn dùng một cái xô rác để úp lên chiếc bình, và khói bắt đầu tỏa ra. Tôi thường về nhà khi quần áo mang đậm mùi khói gỗ
I love raku because it allows me to play with the elements. I can shape a pot out of clay and choose a glaze, but then I have to let it go to the fire and the smoke, and what's wonderful is the surprises that happen, like this crackle pattern, because it's really stressful on these pots. They go from 1,500 degrees to room temperature in the space of just a minute.
Tôi yêu raku vì nó cho phép tôi đùa nghịch với các thành phần. Tôi có thể nặn một chiếc bình từ đất sét và chọn men, nhưng sau đó tôi phải cho nó vào lửa và khói, và tuyệt vời nhất chính là điều bất ngờ sẽ xảy ra như hoa văn rạn này, bởi vì những chiếc bình chịu rất nhiều áp lực. Chúng thay đổi từ 1,500 độ đến nhiệt độ phòng chỉ trong thời gian một phút.
Raku is a wonderful metaphor for the process of creativity. I find in so many things that tension between what I can control and what I have to let go happens all the time, whether I'm creating a new radio show or just at home negotiating with my teenage sons.
Raku là phép ẩn dụ tuyệt vời cho quá trình sáng tạo. Tôi thấy rằng trong rất nhiều việc, áp lực giữa những thứ tôi có thể kiểm soát và những thứ tôi phải từ bỏ luôn luôn tồn tại, ngay cả lúc tôi tạo dựng một chương trình radio mới hay khi tôi thương lượng với cậu con trai tuổi teen ở nhà.
When I sat down to write a book about creativity, I realized that the steps were reversed. I had to let go at the very beginning, and I had to immerse myself in the stories of hundreds of artists and writers and musicians and filmmakers, and as I listened to these stories, I realized that creativity grows out of everyday experiences more often than you might think, including letting go. It was supposed to break, but that's okay. (Laughter) (Laughs) That's part of the letting go, is sometimes it happens and sometimes it doesn't, because creativity also grows from the broken places.
Khi bắt đầu viết cuốn sách về sự sáng tạo, tôi thấy rằng các bước đã bị đảo ngược. Trước hết tôi phải từ bỏ bản thân, và đắm chìm trong câu chuyện của hàng trăm nghệ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, đạo diễn phim, Và khi nghe những câu chuyện ấy, tôi nhận ra rằng sáng tạo bắt nguồn từ những trải nghiệm đời thường nhiều hơn là bạn nghĩ, bao gồm cả việc từ bỏ. Lẽ ra nó phải vỡ, nhưng cũng không sao. (cười) Đó là một phần của việc từ bỏ, đôi khi chúng xảy ra và đôi khi không, bởi vì sáng tạo cũng bắt nguồn từ những vết nứt.
The best way to learn about anything is through stories, and so I want to tell you a story about work and play and about four aspects of life that we need to embrace in order for our own creativity to flourish. The first embrace is something that we think, "Oh, this is very easy," but it's actually getting harder, and that's paying attention to the world around us. So many artists speak about needing to be open, to embrace experience, and that's hard to do when you have a lighted rectangle in your pocket that takes all of your focus.
Cách tốt nhất để học về bất cứ một điều gì là qua những câu chuyện, vì thế tôi muốn kể với các bạn một câu chuyện về công việc, thư giãn và về 4 khía cạnh của cuộc sống mà chúng ta cần trân trọng để phát triển sức sáng tạo của chính chúng ta. Điều đầu tiên là thứ mà chúng ta thường nghĩ, "Ôi, việc này thật dễ dàng", nhưng càng ngày nó càng khó khăn hơn, đó là chú ý đến thế giới quanh ta. Rất nhiều nghệ sĩ nói về việc cần phải cởi mở, phải trân trọng trải nghiệm, và thật khó để làm thế khi thứ đồ phát sáng hình chữ nhật trong túi áo đang chiếm hết sự chú ý của bạn.
The filmmaker Mira Nair speaks about growing up in a small town in India. Its name is Bhubaneswar, and here's a picture of one of the temples in her town.
Nhà làm phim Mira Nair nói về việc trưởng thành trong một thành phố nhỏ ở Ấn Độ. Tên thành phố đó là Bhubaneswar, và đây là hình ảnh một trong những ngôi đền của thành phố đó.
Mira Nair: In this little town, there were like 2,000 temples. We played cricket all the time. We kind of grew up in the rubble. The major thing that inspired me, that led me on this path, that made me a filmmaker eventually, was traveling folk theater that would come through the town and I would go off and see these great battles of good and evil by two people in a school field with no props but with a lot of, you know, passion, and hashish as well, and it was amazing. You know, the folk tales of Mahabharata and Ramayana, the two holy books, the epics that everything comes out of in India, they say. After seeing that Jatra, the folk theater, I knew I wanted to get on, you know, and perform.
Mira Nair: Trong thành phố nhỏ này, có khoảng 2,000 ngôi đền. Chúng tôi chơi cầu ở đó suốt. Chúng tôi gần như lớn lên từ đống đá vụn. Điều chủ yếu tạo cảm hứng cho tôi, dẫn tôi đến con đường này, khiến tôi trở thành một nhà làm phim, chính là những gánh hát rong thường đi qua thành phố. Tôi thường trốn đi xem những trận chiến tuyệt vời giữa cái thiện và cái ác, diễn bởi 2 người trong sân trường không có đạo cụ gì, nhưng bạn biết đấy họ có rất nhiều đam mê, và cả thuốc phiện nữa, và điều đó thật tuyệt vời. Bạn biết đấy, những câu chuyện dân gian trong Mahabharata và Ramayana, 2 cuốn sách thánh, những tác phẩm vĩ đại khởi nguồn cho mọi thứ ở Ấn Độ ,như họ vẫn thường nói. Sau khi xem Jatra, gánh hát dân gian đó, tôi biết rằng tôi muốn tiếp tục, bạn biết đấy, và biểu diễn.
Julie Burstein: Isn't that a wonderful story? You can see the sort of break in the everyday. There they are in the school fields, but it's good and evil, and passion and hashish. And Mira Nair was a young girl with thousands of other people watching this performance, but she was ready. She was ready to open up to what it sparked in her, and it led her, as she said, down this path to become an award-winning filmmaker. So being open for that experience that might change you is the first thing we need to embrace.
Julie Burstein: Một câu chuyện tuyệt vời phải không? Bạn có thể thấy những vết rạn nứt ở khắp mọi nơi. Chúng ở đó giữa sân trường, nhưng đó là cái thiện và cái ác, là niềm đam mê và thuốc phiện. Và Mira Nair chỉ là một cô gái trẻ trong số hàng nghìn người khác cũng xem buổi diễn đó, nhưng cô ấy đã sẵn sàng. Cô ấy sẵn sàng đón nhận thứ đã lóe lên trong cô ấy, và dẫn dắt cô ấy trên con đường trở thành một nhà làm phim từng đoạt giải thưởng. Vì vậy, việc cởi mở với những trải nghiệm có thể thay đổi bạn là điều đầu tiên chúng ta cần nắm bắt.
Artists also speak about how some of their most powerful work comes out of the parts of life that are most difficult. The novelist Richard Ford speaks about a childhood challenge that continues to be something he wrestles with today. He's severely dyslexic.
Giới nghệ sĩ cũng nói về việc những tác phẩm tuyệt vời nhất của họ thường đến từ những phần khó khăn nhất của cuộc sống. Tiểu thuyết gia Richard Ford nói về chuyện anh tiếp tục đấu tranh với một thách thức thời thơ ấu cho tới tận ngày hôm nay. Anh mắc chứng khó đọc nặng.
Richard Ford: I was slow to learn to read, went all the way through school not really reading more than the minimum, and still to this day can't read silently much faster than I can read aloud, but there were a lot of benefits to being dyslexic for me because when I finally did reconcile myself to how slow I was going to have to do it, then I think I came very slowly into an appreciation of all of those qualities of language and of sentences that are not just the cognitive aspects of language: the syncopations, the sounds of words, what words look like, where paragraphs break, where lines break. I mean, I wasn't so badly dyslexic that I was disabled from reading. I just had to do it really slowly, and as I did, lingering on those sentences as I had to linger, I fell heir to language's other qualities, which I think has helped me write sentences.
Richard Ford: tôi học đọc rất chậm, trải qua hết chương trình học mà chỉ đọc những thứ tối thiểu, và tới tận bây giờ tôi cũng không thể đọc thầm nhanh hơn đọc to là mấy. Nhưng việc mắc bệnh khó đọc đem lại nhiều lợi ích cho tôi vì cuối cùng khi tôi đã thích ứng bản thân với việc mình đọc chậm như thế nào, thì tôi bắt đầu từ từ trân trọng tất cả những đặc điểm của ngôn ngữ và câu từ mà không chỉ là khía cạnh bề mặt: cách rút bớt chữ, thanh âm của từ, hình dáng của từ, cách ngắt đoạn văn, cách kết thúc dòng. Ý tôi là, tôi mắc bệnh khó đọc nặng đến nỗi tôi không thể nào đọc được. Tôi phải làm điều đó một cách thật chậm rãi, và trong lúc nấn ná giữa các câu chữ tôi đã cảm nhận được những tính chất khác của ngôn ngữ, tôi nghĩ rằng chính điều này đã giúp tôi viết nên câu chữ.
JB: It's so powerful. Richard Ford, who's won the Pulitzer Prize, says that dyslexia helped him write sentences. He had to embrace this challenge, and I use that word intentionally. He didn't have to overcome dyslexia. He had to learn from it. He had to learn to hear the music in language.
JB: Thật là đầy nghị lực. Richard Ford, người đã đoạt giải thưởng Pulitzer, nói rằng chính bệnh khó đọc đã giúp anh ấy viết. Anh ấy phải "nắm bắt" thách thức này, và tôi cố tình sử dụng từ đó. Anh ấy không cần phải "vượt qua" bệnh khó đọc. Anh ấy phải học hỏi từ nó. Anh ấy đã học cách nghe thứ âm nhạc trong ngôn ngữ.
Artists also speak about how pushing up against the limits of what they can do, sometimes pushing into what they can't do, helps them focus on finding their own voice. The sculptor Richard Serra talks about how, as a young artist, he thought he was a painter, and he lived in Florence after graduate school. While he was there, he traveled to Madrid, where he went to the Prado to see this picture by the Spanish painter Diego Velázquez. It's from 1656, and it's called "Las Meninas," and it's the picture of a little princess and her ladies-in-waiting, and if you look over that little blonde princess's shoulder, you'll see a mirror, and reflected in it are her parents, the King and Queen of Spain, who would be standing where you might stand to look at the picture. As he often did, Velázquez put himself in this painting too. He's standing on the left with his paintbrush in one hand and his palette in the other.
Các nghệ sĩ cũng nói rằng chống lại giới hạn của những việc họ có thể làm, đôi khi lấn sân sang những việc họ không thể làm, giúp họ tập trung tìm được tiếng nói riêng của mình. Nhà điêu khắc Richard Serra nói về việc, khi còn là một nghệ sĩ trẻ, anh từng nghĩ mình là họa sĩ và anh sống ở Florence sau khi tốt nghiệp. Khi ở đó, anh đã du lịch tới Madrid, và đến Prado để ngắm bức tranh của họa sĩ người Tây Ban Nha Diego Velázquez. Bức tranh đến từ 1656 và nó được gọi là "Las Meninas", đó là tranh vẽ một công chúa nhỏ cùng những người hầu của cô ấy, và nếu nhìn qua vai của nàng công chúa tóc vàng bạn sẽ thấy một tấm gương bên trong phản chiếu bố mẹ của cô, Vua và Hoàng Hậu Tây Ban Nha, những người đã đứng ở nơi bạn đang đứng để nhìn bức tranh. Như thường lệ, Velázquez cũng vẽ bản thân mình trong bức tranh. Ông ấy đứng bên trái với cọ vẽ trên một tay, và bảng màu trên tay còn lại.
Richard Serra: I was standing there looking at it, and I realized that Velázquez was looking at me, and I thought, "Oh. I'm the subject of the painting." And I thought, "I'm not going to be able to do that painting." I was to the point where I was using a stopwatch and painting squares out of randomness, and I wasn't getting anywhere. So I went back and dumped all my paintings in the Arno, and I thought, I'm going to just start playing around.
Richard Serra: Tôi đứng đó nhìn bức tranh, và tôi nhận ra Velázquez đang nhìn mình, Và tôi nghĩ, "Ồ. Mình là đối tượng của bức tranh." Và tôi nghĩ, "Mình sẽ chẳng bao giờ vẽ như thế được". Tôi đang ở một thời điểm mà tôi sử dụng đồng hồ bấm giờ và vẽ những hình vuông một cách ngẫu nhiên, và tôi không tiến triển gì cả. Vì thế tôi quay lại và vứt tất cả số tranh vẽ của tôi ở Arno, và tôi nghĩ, mình sẽ bắt đầu nghịch ngợm vậy.
JB: Richard Serra says that so nonchalantly, you might have missed it. He went and saw this painting by a guy who'd been dead for 300 years, and realized, "I can't do that," and so Richard Serra went back to his studio in Florence, picked up all of his work up to that point, and threw it in a river. Richard Serra let go of painting at that moment, but he didn't let go of art. He moved to New York City, and he put together a list of verbs — to roll, to crease, to fold — more than a hundred of them, and as he said, he just started playing around. He did these things to all kinds of material. He would take a huge sheet of lead and roll it up and unroll it. He would do the same thing to rubber, and when he got to the direction "to lift," he created this, which is in the Museum of Modern Art. Richard Serra had to let go of painting in order to embark on this playful exploration that led him to the work that he's known for today: huge curves of steel that require our time and motion to experience. In sculpture, Richard Serra is able to do what he couldn't do in painting. He makes us the subject of his art. So experience and challenge and limitations are all things we need to embrace for creativity to flourish.
JB: Richard Serra nói điều đó một cách thật uể oải, có lẽ bạn đã bỏ qua nó. Anh đấy đến ngắm bức vẽ của một họa sĩ người đã chết 300 năm, và nhận ra, "Mình ko thể làm được như thế", vì vậy Richard Serra quay về phòng làm việc của anh ấy ở Florence, nhặt tất cả tác phẩm của anh ấy cho đến lúc bấy giờ, và ném chúng xuống sông. Richard Serra từ bỏ việc vẽ tranh vào lúc đó, nhưng anh ấy không từ bỏ nghệ thuật. Anh chuyển đến thành phố New York, và anh tập hợp một danh sách động từ - lăn, xếp, gấp, - hơn một trăm động từ, và như anh ấy đã nói, anh bắt đầu nghịch ngợm. Anh làm những việc đó với tất cả mọi loại vật liệu. Anh đã lấy một tấm bọc chì lớn và cuộn nó rồi lại trải nó ra. Anh ấy cũng làm như vậy với cao su, và khi đến mục "nâng", anh đã sáng tạo ra tác phẩm này, hiện đang nằm trong bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại. Richard Serra phải từ bỏ việc vẽ tranh để bắt đầu cuộc khám phá vui vẻ này và nó dẫn anh đến tác phẩm gắn liền với tên tuổi của anh ngày hôm nay: những đường cong thép khổng lồ đòi hỏi thời gian và chuyển động của chúng ta để trải nghiệm. Trong nghệ thuật điêu khắc, Richard Serra đã làm được điều mà anh không thể làm trong việc vẽ tranh. Anh biến chúng ta thành đối tượng cho nghệ thuật của anh ấy. Vậy là trải nghiệm, thử thách và giới hạn là tất cả những thứ chúng ta cần trân trọng để sự sáng tạo phát triển.
There's a fourth embrace, and it's the hardest. It's the embrace of loss, the oldest and most constant of human experiences. In order to create, we have to stand in that space between what we see in the world and what we hope for, looking squarely at rejection, at heartbreak, at war, at death. That's a tough space to stand in. The educator Parker Palmer calls it "the tragic gap," tragic not because it's sad but because it's inevitable, and my friend Dick Nodel likes to say, "You can hold that tension like a violin string and make something beautiful."
Có một yếu tố thứ tư, và nó là yếu tố khó khăn nhất. Đó là chấp nhận mất mát, thứ lâu đời nhất và thường xuyên nhất trong số những trải nghiệm của loài người. Để sáng tạo, chúng ta phải đứng trong khoảng không gian giữa điều chúng ta thấy trên thế giới và điều chúng ta mong muốn, nhìn thẳng vào sự từ chối, sự tan vỡ, vào chiến tranh, vào cái chết. Đó là một không gian khó khăn để đứng bên trong. Nhà giáo Parker Palmer gọi nó là "khoảng trống bi kịch", bi kịch không phải bởi vì nó thật buồn mà bởi vì nó là điều không thể tránh khỏi, và bạn tôi Dick Nodel thường nói rằng, "Bạn có thể nắm giữ sức căng ấy như một cái dây đàn violin và tạo ra thứ gì đó đẹp đẽ".
That tension resonates in the work of the photographer Joel Meyerowitz, who at the beginning of his career was known for his street photography, for capturing a moment on the street, and also for his beautiful photographs of landscapes -- of Tuscany, of Cape Cod, of light. Joel is a New Yorker, and his studio for many years was in Chelsea, with a straight view downtown to the World Trade Center, and he photographed those buildings in every sort of light. You know where this story goes. On 9/11, Joel wasn't in New York. He was out of town, but he raced back to the city, and raced down to the site of the destruction.
Sức căng ấy vang dội trong tác phẩm của nhiếp ảnh gia Joel Meyerowitz, người mà ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp đã được biết đến với hoạt động nhiếp ảnh đường phố của anh, và cả những bức ảnh phong cảnh tuyệt vời chụp Tuscany, chụp Cape Cod, chụp ánh sáng. Joel đến từ New York, và trong nhiều năm phòng chụp của anh được đặt ở Chelsea, với góc nhìn thẳng đến Trung tâm Thương mại Thế giới, và anh chụp những tòa nhà đó trong mọi loại ánh sáng. Bạn cũng đoán được câu chuyện đang dẫn đến đâu rồi đấy. Ngày 9/11, Joel không ở New York. Anh ra khỏi thành phố, nhưng anh đã gấp rút trở về, chạy đến nơi diễn ra sự đổ nát.
Joel Meyerowitz: And like all the other passersby, I stood outside the chain link fence on Chambers and Greenwich, and all I could see was the smoke and a little bit of rubble, and I raised my camera to take a peek, just to see if there was something to see, and some cop, a lady cop, hit me on my shoulder, and said, "Hey, no pictures!" And it was such a blow that it woke me up, in the way that it was meant to be, I guess. And when I asked her why no pictures, she said, "It's a crime scene. No photographs allowed." And I asked her, "What would happen if I was a member of the press?" And she told me, "Oh, look back there," and back a block was the press corps tied up in a little penned-in area, and I said, "Well, when do they go in?" and she said, "Probably never." And as I walked away from that, I had this crystallization, probably from the blow, because it was an insult in a way. I thought, "Oh, if there's no pictures, then there'll be no record. We need a record." And I thought, "I'm gonna make that record. I'll find a way to get in, because I don't want to see this history disappear."
Joel Meyerowitz: Và cũng như tất cả những người qua đường, Tôi đứng bên ngoài hàng rào ở Chambers và Greenwich, và tất cả những gì tôi thấy là khói cùng một ít gạch vụn, và tôi nâng máy ảnh lên để ngắm một chút, chỉ để xem có thấy được gì không, và một nữ cảnh sát đánh vào vai tôi, nói rằng "Này, không chụp ảnh!" Cú đánh đó mạnh đến nỗi nó thức tỉnh tôi, theo cách mà nó lẽ ra phải thế, tôi đoán vậy. Tôi hỏi cô ấy vì sao không được chụp ảnh, cô trả lời "Đây là hiện trường phạm tội. Không được chụp ảnh." Và tôi hỏi, Thế nếu tôi là một phóng viên thì sao ?" Và cô ấy nói với tôi, "Ồ, nhìn kìa", và cách đó một khu nhà là đội phóng viên mắc kẹt trong một khu vực nhỏ, tôi nói, "Bao giờ họ mới được vào?" cô ấy trả lời, "Có lẽ là không bao giờ". Khi tôi bước rời khỏi nơi đó, tôi bắt đầu hình thành một suy nghĩ, có lẽ từ cú đánh, vì theo một cách nào đó thì nó thật xúc phạm. Tôi nghĩ, "Ồ, nếu không chụp ảnh, thì sẽ không có vật lưu giữ nào cả. Chúng ta cần vật lưu giữ". Và tôi nghĩ, "Mình sẽ làm nên vật lưu giữ đó. Mình sẽ tìm cách đột nhập vào, bởi vì mình không muốn thấy lịch sử biến mất".
JB: He did. He pulled in every favor he could, and got a pass into the World Trade Center site, where he photographed for nine months almost every day. Looking at these photographs today brings back the smell of smoke that lingered on my clothes when I went home to my family at night. My office was just a few blocks away. But some of these photographs are beautiful, and we wondered, was it difficult for Joel Meyerowitz to make such beauty out of such devastation?
JB: anh ấy đã làm vậy. Anh sử dụng đến mọi sự trợ giúp, và được phép bước vào khu Trung tâm Thương mại Quốc tế, nơi anh chụp ảnh gần như mỗi ngày trong suốt chín tháng. Nhìn những bức ảnh này hôm nay gợi lại mùi khói bám trên quần áo tôi Khi tôi về nhà đêm đó. Văn phòng của tôi chỉ cách đó vài dãy nhà. Nhưng một số bức ảnh này thật đẹp, và chúng ta tự hỏi, việc Joel Meyerowitz làm ra cái đẹp như thế này từ sự hủy hoại ấy, có khó không?
JM: Well, you know, ugly, I mean, powerful and tragic and horrific and everything, but it was also as, in nature, an enormous event that was transformed after the fact into this residue, and like many other ruins — you go to the ruins of the Colosseum or the ruins of a cathedral someplace — and they take on a new meaning when you watch the weather. I mean, there were afternoons I was down there, and the light goes pink and there's a mist in the air and you're standing in the rubble, and I found myself recognizing both the inherent beauty of nature and the fact that nature, as time, is erasing this wound. Time is unstoppable, and it transforms the event. It gets further and further away from the day, and light and seasons temper it in some way, and it's not that I'm a romantic. I'm really a realist. The reality is, there's the Woolworth Building in a veil of smoke from the site, but it's now like a scrim across a theater, and it's turning pink, you know, and down below there are hoses spraying, and the lights have come on for the evening, and the water is turning acid green because the sodium lamps are on, and I'm thinking, "My God, who could dream this up?" But the fact is, I'm there, it looks like that, you have to take a picture.
JM: Bạn biết đấy, xấu xí, ý tôi là, mạnh mẽ và bi kịch và kinh khủng và mọi thứ, nhưng về bản chất, nó cũng là một hiện tượng phi thường sau đó đã biến đổi thành tàn dư này, và cũng như rất nhiều tàn dư khác - bạn đến khu đổ nát của đấu trường La Mã hoặc của một nhà thờ ở đâu đó - và chúng mang một ý nghĩa mới khi bạn ngắm nhìn thời tiết. Ý tôi là, có những buổi chiều khi tôi ở đó, ánh sáng chuyển thành màu hồng và có sương mù trong không khí đứng trong đống gạch vụn, và tôi thấy mình nhận ra cả vẻ đẹp vốn có của thiên nhiên lẫn sự thật rằng thiên nhiên, cùng với thời gian, đang xóa mờ vết thương này. Thời gian không thể dừng, và nó làm biến đổi sự kiện. Nó đi càng lúc càng xa khỏi ngày đó, ánh sáng và các mùa làm dịu nó theo nhiều cách, và tôi không phải một người lãng mạn đâu. Tôi khá thực tế. Thực tế là, có tòa nhà Woolworth trong màn khói ở đó, nhưng bây giờ nó như một lớp vải quanh một nhà hát, và nó đang chuyển màu hồng, bạn biết đấy, và bên dưới có các ống nước đang phun, và đèn đã bật sáng cho buổi tối, nước chuyển thành màu xanh axít vì đèn natri đang bật, và tôi nghĩ, "Lạy Chúa, ai có thể nằm mơ thấy cảnh này?" Nhưng thực tế là, tôi ở đó, trông nó như vậy, và tôi phải chụp một bức ảnh.
JB: You have to take a picture. That sense of urgency, of the need to get to work, is so powerful in Joel's story. When I saw Joel Meyerowitz recently, I told him how much I admired his passionate obstinacy, his determination to push through all the bureaucratic red tape to get to work, and he laughed, and he said, "I'm stubborn, but I think what's more important is my passionate optimism."
JB: Tôi phải chụp một bức ảnh. Cảm giác thúc giục đó, sự cần thiết phải bắt tay vào làm việc, toát ra thật mạnh mẽ trong câu chuyện của Joel. Khi tôi gặp Joel Meyerowitz gần đây, tôi nói với anh ấy tôi ngưỡng mộ sự ngoan cố đầy đam mê của anh ấy như thế nào, sự quyết tâm của anh ấy khi vượt qua mọi rào chắn quan liêu để đến làm việc, anh ấy cười và nói, "Tôi rất bướng bỉnh, nhưng tôi nghĩ điều quan trọng hơn là sự lạc quan đầy đam mê của tôi."
The first time I told these stories, a man in the audience raised his hand and said, "All these artists talk about their work, not their art, which has got me thinking about my work and where the creativity is there, and I'm not an artist." He's right. We all wrestle with experience and challenge, limits and loss. Creativity is essential to all of us, whether we're scientists or teachers, parents or entrepreneurs.
Lần đầu tiên tôi kể những câu chuyện này, một người đàn ông trong nhóm khán giả đã giơ tay và nói, "Tất cả những nghệ sĩ này nói về công việc của họ, không phải nghệ thuật của họ, và điều đó làm tôi nghĩ đến công việc của tôi và vị trí của sự sáng tạo ở đó, và tôi không phải một nghệ sĩ." Anh ấy nói đúng. Chúng ta đều phải vật lộn với trải nghiệm, thử thách, giới hạn và mất mát. Sự sáng tạo là thiết yếu với tất cả chúng ta, cho dù chúng ta là nhà khoa học hay giáo viên, phụ huynh hay thương gia.
I want to leave you with another image of a Japanese tea bowl. This one is at the Freer Gallery in Washington, D.C. It's more than a hundred years old and you can still see the fingermarks where the potter pinched it. But as you can also see, this one did break at some point in its hundred years. But the person who put it back together, instead of hiding the cracks, decided to emphasize them, using gold lacquer to repair it. This bowl is more beautiful now, having been broken, than it was when it was first made, and we can look at those cracks, because they tell the story that we all live, of the cycle of creation and destruction, of control and letting go, of picking up the pieces and making something new. Thank you. (Applause)
Tôi muốn cho các bạn xem thêm một bức ảnh của bát trà Nhật. Tác phẩm này đặt tại Triển lãm Freer ở Washington, D.C. Nó hơn một trăm tuổi và bạn vẫn thấy được dấu vân tay ở chỗ người thợ gốm đã nặn nó. Nhưng bạn cũng có thể thấy, tác phẩm này đã vỡ ở một thời điểm nào đó trong hàng trăm năm đó. Nhưng người hàn gắn nó lại, thay vì che giấu những vết nứt, đã quyết định nhấn mạnh chúng khi sử dụng sơn mài vàng. Chiếc bát trông đẹp sau khi vỡ, hơn cả khi nó được làm lần đầu tiên, và chúng ta có thể nhìn vào những vết nứt ấy, bởi vì chúng kể câu chuyện mà tất cả chúng ta đều đang sống, về vòng xoáy của sự sáng tạo và hủy diệt, của quyền kiểm soát và sự từ bỏ, của việc nhặt những mảnh vỡ lên và tạo ra một thứ gì mới. Cảm ơn. (vỗ tay)