I'd like to invite you to close your eyes.
Tôi muốn mời các bạn nhắm mắt lại.
Imagine yourself standing outside the front door of your home. I'd like you to notice the color of the door, the material that it's made out of. Now visualize a pack of overweight nudists on bicycles.
Tưởng tưởng mình đang đứng bên ngoài cửa trước nhà bạn. Các bạn hãy chú ý màu cửa, chất liệu của nó. Bây giờ hãy hình dung một nhóm người thừa cân theo chủ nghĩa khỏa thân đang chạy xe đạp.
(Laughter)
Họ đang thi đấu trong một cuộc đua xe đạp khỏa thân,
They are competing in a naked bicycle race, and they are headed straight for your front door. I need you to actually see this. They are pedaling really hard, they're sweaty, they're bouncing around a lot. And they crash straight into the front door of your home. Bicycles fly everywhere, wheels roll past you, spokes end up in awkward places. Step over the threshold of your door into your foyer, your hallway, whatever's on the other side, and appreciate the quality of the light. The light is shining down on Cookie Monster. Cookie Monster is waving at you from his perch on top of a tan horse. It's a talking horse. You can practically feel his blue fur tickling your nose. You can smell the oatmeal raisin cookie that he's about to shovel into his mouth. Walk past him. Walk past him into your living room. In your living room, in full imaginative broadband, picture Britney Spears. She is scantily clad, she's dancing on your coffee table, and she's singing "Hit Me Baby One More Time." And then, follow me into your kitchen. In your kitchen, the floor has been paved over with a yellow brick road, and out of your oven are coming towards you Dorothy, the Tin Man, the Scarecrow and the Lion from "The Wizard of Oz," hand-in-hand, skipping straight towards you.
và họ được phép chạy thẳng tới trước cửa nhà của bạn. Tôi cần các bạn phải thực sự thấy điều này. Họ đang đạp hết sức, người họ đẫm mồ hôi, họ cứ chạy lòng vòng quanh đó. Và họ đâm thẳng vào cửa trước nhà của bạn. Xe đạp bay tung tóe khắp nơi, những chiếc bánh xe lăn qua bạn, niềng xe văng ra những chỗ khác nhau. Bước qua thềm cửa nhà của bạn tiến đến tiền sảnh, hành lang, bất cứ thứ gì ở phía bên kia, và cảm nhận chất lượng ánh sáng tuyệt vời. Đèn chiếu xuống con rối Cookie Monster. Cookie Monster đang vẫy tay chào đón bạn từ chỗ ngồi của nó trên lưng một con ngựa rám nắng. Đó là một con ngựa biết nói. Bạn có thể thực sự cảm nhận được những chiếc lông màu xanh của nó đang ngoáy mũi bạn. Bạn có thể ngửi thấy mùi bánh quy nho khô làm bằng bột yến mạch mà nó sắp bỏ hết vào miệng. Đi qua nó đi. Đi qua nó để tới phòng khách nhà bạn. Trong phòng khách, bằng trí tưởng tượng phong phú của mình, ảnh của Britney Spears kìa. Cô đang mặc váy áo hở hang, cô đang nhún nhảy trên bàn cà phê của bạn, và cô ấy đang hát "Hit Me Baby One More Time." Và rồi hãy theo tôi vào nhà bếp của bạn. Trong nhà bếp, sàn lối đi được ốp gạch màu vàng và từ lò nướng chui ra, đang tiến đến phía bạn là cô bé Dorothy, người thiếc Tin Man, Scarecrow và con sư tử hèn nhát trong "Phù thủy xứ Oz", họ đang tay trong tay tiến thẳng đến bạn.
Okay. Open your eyes.
Được rồi, các bạn có thể mở mắt ra.
I want to tell you about a very bizarre contest that is held every spring in New York City. It's called the United States Memory Championship. And I had gone to cover this contest a few years back as a science journalist, expecting, I guess, that this was going to be like the Superbowl of savants. This was a bunch of guys and a few ladies, widely varying in both age and hygienic upkeep.
Tôi muốn nói với các bạn về một cuộc thi rất kỳ lạ được tổ chức vào mỗi mùa xuân ở thành phố New York. Gọi là Cuộc Thi Vô Địch Nước Mỹ Về Trí Nhớ (United States Memory Championship). Cách đây một vài năm, tôi đã theo dõi cuộc thi này với tư cách là một phóng viên khoa học mong chờ, tôi đoán, cuộc thi này kiểu như là Giải vô địch của các nhà bác học. Đây là cuộc thi của một nhóm những anh chàng trai và một số cô gái, rất khác nhau từ tuổi tác đến chuyện... giữ vệ sinh.
(Laughter)
(Tiếng cười)
They were memorizing hundreds of random numbers, looking at them just once. They were memorizing the names of dozens and dozens and dozens of strangers. They were memorizing entire poems in just a few minutes. They were competing to see who could memorize the order of a shuffled pack of playing cards the fastest. I was like, this is unbelievable. These people must be freaks of nature.
Họ sẽ ghi nhớ hàng trăm con số ngẫu nhiên, mà chỉ nhìn chúng qua một lần duy nhất. Họ sẽ ghi nhớ tên của hàng tá tá những người xa lạ. Họ sẽ ghi nhớ toàn bộ bài thơ chỉ trong một vài phút. Họ sẽ thi xem ai có thể ghi nhớ thứ tự của bộ bài đã được xáo trộn một cách nhanh nhất. Tôi cảm thấy như không thể tin được điều này. Những người này chắc phải là... quái nhân của tạo hoá.
And I started talking to a few of the competitors. This is a guy called Ed Cook, who had come over from England, where he had one of the best-trained memories. And I said to him, "Ed, when did you realize that you were a savant?" And Ed was like, "I'm not a savant. In fact, I have just an average memory. Everybody who competes in this contest will tell you that they have just an average memory. We've all trained ourselves to perform these utterly miraculous feats of memory using a set of ancient techniques, techniques invented 2,500 years ago in Greece, the same techniques that Cicero had used to memorize his speeches, that medieval scholars had used to memorize entire books." And I said, "Whoa. How come I never heard of this before?"
Và tôi bắt đầu gợi chuyện với một số người dự thi. Đây là anh chàng tên Ed Cook đến từ nước Anh nơi mà anh sở hữu một trong những trí nhớ được rèn luyện tốt nhất. Và tôi nói với anh: "Ed, khi nào thì anh nhận ra rằng anh là một nhà bác học?" Ed trả lời: "Tôi không phải là một nhà bác học. Thực sự thì tôi chỉ có một trí nhớ trung bình. Mọi người tham dự cuộc thi này sẽ cho anh biết họ chỉ có một trí nhớ trung bình mà thôi. Chúng tôi đều tự rèn luyện để thể hiện những thành công cực kỳ siêu phàm của trí nhớ bằng cách sử dụng một tập hợp những kỹ thuật cổ xưa, những kỹ thuật được phát minh ra cách đây 2500 năm ở Hy Lạp, những kỹ thuật tương tự mà Cicero đã từng áp dụng để ghi nhớ bài phát biểu của ông, và những học giả trung cổ dùng để ghi nhớ toàn bộ các quyển sách". Và tôi: "Chà. Sao tôi chưa từng nghe về điều này trước đây nhỉ?"
And we were standing outside the competition hall, and Ed, who is a wonderful, brilliant, but somewhat eccentric English guy, says to me, "Josh, you're an American journalist. Do you know Britney Spears?" I'm like, "What? No. Why?" "Because I really want to teach Britney Spears how to memorize the order of a shuffled pack of playing cards on U.S. national television. It will prove to the world that anybody can do this."
Chúng tôi đứng bên ngoài hội trường của cuộc thi, và Ed, một anh chàng người Anh rất thông minh, tuyệt vời nhưng có phần nào đó hơi lập dị nói với tôi: "Josh, anh là một phóng viên người Mỹ. Vậy anh có biết Britney Spears không?" Tôi kiểu như: "Cái gì? À không. Sao vậy?" "Vì tôi thực sự muốn chỉ cho Britney Spears làm thế nào để ghi nhớ thứ tự của một bộ bài đã được xáo trộn trên đài truyền hình quốc gia Mỹ. Nó sẽ chứng minh cho cả thế giới thấy bất cứ ai cũng có thể làm được điều này."
(Laughter)
(Tiếng cười)
I was like, "Well, I'm not Britney Spears, but maybe you could teach me. I mean, you've got to start somewhere, right?" And that was the beginning of a very strange journey for me.
Tôi nói: "Tôi không phải Britney Spears, nhưng có lẽ anh có thể dạy tôi. Ý tôi là anh sẽ phải bắt đầu từ đâu đó, phải không?" Và đó là điểm khởi đầu của cuộc hành trình rất kỳ lạ đối với tôi.
I ended up spending the better part of the next year not only training my memory, but also investigating it, trying to understand how it works, why it sometimes doesn't work, and what its potential might be.
Cuối cùng thì, tôi dành cả năm sau đó cho phần hay nhất của cuộc hành trình không chỉ để rèn luyện trí nhớ của mình, mà còn nghiên cứu về nó, cố gắng hiểu xem nó hoạt động như thế nào, tại sao đôi lúc nó lại không hoạt động và tiềm năng của nó có thể là gì.
And I met a host of really interesting people. This is a guy called E.P. He's an amnesic who had, very possibly, the worst memory in the world. His memory was so bad, that he didn't even remember he had a memory problem, which is amazing. And he was this incredibly tragic figure, but he was a window into the extent to which our memories make us who we are.
Tôi đã gặp rất nhiều người thực sự thú vị. Người đàn ông này tên E.P. Ông bị mắc chứng mất trí nhớ có thể ông là người có trí nhớ tệ nhất trên thế giới. Trí nhớ của ông rất kém đến nỗi thậm chí ông không nhớ rằng mình có vấn đề về trí nhớ, điều này thật ngạc nhiên. Ông là một trường hợp vô cùng bi thảm, nhưng ông cũng là cánh cửa mở đến giới hạn mà trí nhớ của chúng ta tạo nên con người mà chúng ta hiện là.
At the other end of the spectrum, I met this guy. This is Kim Peek, he was the basis for Dustin Hoffman's character in the movie "Rain Man." We spent an afternoon together in the Salt Lake City Public Library memorizing phone books, which was scintillating.
Ở một khía cạnh khác: Tôi đã gặp người đàn ông này. Đây là Kim Peek. Ông là một điển hình của nhân vật do Dustin Hoffman đóng vai trong phim "Rain Man" Chúng tôi ngồi với nhau cả buổi trưa trong Thư viện công cộng thành phố Salt Lake để ghi nhớ những quyển danh bạ điện thoại, chuyện này thật (điên) rực rỡ.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And I went back and I read a whole host of memory treatises, treatises written 2,000-plus years ago in Latin, in antiquity, and then later, in the Middle Ages. And I learned a whole bunch of really interesting stuff. One of the really interesting things that I learned is that once upon a time, this idea of having a trained, disciplined, cultivated memory was not nearly so alien as it would seem to us to be today. Once upon a time, people invested in their memories, in laboriously furnishing their minds.
Khi trở về, tôi đã đọc toàn bộ các tài liệu ghi chép về trí nhớ, những luận thuyết được viết cách đây hơn 2000 năm bằng tiếng Lating cổ rồi sau đó bằng tiếng Latinh Trung Cổ Và tôi đã học được rất nhiều điều thú vị. Một trong những điều cực thú vị mà tôi đã học được là ngày xửa ngày xưa ý tưởng về việc có một trí nhớ được huấn luyện, rèn tập và trau dồi gần như không quá kỳ lạ với người xưa như đối với chúng ta ngày nay. Vào thời xa xưa, con người đầu tư cho trí nhớ bằng cách chăm chỉ trang hoàng cho tâm trí của họ .
Over the last few millenia, we've invented a series of technologies -- from the alphabet, to the scroll, to the codex, the printing press, photography, the computer, the smartphone -- that have made it progressively easier and easier for us to externalize our memories, for us to essentially outsource this fundamental human capacity. These technologies have made our modern world possible, but they've also changed us. They've changed us culturally, and I would argue that they've changed us cognitively. Having little need to remember anymore, it sometimes seems like we've forgotten how.
Qua một vài thiên niên kỷ chúng ta đã phát minh ra hàng loạt những công nghệ -- từ bảng chữ cái đến giấy để viết đến sách chép tay, tài liệu in ấn, nhiếp ảnh, máy tính, điện thoại thông minh -- những thứ mà dần dần giúp dễ dàng hơn và dễ dàng hơn giúp chúng ta bành trướng trí nhớ của chúng ta, cho chúng ta gần như thuê nguồn lực bên ngoài thực hiện dùm bản năng cơ bản này của con người. Những công nghệ này tạo ra tính khả thi cho thế giới hiện đại của chúng ta, nhưng chúng cũng đã thay đổi chúng ta. Chúng thay đổi chúng ta về mặt văn hóa, và tôi sẽ chứng minh rằng chúng đã thay đổi chúng ta về mặt nhận thức nữa. Ít có nhu cầu để ghi nhớ thêm, điều này đôi khi giống như việc chúng ta đã quên đi cách làm sao để ghi nhớ.
One of the last places on Earth where you still find people passionate about this idea of a trained, disciplined, cultivated memory, is at this totally singular memory contest. It's actually not that singular, there are contests held all over the world. And I was fascinated, I wanted to know how do these guys do it.
Một trong những nơi cuối cùng trên trái đất nơi mà các bạn vẫn còn tìm thấy những người đam mê với ý tưởng về một trí nhớ được luyện tập, rèn luyện và trau dồi duy nhất chính là ở cuộc thi về trí nhớ rất khác thường này. Nó thực sự không phải là duy nhất, có những cuộc thi được tổ chức khắp nơi trên thế giới. Và tôi đã bị cuốn hút, tôi muốn biết những người này làm điều đó như thế nào.
A few years back a group of researchers at University College London brought a bunch of memory champions into the lab. They wanted to know: Do these guys have brains that are somehow structurally, anatomically different from the rest of ours? The answer was no. Are they smarter than the rest of us? They gave them a bunch of cognitive tests, and the answer was: not really.
Một vài năm trước, một nhóm các nhà nghiên cứu ở trường đại học Luân Đôn đã mời các nhà vô địch trí nhớ đến phòng thí nghiệm. Họ muốn biết: Bộ não của những người này có khác với những người còn lại về phương diện cấu trúc và giải phẫu học không? Câu trả lời là: Không. Họ có thông minh hơn chúng ta không? Các nhà nghiên cứu đã cho những người này thực hiện một loạt những bài kiểm tra về nhận thức, và câu trả lời là không hẳn vậy.
There was, however, one really interesting and telling difference between the brains of the memory champions and the control subjects that they were comparing them to. When they put these guys in an fMRI machine, scanned their brains while they were memorizing numbers and people's faces and pictures of snowflakes, they found that the memory champions were lighting up different parts of the brain than everyone else. Of note, they were using, or they seemed to be using, a part of the brain that's involved in spatial memory and navigation. Why? And is there something that the rest of us can learn from this?
Tuy nhiên, có một điều thực sự thú vị và nói lên sự khác biệt giữa bộ não của các nhà vô địch trí nhớ và những điểm kiểm soát khi các nhà nghiên cứu so sánh chúng với nhau. Khi các nhà nghiên cứu đưa những người này qua máy MRI (máy chụp cộng hưởng từ), quét qua bộ não của họ trong khi họ đang ghi nhớ những con số, những khuôn mặt người và hình ảnh những bông tuyết, các nhà nghiên cứu nhận ra các nhà vô địch trí nhớ có những điểm sáng khác nhau trong não nhiều hơn những người khác. Đặc biệt, họ đang sử dụng, hoặc có vẻ như sử dụng một phần của bộ não mà có liên quan đến trí nhớ thuộc không gian và định vị. Tại sao? Và chúng ta có thể học được gì từ điều này không?
The sport of competitive memorizing is driven by a kind of arms race where, every year, somebody comes up with a new way to remember more stuff more quickly, and then the rest of the field has to play catch-up.
Môn thể thao cạnh tranh về trí nhớ được tiếp diễn như kiểu một cuộc chạy đua vũ trang nơi mà mỗi năm có ai đó tìm ra một phương pháp mới để ghi nhớ nhiều hơn, một cách nhanh hơn, và rồi những người còn lại phải rượt theo.
This is my friend Ben Pridmore, three-time world memory champion. On his desk in front of him are 36 shuffled packs of playing cards that he is about to try to memorize in one hour, using a technique that he invented and he alone has mastered. He used a similar technique to memorize the precise order of 4,140 random binary digits in half an hour.
Đây là một người bạn của tôi tên Ben Pridmore, ba lần vô địch thế giới về trí nhớ. Trên bàn trước mặt anh là 36 bộ bài đã được xáo trộn mà anh chuẩn bị cố ghi nhớ chúng trong một giờ, bằng cách sử dụng một kỹ thuật mà anh phát minh ra và chỉ có anh thành thạo nó. Anh đã dùng một kỹ thuật tương tự để ghi nhớ thứ tự chính xác của 4140 chữ số nhị phân ngẫu nhiên
(Laughter)
trong vòng nửa giờ đồng hồ.
Yeah.
Đúng thế.
And while there are a whole host of ways of remembering stuff in these competitions, everything, all of the techniques that are being used, ultimately come down to a concept that psychologists refer to as "elaborative encoding."
Và trong khi có cả một tập hợp đầy những cách để ghi nhớ ở những cuộc thi như thế này, mọi thứ, tất cả những kỹ thuật đã được sử dụng, cuối cùng cũng quay về một khái niệm mà các nhà tâm lý học gọi là mã hóa chi tiết.
And it's well-illustrated by a nifty paradox known as the Baker/baker paradox, which goes like this: If I tell two people to remember the same word, if I say to you, "Remember that there is a guy named Baker." That's his name. And I say to you, "Remember that there is a guy who is a baker." Okay? And I come back to you at some point later on, and I say, "Do you remember that word that I told you a while back? Do you remember what it was?" The person who was told his name is Baker is less likely to remember the same word than the person was told his job is a baker. Same word, different amount of remembering; that's weird. What's going on here?
Nó được minh họa rõ bằng một nghịch lý đỉnh cao gọi là nghịch lý Baker/baker mà hoạt động nó là như thế này: Nếu tôi nói hai người phải ghi nhớ cùng một từ, nếu tôi nói với bạn này: "Hãy ghi nhớ có một người đàn ông tên là Baker." Đó là tên của anh ta. Rồi tôi nói với bạn kia: "Hãy ghi nhớ có một người đàn ông làm nghề "baker" (người làm bánh)" Và một lúc sau tôi quay lại với hai bạn đó, và tôi hỏi: "Các bạn có nhớ từ mà tôi đã nói với các bạn trước đó không? Các bạn có nhớ nó là từ gì không?" Người mà được bảo là phải ghi nhớ người đàn ông tên là Baker thì ít có khả năng nhớ từ tương tự so với người được bảo phải ghi nhớ nghề nghiệp của ông ấy là một "baker" (người làm bánh). Cùng một từ ngữ, khả năng ghi nhớ khác nhau điều này thật khó hiểu. Điều gì đang diễn ra ở đây?
Well, the name Baker doesn't actually mean anything to you. It is entirely untethered from all of the other memories floating around in your skull. But the common noun "baker" -- we know bakers. Bakers wear funny white hats. Bakers have flour on their hands. Bakers smell good when they come home from work. Maybe we even know a baker. And when we first hear that word, we start putting these associational hooks into it, that make it easier to fish it back out at some later date. The entire art of what is going on in these memory contests, and the entire art of remembering stuff better in everyday life, is figuring out ways to transform capital B Bakers into lower-case B bakers -- to take information that is lacking in context, in significance, in meaning, and transform it in some way, so that it becomes meaningful in the light of all the other things that you have in your mind.
Đúng vậy. Cái tên Baker thực sự không có ý nghĩa gì đối với bạn. Nó hoàn toàn không bị buộc lại trong toàn bộ các ghi nhớ khác đang trôi nổi xung quanh bộ óc của bạn. Nhưng danh từ chung "baker" (người làm bánh), chúng ta biết những người làm bánh. Những người làm bánh đội những chiếc nón màu trắng ngộ nghĩnh. Những người làm bánh trên tay dính đầy bột. Những người làm bánh có mùi thơm khi họ đi làm về. Có lẽ chúng ta thậm chí quen biết với một người làm bánh. Khi chúng ta thoạt đầu nghe từ đó, chúng ta bắt đầu đặt những chiếc móc liên kết vào nó khiến chúng ta dễ dàng tìm lại nó sau một thời gian. Toàn bộ nghệ thuật của những gì đang diễn ra trong những cuộc thi về trí nhớ này và toàn bộ nghệ thuật ghi nhớ mọi việc tốt hơn trong cuộc sống hàng ngày là tìm cho ra những phương pháp chuyển đổi chữ B viết hoa trong B-Bakers thành chữ B thường trong b-bakers (người làm bánh) -- để lấy thông tin mà bị thiếu hụt về ngữ cảnh, về ý nghĩa, về ngữ nghĩa và chuyển đổi nó bằng cách nào đó để nó trở nên có ý nghĩa liên kết với tất cả những thứ khác đã tồn tại trong tâm trí bạn.
One of the more elaborate techniques for doing this dates back 2,500 years to Ancient Greece. It came to be known as the memory palace. The story behind its creation goes like this:
Một trong những kỹ thuật chi tiết hơn để làm điều này đã có từ cách đây 2500 năm thời Hy Lạp Cổ Đại. Người ta biết đến nó như một cung điện trí nhớ. Câu chuyện đằng sau việc hình thành cung điện trí nhớ là như thế này:
There was a poet called Simonides, who was attending a banquet. He was actually the hired entertainment, because back then, if you wanted to throw a really slamming party, you didn't hire a D.J., you hired a poet. And he stands up, delivers his poem from memory, walks out the door, and at the moment he does, the banquet hall collapses. Kills everybody inside. It doesn't just kill everybody, it mangles the bodies beyond all recognition. Nobody can say who was inside, nobody can say where they were sitting. The bodies can't be properly buried. It's one tragedy compounding another. Simonides, standing outside, the sole survivor amid the wreckage, closes his eyes and has this realization, which is that in his mind's eye, he can see where each of the guests at the banquet had been sitting. And he takes the relatives by the hand, and guides them each to their loved ones amid the wreckage.
Có một nhà thơ tên là Simondies đang dự một bữa tiệc lớn. Thực ra ông được thuê để trình diễn giải trí, vào thời điểm đó nếu bạn muốn tổ chức một bữa tiệc thật linh đình, bạn sẽ không thuê một D.J mà là một nhà thơ. Ông đứng dậy, đọc bài thơ của ông từ trí nhớ, bước ra khỏi cửa và ngay lúc ông vừa bước ra khỏi cửa cả hội trường yến tiệc bị sập đổ, làm chết hết tất cả mọi người bên trong đó. Không chỉ giết hết tất cả mọi người, nó còn làm nát thi thể đến nỗi không nhận ra được. Không ai có thể nói những ai ở bên trong, không ai có thể nói vị trí họ đã ngồi. Thi thể không thể được chôn cất đàng hoàng. Đó thực sự là một bi kịch nối tiếp bi kịch. Simonides, đứng bên ngoài, người sống sót duy nhất giữa đống đổ nát, ông nhắm mắt lại và nhận ra điều này, những gì mà có trong con mắt tâm trí của ông, ông có thể thấy vị trí từng vị khách đang ngồi trong bữa tiệc. Và ông cầm tay những người thân của các vị khách tới nơi mà người thân yêu của họ đã mất giữa đống đổ nát.
What Simonides figured out at that moment, is something that I think we all kind of intuitively know, which is that, as bad as we are at remembering names and phone numbers, and word-for-word instructions from our colleagues, we have really exceptional visual and spatial memories. If I asked you to recount the first 10 words of the story that I just told you about Simonides, chances are you would have a tough time with it. But, I would wager that if I asked you to recall who is sitting on top of a talking tan horse in your foyer right now, you would be able to see that.
Những gì mà Simonides khám phá ra vào lúc đó là điều mà tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều phần nào biết được bằng trực giác điều đó là... bên cạnh việc chúng ta rất kém khi phải nhớ tên và số điện thoại hay là từng-từ-một các hướng dẫn trong sách vở ở trường, chúng ta thực sự có những ký ức thuộc thị giác và không gian rất đặc biệt. Nếu tôi đề nghị các bạn nói lại 10 từ đầu tiên trong câu chuyện mà tôi vừa kể cho các bạn nghe về Simonides, khả năng rất lớn là các bạn sẽ gặp khó khăn. Nhưng tôi sẽ đặt cược rằng nếu tôi đề nghị các bạn hãy nhớ lại ai đang ngồi trên con ngựa rám nắng biết nói ở trong phòng sảnh nhà bạn bây giờ, các bạn sẽ có thể thấy được.
The idea behind the memory palace is to create this imagined edifice in your mind's eye, and populate it with images of the things that you want to remember -- the crazier, weirder, more bizarre, funnier, raunchier, stinkier the image is, the more unforgettable it's likely to be. This is advice that goes back 2,000-plus years to the earliest Latin memory treatises.
Ý tưởng đằng sau cung điện trí nhớ là để tạo nên một dinh thự tưởng tượng trong đôi mắt tâm trí của các bạn và đưa vào đó những hình ảnh của những thứ mà bạn muốn nhớ -- hình ảnh càng điên dại, kỳ lạ, quái đản, vui nhộn, tục tĩu, bốc mùi thì nó càng có khó quên hơn. Đây là lời khuyên có từ cách đây hơn 2000 năm từ những luận thuyết Latin đầu tiên về trí nhớ.
So how does this work? Let's say that you've been invited to TED center stage to give a speech, and you want to do it from memory, and you want to do it the way that Cicero would have done it, if he had been invited to TEDxRome 2,000 years ago.
Vậy nó hoạt động như thế nào? Giả sử là bạn được mời đến sân khấu trung tâm của TED để nói chuyện và bạn muốn thực hiện nó bằng trí nhớ, bạn muốn làm theo cách mà Cicero đã từng làm nếu ông được mời đến TEDxRome 2000 năm trước.
(Laughter)
Những gì bạn có thể làm
What you might do is picture yourself at the front door of your house. And you'd come up with some sort of crazy, ridiculous, unforgettable image, to remind you that the first thing you want to talk about is this totally bizarre contest.
là hình dung bản thân mình đang đứng ở cửa trước nhà bạn. Và bạn tưởng tượng ra vài hình ảnh khá là điên rồ, mắc cười và khó quên để nhắc nhớ điều đầu tiên mà bạn muốn nói đến là cuộc thi rất kỳ quái này.
(Laughter)
Và rồi bạn bước vào bên trong ngôi nhà của mình
And then you'd go inside your house, and you would see an image of Cookie Monster on top of Mister Ed. And that would remind you that you would want to then introduce your friend Ed Cook. And then you'd see an image of Britney Spears to remind you of this funny anecdote you want to tell. And you'd go into your kitchen, and the fourth topic you were going to talk about was this strange journey that you went on for a year, and you'd have some friends to help you remember that.
bạn sẽ thấy hình ảnh của Cookie Monster ngồi trên đỉnh Mister Ed. Và nó sẽ gợi nhớ chuyện bạn muốn giới thiệu người bạn Ed Cook của mình. Rồi bạn sẽ thấy hình ảnh của Britney Spears gợi bạn nhớ về câu chuyện vui bạn muốn kể. Sau đó bạn sẽ đi vào nhà bếp, chủ đề tiếp theo mà bạn sẽ nói là hành trình kỳ lạ mà bạn đã đi trong suốt một năm, và có những người bạn giúp bạn nhớ về điều đó.
This is how Roman orators memorized their speeches -- not word-for-word, which is just going to screw you up, but topic-for-topic. In fact, the phrase "topic sentence" -- that comes from the Greek word "topos," which means "place." That's a vestige of when people used to think about oratory and rhetoric in these sorts of spatial terms. The phrase "in the first place," that's like "in the first place of your memory palace."
Đây là cách mà những nhà diễn thuyết La Mã thuộc lòng các bài phát biểu của họ -- không phải từng-từ-một vì nó sẽ chỉ làm hỏng bài phát biểu của bạn mà thôi, mà là theo từng chủ đề một. Thực ra, cụm từ "topic sentence" (câu chủ đề), xuất phát từ từ "topos" trong tiếng Hy lạp có nghĩa là "nơi chốn". Đó là một vết tích từ thời con người đã từng nghĩ về diễn thuyết và hùng biện theo những khái niệm không gian này. Cụm từ "in the first place" (đầu tiên) cũng giống như nơi đầu tiên trong cung điện trí nhớ.
I thought this was just fascinating, and I got really into it. And I went to a few more of these memory contests, and I had this notion that I might write something longer about this subculture of competitive memorizers. But there was a problem. The problem was that a memory contest is a pathologically boring event.
Tôi nghĩ điều này hết sức thu hút, và tôi thực sự hứng thú với nó. Vậy nên tôi đã tìm đến thêm một vài cuộc thi trí nhớ. Tôi có ý tưởng để có thể viết dài hơn về nhóm văn hóa của những người cạnh tranh về trí nhớ này. Nhưng lại có một vấn đề. Vấn đề là một cuộc thi trí nhớ là một sự kiện nhàm chán chưa từng có.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Truly, it is like a bunch of people sitting around taking the SATs -- I mean, the most dramatic it gets is when somebody starts massaging their temples. And I'm a journalist, I need something to write about. I know that there's incredible stuff happening in these people's minds, but I don't have access to it.
Thực sự, kiểu như một nhóm người ngồi lại nói về điểm SAT ý tôi là kịch tính nhất là khi ai đó bắt đầu xoa bóp thái dương của mình. Tôi là một nhà báo, ôi cần có chuyện xảy ra để viết. Tôi biết rằng điều lạ thường đó xảy ra trong tâm trí của những người này, nhưng tôi không tiếp cận được nó.
And I realized, if I was going to tell this story, I needed to walk in their shoes a little bit. And so I started trying to spend 15 or 20 minutes every morning, before I sat down with my New York Times, just trying to remember something. Maybe it was a poem, maybe it was names from an old yearbook that I bought at a flea market. And I found that this was shockingly fun. I never would have expected that. It was fun because this is actually not about training your memory. What you're doing, is you're trying to get better and better at creating, at dreaming up, these utterly ludicrous, raunchy, hilarious, and hopefully unforgettable images in your mind's eye. And I got pretty into it.
Và tôi nhận ra rằng, nếu tôi kể lại câu chuyện này, tôi cần đặt mình trong hoàn cảnh của họ một chút, Và vì vậy tôi bắt đầu trải qua 15 rồi 20 phút mỗi buổi sáng trước khi ngồi đọc tờ New York Times của mình chỉ để có gắng nhớ về một chuyện gì đó. Có thể đó là một bài thơ. Có thể đó là những cái tên từ cuốn biên niêm giám cũ mà tôi đã mua ở một chợ trời. Và tôi thấy rằng điều này cực kỳ thú vị một cách ngạc nhiên. Tôi chưa bao giờ mong đợi như thế. Thú vị vì đây không chỉ để rèn luyện trí nhớ của bạn. Những gì bạn đang làm là bạn sẽ cố gắng tốt hơn và tốt hơn và tốt hơn trong việc sáng tạo, trong việc tưởng tượng ra nhưng hình ảnh cực kỳ buồn cười, tục tĩu, vui nhộn và hy vọng không thể nào quên trong đôi mắt của tâm trí bạn. Và tôi khá là có hứng thú với nó.
This is me wearing my standard competitive memorizer's training kit.
Đây là tôi đang mang một bộ dụng cụ rèn luyện trí nhớ dành cho những thí sinh.
(Laughter)
Đó là một cặp chụp tai chống ồn
It's a pair of earmuffs and a set of safety goggles that have been masked over except for two small pinholes, because distraction is the competitive memorizer's greatest enemy.
và một bộ kính an toàn đã được che chắn toàn bộ chỉ còn lại hai lỗ rất nhỏ để nhìn, vì sự phân tâm là kẻ thù lớn nhất của những người đi thi khả năng ghi nhớ.
I ended up coming back to that same contest that I had covered a year earlier, and I had this notion that I might enter it, sort of as an experiment in participatory journalism. It'd make, I thought, maybe a nice epilogue to all my research. Problem was, the experiment went haywire. I won the contest --
Tôi quay lại cuộc thi tương tự mà tôi đã tham dự với tư cách phóng viên một năm trước. Và tôi có ý tưởng rằng mình có thể tham gia, kiểu như một trải nghiệm khi tham gia trong ngành báo chí. Nó sẽ làm, tôi nghĩ, có thể là một phần kết đẹp cho toàn bộ các nghiên cứu của tôi. Vấn đề là cuộc thực nghiệm này trở nên rối rắm. Tôi đã thắng cuộc thi,
(Laughter)
which really wasn't supposed to happen.
điều mà thực sự không nghĩ rằng sẽ xảy ra.
(Applause)
(Vỗ tay)
Now, it is nice to be able to memorize speeches and phone numbers and shopping lists, but it's actually kind of beside the point. These are just tricks. They work because they're based on some pretty basic principles about how our brains work. And you don't have to be building memory palaces or memorizing packs of playing cards to benefit from a little bit of insight about how your mind works.
Bây giờ, thật tuyệt để có thể ghi nhớ những bài diễn thuyết số điện thoại và danh sách cần mua sắm, nhưng thực sự nó nằm bên ngoài điểm mấu chốt. Đây chỉ là những mẹo vặt. Chúng là những mẹo vặt có thể sử dụng vì chúng dựa trên một vài nguyên lý khá cơ bản liên quan đến cách mà bộ não chúng ta hoạt động. Các bạn không cần phải xây nên những cung điện trí nhớ hay ghi nhớ thứ tự các lá bài để hưởng lợi một chút xíu trong chuyện
We often talk about people with great memories
tâm trí bạn hoạt động thế nào.
as though it were some sort of an innate gift, but that is not the case. Great memories are learned. At the most basic level, we remember when we pay attention. We remember when we are deeply engaged. We remember when we are able to take a piece of information and experience, and figure out why it is meaningful to us, why it is significant, why it's colorful, when we're able to transform it in some way that makes sense in the light of all of the other things floating around in our minds, when we're able to transform Bakers into bakers.
Chúng ta hay nói về người có trí nhớ tuyệt vời như thể nó là năng khiếu bẩm sinh, nhưng không phải vậy. Những trí nhớ tuyệt vời là điều có thể học được. Ở mức độ cơ bản nhất, chúng ta nhớ khi chúng ta chú ý. Chúng ta nhớ khi chúng ta có liên quan một cách sâu sắc. Chúng ta nhớ khi chúng ta có thể nhận một mảnh thông tin và trải nghiệm và khám phá ra tại sao nó lại có ý nghĩa đối với chúng ta, tại sao nó lại quan trọng, tại sao nó lại đầy màu sắc, khi chúng ta có thể chuyển đổi nó bằng cách nào đó hợp lý - trong sự liên quan với tất cả những thứ đang trôi nổi quanh tâm trí ta, khi chúng ta có thể chuyển đổi từ Bakers thành bakers.
The memory palace, these memory techniques -- they're just shortcuts. In fact, they're not even really shortcuts. They work because they make you work. They force a kind of depth of processing, a kind of mindfulness, that most of us don't normally walk around exercising. But there actually are no shortcuts. This is how stuff is made memorable.
Cung điện trí nhớ, những kỹ thuật ghi nhớ này, chúng chỉ là những đường tắt. Thực sự, chúng thậm chí không hẳn là những đường tắt. Chúng hoạt động vì chúng khiến các bạn hoạt động. Chúng buộc bạn làm việc xử lý theo chiều sâu, kiểu như sự quan tâm thật sự, mà hầu hết chúng ta không hay tập luyện. Nhưng thực sự không có những đường tắt. Đây là cái cách mà mọi thứ được ghi nhớ.
And I think if there's one thing that I want to leave you with, it's what E.P., the amnesic who couldn't even remember he had a memory problem, left me with, which is the notion that our lives are the sum of our memories. How much are we willing to lose from our already short lives, by losing ourselves in our Blackberries, our iPhones, by not paying attention to the human being across from us who is talking with us, by being so lazy that we're not willing to process deeply?
Và tôi nghĩ nếu có một điều mà tôi muốn đọng lại trong các bạn, đó là E.P, người bị mắc chứng mất trí đến nỗi thậm chí không nhớ rằng mình có vấn đề về trí nhớ, đã làm cho tôi có suy nghĩ rằng cuộc sống của chúng ta sự tổng hợp những ký ức. Chúng ta sẵn sàng đánh mất bao nhiêu từ quãng đời ngắn ngủi đã qua của chúng ta bằng cách đánh mất bản thân trong Blackberries, iPhones thông qua việc không chú ý đến những người đang đi qua cuộc đời chúng ta những người đang trò chuyện với chúng ta, hay quá làm biếng đến nỗi chúng ta không sẵn sàng xử lý thông tin một cách sâu sắc?
I learned firsthand that there are incredible memory capacities latent in all of us. But if you want to live a memorable life, you have to be the kind of person who remembers to remember.
Tôi học được trước tiên rằng còn nhiều lắm khả năng ghi nhớ tuyệt vời tiềm ẩn trong tất cả chúng ta. Nhưng nếu bạn muốn sống một cuộc đời đáng nhớ, các bạn phải là dạng người nhớ để nhớ.
Thank you.
Cám ơn các bạn.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)