Several years ago a young man came to see me in my clinic. He told me he was running for his life. He said that he fled his home, because there, homosexuality wasn't just illegal, in some cases it was punishable by death. So when his sexual orientation was exposed, his family rejected him, his boss fired him and angry mobs repeatedly attacked him in the streets. And each time the police arrived only to arrest him, detain and torture him further. And he knew that if he couldn't escape the cycle of violence, he would surely be killed.
Vài năm trước, một thanh niên trẻ tìm tới phòng khám của tôi. Anh nói rằng anh đang trốn chạy vì tính mạng của mình. Anh rời bỏ quê hương của mình, vì ở đó, đồng tính bị coi là phạm pháp, với hình phạt nặng nhất là tử hình. Khi xu hướng tính dục của anh bị lộ ra, anh bị gia đình ruồng bỏ, bị sa thải khỏi công việc, và liên tiếp bị những đám đông hung hãn trên đường phố hành hung. Mỗi lần cảnh sát đến, họ chỉ bắt duy nhất anh, và anh càng bị tra khảo và tra tấn dữ dội. Và anh ấy biết rằng nếu không thể thoát khỏi vòng xoáy bạo lực này, đến cả tính mạng anh cũng sẽ chẳng còn.
So he had to do what he needed to do to survive. He left everything behind. All of his friends, his family, his career. He fled his home, he escaped to the United States and here he applied for asylum.
Nên anh ấy buộc phải hành động để cố gắng sống sót. Buông bỏ tất cả lại phía sau. Bạn bè, gia đình, và cả sự nghiệp. Anh trốn chạy khỏi quê nhà, tìm đến Hoa Kỳ, và xin được tị nạn ở đây.
But like many people fleeing this kind of persecution, he couldn't carry much. He had some basic ID, barely any money and a few other belongings. He certainly didn't bring official documents from the police who tortured him. No videos from the mob that tried to kill him. He didn't have this kind of evidence to help support his claims, yet here he was, sitting in my clinic, showing me some of the most powerful evidence of his persecution. That was the physical and psychological scars that he brought with him. You see, he suffered from chronic, debilitating pain. He had severe scars scattered over his body, poorly healing wounds that got infected over and over again. He suffered from severe depression and continued to have regular, paralyzing flashbacks and nightmares from PTSD.
Nhưng cũng như bao người ở vào hoàn cảnh này, anh ta chỉ mang theo chút đồ. Chỉ có vài giấy tờ tuỳ thân, một ít tiền, và những vật dụng khác. Không có bất cứ tài liệu nào từ những cảnh sát đã hành hạ anh. Không có video của đám đông cố gắng tước đoạt tính mạng anh. Chẳng có bằng chứng nào để chứng minh cho lời nói của anh ta, vậy mà anh đã xuất hiện ở phòng khám của tôi, với những bằng chứng rất rõ ràng về những gì anh ấy đã phải trải qua. Đó là những vết sẹo, cả trên thể xác và tâm hồn anh ấy phải chịu đựng với những cơn đau dai dẳng. Những vết sẹo chi chít, dày đặc khắp cơ thể, những vết thương chưa khép miệng liên tục bị tái nhiễm trùng. Anh trầm cảm nặng, liên tục gặp hồi tưởng, và những cơn ác mộng gây ra bởi rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD).
So we continued our work. We met regularly for months, documenting each of these pieces of medical evidence. We went over the details of every attack, photographed his scars, documented his injuries and wounds, and we were even able to start chronicling his slow but steady recovery while under our care. Working closely with his lawyers, I submitted a detailed affidavit, including the findings of this forensic medical evaluation, and we included it as part of his asylum application. And then we waited for several long years while he navigated the courts.
Nên chúng tôi đã bắt tay hành động. Những buổi hẹn xuyên suốt nhiều tháng, ghi chép cẩn thận từng bằng chứng y khoa. Chúng tôi ghi lại chi tiết từng vụ hành hung, chụp lại những vết sẹo, ghi chép lại mọi thương tổn, và dưới sự chăm sóc của chúng tôi, anh ấy đã dần dần, tuy chậm mà chắc, bắt đầu quá trình hồi phục. Sau khi làm việc cùng với luật sư của anh ấy, tôi đã trình lên một bản tuyên thệ, bao gồm những chứng cứ pháp y, kèm theo với đơn xin tị nạn. Và chúng tôi chờ đợi suốt nhiều năm, trong khi anh ấy đấu tranh ở toà án.
And then one day I got an email from him. It said that he was granted asylum. And everyone in the clinic was overjoyed. He said in his email that this was the first time in years that he didn't fear deportation and death. It was the first time in years that he truly felt safe, that he had the security to rebuild his life all over again. And it was only through this medical and legal advocacy that we were able to help restore his legal status and his rights, that he could do that, all through asylum.
Và rồi một ngày, anh ấy gửi email cho tôi. Anh kể rằng anh đã được nhận tị nạn. Và tất thảy mọi người đều thấy rất đỗi vui mừng. Anh còn nói đây là lần đầu tiên trong suốt nhiều năm, anh không còn cảm thấy sợ hãi việc bị trục xuất và cái chết. Lần đầu tiên trong suốt nhiều năm anh cảm thấy thực sự an toàn, có thể an tâm mà xây dựng lại cuộc đời. Thông qua trợ giúp pháp lý và hỗ trợ y tế, chúng tôi đã giúp anh ấy khôi phục lại địa vị pháp lý và quyền lợi, nhờ vào việc được chấp nhận tị nạn.
Now for many people fleeing persecution, they come to programs and clinics like this telling unimaginable tales of violence and different reasons they were persecuted. But one thing is always the same. The violence meted against them was done with complete impunity, sometimes by the hands of the state directly through police or military officials. In other cases, the state just turns a blind eye and condones the acts of paramilitary groups or even violent domestic partners. In other cases, state is completely powerless to protect the vulnerable from powerful gangs.
Với những người từng ở trong hoàn cảnh này, họ đến những nơi cung cấp dịch vụ tương tự, kể lại nỗi kinh hoàng và sự áp bức họ phải gánh chịu. Nhưng tất cả đều có một điểm chung. Những kẻ trút bạo lực lên họ hoàn toàn không bị kết tội, có thể là cảnh sát, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền, hoặc những quan chức quân đội. Trong vài trường hợp, chính quyền hoàn toàn chỉ làm ngơ trước hành động của những nhóm bán vũ trang, hoặc cả những người bạn đời có xu hướng bạo lực. Đôi khi, chính quyền tỏ ra hoàn toàn bất lực trong việc bảo vệ những người yếu thế trước những băng đảng.
Now we know that social determinants of health play a huge role in determining the health and well-being of our patients: housing, income, education, race, social inclusion. But the same can be true for equal protection in the law -- due process. Especially in societies for the most vulnerable, the marginalized and even those who are actively targeted, their access to these human rights protections that can mean the difference between sickness and health, and often it's the difference between life and death. And for millions of people who endure persecution and torture, the only way to heal is to acknowledge the human rights abuses that have occurred and to help restore the rights and protections that were so violated.
Giờ ta biết rằng các yếu tố xã hội quyết định sức khoẻ đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sức khoẻ và sự an lạc của bệnh nhân, bao gồm nhà ở, thu nhập, giáo dục, chủng tộc, và hoà nhập xã hội. Nhưng được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật theo đúng pháp luật cũng vậy. Đặc biệt trong các xã hội tồn tại những người yếu thế nhất, những người bị bỏ lại, và cả những người đang là mục tiêu bị chủ động nhắm tới, khả năng tiếp cận những sự bảo vệ nhân quyền của họ có thể quyết định sự khác biệt giữa bệnh tật và sức khỏe, và thường xuyên, là sự khác biệt giữa sống và chết. Và với hàng triệu người từng phải chịu đựng sự áp bức và bạo lực, cách duy nhất để giúp chữa lành là thừa nhận việc đã có sự lạm dụng về quyền con người, và giúp đỡ khôi phục lại những gì đã bị xâm phạm.
After the atrocities of World War II, the asylum system was set up as one pathway to that kind of relief. But these days it seems like that pathway has turned into an obstacle course, setting people up to fail. Asylum seekers oftentimes don't know how to start, let alone complete the process that can drag on for years. They're not entitled to lawyers, so they don't know their rights. Increasingly, they're even being barred from setting foot in places of potential refuge. They're arrested or prosecuted, even deported before they ever get to see an asylum officer. And even if they do make it through the process, asylum grant rates can be as low as 20 percent and far worse for some. It's almost like the system was designed to keep people from exercising their right.
Sau cơn ác mộng mang tên Thế chiến 2, hệ thống tị nạn được thiết lập, mở ra một lối thoát khỏi nỗi thống khổ ấy. Nhưng gần đây, con đường ấy đã trở nên đầy chông gai trắc trở, ngăn cản họ đạt được mục đích. Những người xin tị nạn thường bị mất phương hướng, chưa kể đến việc quy trình này có thể kéo dài hàng năm trời. Không có luật sư tư vấn, nên họ không biết về những quyền của bản thân. Thậm chí họ còn bị ngăn cản trước cả khi họ có cơ hội xin tị nạn. Họ bị bắt giữ hoặc khởi tố, thậm chí bị trục xuất, khi chưa kịp gặp nhân viên tị nạn. Và kể cả khi họ đã hoàn thành mọi thủ tục, tỉ lệ được nhận cũng chỉ vào khoảng 20%, và thậm chí còn thấp hơn ở một vài nơi. Cứ như thể hệ thống này được thiết kế để ngăn mọi người thực hiện quyền của họ.
But there is something that many of these people can do. Something that can potentially increase their chances of success to 90 percent or more. So what makes the difference? Getting a lawyer and having a medical evaluation. It's as simple as that. The man who came to my clinic and won his asylum case. Doctors and lawyers working together to present all of the evidence, including the medical evidence, to the courts allows judges to make informed and just decisions.
Nhưng họ vẫn có thể làm một thứ gì đó. Thứ mà có thể giúp tăng tỉ lệ thành công lên tới 90% hoặc hơn. Vậy thì điểm khác biệt ở đây là gì? Tìm kiếm luật sư và lấy giấy khám sức khoẻ. Chỉ đơn giản như vậy thôi. Người đàn ông tới phòng khám của tôi đã giành được quyền tị nạn. Các bác sĩ và luật sư hợp tác để cung cấp cho toà những bằng chứng, và cả những chứng cứ y học, giúp thẩm phán đưa ra những phán quyết chuẩn xác.
And it's this kind of medical-legal partnership that's now more important than ever, because we live in a time of epic, forced migration due to violence and conflict. In 2018 there were 70 million people worldwide forcibly displaced due to war, conflict and persecution. It includes 40 million internally displaced, 25 million refugees and three million asylum seekers. Here in the United States, we see the impact of escalating violence in places like El Salvador, Guatemala and Honduras, where murder rates can be as high as those in Syria and Afghanistan. Where police corruption and gang violence are on the rise, where poverty and child abuse are widespread and tolerated, where basic systems of governance -- public safety, child protection -- are ineffective.
Và giờ đây, mối quan hệ này đang dần khẳng định được tầm quan trọng, khi chúng ta đang trải qua thời đại di cư cưỡng bức bởi vì xung đột và bạo lực Năm 2018, trên toàn thế giới có khoảng 70 triệu người bị buộc di tản bởi chiến tranh, xung đột và do bị áp bức. Bao gồm 40 triệu người nội di tản, 25 triệu người di cư, và 3 triệu người tị nạn. Ngay ở Mĩ, đã có sự gia tăng tình trạng bạo lực ở các khu vực như El Salvador, Guatemala và Honduras, nơi mà tỷ lệ giết người cao ngang ngửa tỷ lệ của Syria và Afghanistan. Nơi mà cảnh sát biến chất và bạo lực băng đảng ngày càng gia tăng, vấn nạn nghèo đói và lạm dụng trẻ em ngày càng lan rộng nhưng bị làm ngơ, những hệ thống quản trị cơ bản -- an toàn công cộng, bảo vệ trẻ em -- hoàn toàn vô hiệu.
It's no surprise then that many of the most vulnerable in some of these societies -- children, women and other targeted groups -- they're growing increasingly desperate and fleeing in unprecedented numbers. Like over the past 10 years, the numbers of unaccompanied children trying to seek safety at our southwest border has increased 18-fold, from 3,300 in 2009 to over 62,000 this past year. That's in addition to nearly half a million people traveling as families. Men, women and children trying to seek refuge at our borders, but who are stranded in a humanitarian crisis.
Không hề ngạc nhiên rằng phần lớn những người dễ bị tổn thương trong các cộng đồng đó -- trẻ em, phụ nữ và vài nhóm khác -- đang ngày càng trở nên tuyệt vọng và số người trốn chạy ngày càng tăng lên. Trong vòng 10 năm qua, số trẻ không có người giám hộ cố gắng vượt qua biên giới Tây Nam đã tăng 18 lần, từ 3300 trẻ năm 2009 lên tới hơn 62.000 trẻ em trong năm ngoái. Ngoài ra còn có thêm gần 500.000 người đi cùng với gia đình. Những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em cố gắng tìm chỗ trú ẩn nơi biên giới, nhưng lại bị mắc kẹt trong một cuộc khủng hoảng nhân đạo.
And what makes matters worse is that they're caught in this fog of claims and counterclaims about who they are, what they've experienced, where the proof is and what they deserve. Do they deserve our help? Sometimes people make claims that they're not fleeing human rights abuses but are simply economic migrants. Others say these children are actually being exploited and trafficked by their parents. Others say they're not even children at all; they're hardened criminals, they're gang members trying to infiltrate our country.
Tồi tệ hơn, họ bị vướng vào mớ bòng bong phải chứng minh họ là ai, đã phải trải qua những gì, đưa ra bằng chứng, và họ xứng đáng được gì. Họ có đáng được giúp đỡ không? Có người khẳng định họ không trốn chạy vì bị lạm dụng mà chỉ di cư vì mục đích kinh tế. Người khác cho rằng cha mẹ của những đứa trẻ đang buôn bán và lợi dụng chúng. Cũng có người nói chúng không phải trẻ em; mà là tội phạm lão làng, là thành viên băng đảng đang cố xâm nhập vào trong nước.
To cut through some of this fog, my colleagues and I conducted a study. We looked at data from children seeking asylum who had medical evaluations. And this is what the evidence told us. 80 percent of these children had evidence of exposure to repeated physical violence: assault and torture. 60 percent of the girls and at least 10 percent of the boys had evidence of repeated exposure to sexual violence. One young girl, telling a story and having corroborating evidence of being detained, beaten and raped over the course of three years, trafficked to other men and even having the threats of the murder of her entire family if she should ever escape or try to seek help. 90 percent of these children had evidence of psychological harm from indirect violence, including such severe threats, but also witnessing untold atrocities with their very eyes.
Để giúp gỡ rối mớ bòng bong này, tôi và các đồng nghiệp đã thực hiện một nghiên cứu. Chúng tôi đã nghiên cứu hồ sơ y tế của những đứa trẻ xin tị nạn. Và đây là những thứ chúng tôi rút ra được. 80% trong số đó từng bị bạo hành về thể xác: bị đánh đập và tra tấn. 60% số trẻ nữ và ít nhất 10% trẻ nam từng liên tục bị bạo lực tình dục. Một cô bé đã kể lại câu chuyện và có những chứng cứ xác thực về việc bị giam giữ, đánh đập và hãm hiếp trong suốt ba năm, bị bán cho những gã đàn ông khác, thậm chí bị đe doạ cả gia đình sẽ bị sát hại nếu cô cố trốn thoát hoặc tìm sự trợ giúp. 90% số trẻ chịu tổn thương tinh thần do bạo lực gián tiếp, không chỉ từ những mối đe doạ mà còn do phải tận mắt chứng kiến những cơn ác mộng kinh hoàng.
One young boy described the terror and the grief and the utter fear of seeing the mutilated bodies and faces of his younger brother, his aunt, his uncle, his cousin, all killed in a single gang attack meant to send the community a message.
Một cậu bé đã kể lại nỗi kinh hoàng và sợ hãi khi phải chứng kiến khuôn mặt và thi thể không còn lành lặn của cậu em trai, chú, dì, họ hàng, tất cả đều bị sát hại trong cuộc tấn công nhằm gửi đi một thông điệp tới cộng đồng.
And of course the psychological toll is immense. 19 percent of these children had signs of anxiety disorder; 41 percent, depression and 64 percent, PTSD. 21 percent also had signs of suicidality as children. To put this into some perspective, returning combat veterans, they have PTSD on the order of 10 to 20 percent. These children at three to six times more likely to have PTSD than a soldier returning from war.
Và hậu quả tâm lý là rất nặng nề. 19% có biểu hiện rối loạn lo âu, 41% bị trầm cảm, và rối loạn căng thẳng sau sang chấn, 61%. 21% bộc lộ dấu hiệu tự tử khi còn trẻ. Trong khi đó, tỉ lệ mắc ở các cựu binh ở vào khoảng 10% đến 20%. Những đứa trẻ này dễ dàng bị mắc chứng rối loạn hơn từ 3 đến 6 lần so với một cựu binh hậu chiến tranh.
Now despite this burden and despite this trauma, there are many others, still. Children who come to seek safety and enter into our immigration system only to find further abuse and even torture reminiscent of the places that they fled. You might remember some of those headlines, some of those images this past year. Children being ripped from the arms of their parents. Toddlers, infants in cold and unsanitary cages. The absence of food, water clothing and even soap. There's also increasing reports of medical negligence, preventable complications, child abuse, sexual abuse and even child deaths in US custody. Sadly, many of these abuses and crimes aren't new. Some date back many years and even across administrations. But something's changed. The scope and scale of these abuses and crimes, the systematic and seemingly purposeful endangerment of asylum seekers and also the impunity with which it's being done has raised the harm to an entirely new level.
Dù vậy, đây vẫn chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Những đứa trẻ kiếm tìm sự an toàn bằng hệ thống nhập cư lại tiếp tục bị lạm dụng và bạo hành, gợi nhắc lại cái nơi mà chúng cố gắng thoát khỏi. Có lẽ mọi người vẫn còn nhớ những tiêu đề, những hình ảnh hồi năm ngoái. Những đứa trẻ bị tước đoạt khỏi vòng tay cha mẹ, trẻ sơ sinh phải nằm trong những cái cũi lạnh lẽo và không đảm bảo vệ sinh, thiếu thốn thực phẩm, nước, quần áo và thậm chí cả xà phòng. Đã có nhiều báo cáo về tình trạng thiếu sự chăm sóc y tế, các biến chứng có thể ngăn ngừa, lạm dụng trẻ em, lạm dụng tình dục và cả tình trạng trẻ em tử vong trong khi chịu sự quản lý của Mĩ. Đáng buồn là, đây không còn là hiện tượng mới mẻ. Một số đã diễn ra trước đó vài năm và xuyên suốt các đời tổng thống. Nhưng có điều gì đó đã thay đổi. Quy mô của những tội ác này, việc đẩy những người di cư vào nguy hiểm một cách cố ý và có hệ thống và che giấu trắng trợn các hành động đó đã khiến độ nguy hiểm tăng lên rất cao.
It reminds me of one of the girls in the study who told us how she pleaded with one of her attackers, asking him to stop, asking why she was targeted. And do you what his response was? He says, "We can do this, because there's no one here to protect you."
Tôi vẫn nhớ câu chuyện của một cô gái, cái cách mà cô cầu xin kẻ đã tấn công cô, van nài hắn ngừng lại, hỏi hắn tại sao lại nhắm đến cô. Và các bạn có biết gã đã nói gì không? “Bọn tao làm vậy, vì chẳng ai ở nơi này bảo vệ cho mày đâu.”
We can't let this be true of children and other asylum seekers trying to find help at our borders. But what do we do? As a physician, I'm often dealing with difficult decisions with some of my sickest and most complex patients. Of course we want to keep our focus on their health, their well-being, their quality of life, but sometimes it requires a deeper exploration of their values to really understand how to move forward. In a similar way, our nation is facing a crisis with the increasing number of asylum seekers at our borders and in our communities, and it compels us to re-examine some of our own fundamental values.
Không thể để việc này xảy đến với những đứa trẻ và những người xin tị nạn phía nơi biên giới. Nhưng chúng ta phải làm gì? Là một bác sĩ, tôi thường phải đưa ra các quyết định khó khăn khi chữa trị cho những bệnh nhân nặng. Đương nhiên, chúng tôi luôn để ý đến sức khoẻ và chất lượng sống của bệnh nhân, nhưng đôi khi ta cũng cần phải hiểu được những gì họ trân trọng để có thể tiếp tục tiến bước. Tương tự thì, chúng ta đang trải qua cuộc khủng hoảng khi lượng người xin tị nạn ở biên giới và trong cộng đồng gia tăng, buộc ta xét lại một vài giá trị nền tảng.
What does it mean when we value health and safety? What does it mean when we value security, life, liberty, the life of children? What about this one -- what does it mean when we say we value law and order? Does that also include respecting due process rights for an asylum seeker?
Như thế nào là đề cao an toàn và sức khoẻ? Như nào là đề cao an ninh, cuộc đời, sự tự do, tính mạng của trẻ em? Và còn, như nào là đề cao việc trị an? Việc đó có bao gồm tôn trọng quyền của người xin tị nạn không?
Now for some, when they hear these terms they immediately gravitate towards wanting to build more walls, deploying more border patrol, deporting more people even if it means separating children from their families, subjecting them to psychological torture or deporting them to places where they might die. All in the name of security. All in our name.
Có những người khi nghe đến điều này họ liền ủng hộ việc xây thêm tường, điều động tuần tra biên giới, tăng tống xuất người nhập cư dù làm vậy là tách trẻ em khỏi gia đình, bắt họ phải chịu tổn thương tinh thần hoặc đưa họ đến những nơi có thể khiến họ thiệt mạng, Tất cả được dán nhãn đảm bảo an ninh trật tự dưới danh nghĩa của chúng ta.
But for me and for many others, when I think of these values, that pushes me in an entirely new direction and renews my commitment to try to meet the needs of these asylum seekers with every tool I have at my disposal. So that when we say that we value life and liberty, we'll see these people who have taken unimaginable risks to flee imminent danger and harm to try to find safety. We'll meet them where they are and provide food, water, shelter, clothing. And we'll certainly meet them with medical care and mental health care that they so desperately need. When we say that we value the rule of law, and not just the privileges it provides a few but the responsibilities it requires of all of us, we'll make sure that we have a functioning immigration system. We'll make sure that we have trained judges. We'll make sure that we're not settling for the illusion of law and order that maybe a tall wall or a militarized border might provide us. We want the real thing. We want judges to be able to evaluate the evidence, including the medical evidence, and we want them to administer justice ... fairly.
Nhưng với tôi và nhiều người khác, nghĩ về giá trị của họ thúc đẩy tôi đến con đường hoàn toàn mới và tiếp thêm động lực để giúp đỡ họ bằng tất cả những gì mà tôi có. Vậy nên khi nói rằng ta trân trọng cuộc sống và sự tự do, ta sẽ thấy những con người sẵn sàng chấp nhận rủi ro để trốn chạy khỏi hiểm nguy, để tìm đến nơi được an toàn. Chúng ta sẽ giúp đỡ họ và cung cấp thực phẩm, nước, một mái nhà, và quần áo. Và chăm sóc cả về thể chất và tinh thần, thứ mà họ đang rất thiếu thốn. Khi ta nói rằng ta đề cao luật pháp, không chỉ những quyền lợi của thiểu số mà còn cả là trách nhiệm của mỗi chúng ta, để tạo nên hệ thống nhập cư hoàn chỉnh. Ta sẽ có những thẩm phán có đủ trình độ. Ta sẽ không chìm vào ảo mộng pháp trị được dựng nên bởi những bức tường hay bởi việc quân sự hóa biên giới. Chúng ta muốn những thứ chân thật. Ta muốn các thẩm phán đánh giá các bằng chứng bao gồm cả chứng cứ y tế và ta mong muốn họ đưa ra những phán quyết công bằng.
When we say that we value health and well-being, that we don't want to perpetuate harm, then we'll deploy trauma-informed strategies at all levels of the immigration system. It might start with retraining border patrol agents or immigration officials, but it needs more medical, mental health and child welfare experts across the whole system.
Khi chúng ta nói rằng ta đề cao sức khỏe, rằng ta không muốn dung dưỡng mối nguy, ta sẽ kích hoạt các chiến dịch tăng nhận thức về chấn thương ở mọi cấp độ của hệ thống di cư. Sẽ bắt đầu bằng việc tái huấn luyện lính biên phòng hoặc cán bộ di cư, nhưng vẫn cần phải có chuyên gia y tế, chuyên gia sức khỏe tâm thần và chuyên gia về quyền trẻ em.
And when we say that we value justice, we won't let ourselves be turned into the torturers that many of these children and other people fled. We'll open up our detention centers and our courts to experts and advocates to hold ourselves accountable. And we may find that we need to shut down most of them and close these camps.
Và khi ta nói rằng ta đề cao công lý, ta sẽ không tự biến mình thành cơn ác mộng mà những đứa trẻ và những người kia đang cố chạy thoát khỏi. Ta sẽ tập trung vào các trung tâm trại giam và tòa án cùng các chuyên gia và người ủng hộ để chúng ta trở nên có trách nhiệm hơn. Và có lẽ ta sẽ phải đóng cửa những trung tâm đó và đóng cả những trại tập trung.
I believe that by working in effective partnerships with lawyers, doctors, human rights advocates and many others, that we can work together to meet these asylum seekers' needs, that we can meet our historical, humanitarian and legal obligations to them. And when we do, I think something powerful will unfold. Not only will these asylum seekers -- like the man who came to my clinic and won his asylum case, like the children in the study or the many thousands of others seeking a new life, they'll be able to find that safety and security. We'll recognize the abuses that have occurred, and we'll restore the rights and protections that were lost. And I think that we'll be in wonder when we see them in the fullness of their humanity. Not just their strengths and weaknesses, their hopes and joys, not just the trauma that we acknowledge, but we'll also stand with them and we'll be inspired by their resilience. They'll blossom, and they'll add to the richness of this nation.
Tôi tin rằng nếu các luật sư, các bác sĩ, nhà hoạt động nhân quyền và nhiều hơn nữa, cùng hợp tác với nhau, ta sẽ đáp ứng được nhu cầu của những người xin tị nạn, ta sẽ đạt được trách nhiệm lịch sử, nhân quyền, và cả pháp lý đối với họ. Và khi đó, sẽ có một phép màu xảy ra. Không chỉ những người xin tị nạn này, như người đàn ông đến phòng khám của tôi và thắng kiện xin tị nạn, như tụi trẻ trong nghiên cứu, hay hàng ngàn người khác đang tìm kiếm một cuộc sống mới, họ sẽ có thể tìm thấy sụ an toàn và đảm bảo an ninh ấy. Ta sẽ nhận ra vết tích của sự lạm dụng, và khôi phục lại quyền và các biện pháp bảo vệ đã bị mất. Và ta sẽ tự hỏi họ trông như thế nào khi được đứng dưới lăng kính của sự nhân văn đúng nghĩa. Không chỉ thế mạnh và điểm yếu, niềm vui và hy vọng, không chỉ là những đau thương, mà chúng ta sẽ ở bên họ, và được truyền cảm hứng bởi sự bền bỉ. Họ sẽ như bông hoa bung nở, góp phần làm đất nước càng thêm giàu mạnh.
I think by staying true to our fundamental values in the way that I've described, that's how we build a sane and humane immigration system. That's how we remain the golden door. And that's how it happens that we remain the shining light of the world.
Tôi nghĩ bằng cách sống đúng với những giá trị cốt lõi theo như tôi mô tả, ta sẽ tạo nên một hệ thống nhập cư đúng đắn và có tình người. Đó là cách mà ta giữ cho cánh cửa cơ hội luôn rộng mở. Và đó là cái cách mà ta giữ cho niềm tin tốt đẹp vào thế giới này còn mãi.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)