The conventional wisdom about our world today is that this is a time of terrible decline. And that's not surprising, given the bad news all around us, from ISIS to inequality, political dysfunction, climate change, Brexit, and on and on. But here's the thing, and this may sound a little weird. I actually don't buy this gloomy narrative, and I don't think you should either. Look, it's not that I don't see the problems. I read the same headlines that you do. What I dispute is the conclusion that so many people draw from them, namely that we're all screwed because the problems are unsolvable and our governments are useless.
Kiến thức thông thường về thế giới hiện nay cho thấy bây giờ là thời điểm của sự tuột dốc trầm trọng. Và không gì ngạc nhiên, khi những tin xấu quanh chúng ta, từ ISIS tới sự bất bình đẳng, căng thẳng chính trị, biến đổi khí hậu, Brexit, và vân vân. Nhưng đó là vấn đề, và nghe có vẻ hơi kỳ lạ. Tôi thật sự không mua bản tường thuật u sầu như này, và tôi nghĩ bạn cũng không. Nhưng không phải là tôi không nhìn thấy những vấn đề. Tôi cũng đọc tin tức như các bạn. Điều khiến tôi mâu thuẫn là kết luận mà rất nhiều người đưa ra từ các tin đó, cụ thể là chúng ta đều quá ảo tưởng bởi vì các vấn đề vẫn chưa thể giải quyết và chính phủ của chúng ta thì bất lực.
Now, why do I say this? It's not like I'm particularly optimistic by nature. But something about the media's constant doom-mongering with its fixation on problems and not on answers has always really bugged me.
Tại sao tôi lại nói vậy? Tôi không phải là một người lạc quan. Nhưng truyền thông cố gắng chỉ trích các thương vụ buôn bán bằng những quy kết ấn định và không đưa ra câu trả lời tôi luôn bực dọc về điều ấy.
So a few years ago I decided, well, I'm a journalist, I should see if I can do any better by going around the world and actually asking folks if and how they've tackled their big economic and political challenges. And what I found astonished me. It turns out that there are remarkable signs of progress out there, often in the most unexpected places, and they've convinced me that our great global challenges may not be so unsolvable after all. Not only are there theoretical fixes; those fixes have been tried. They've worked. And they offer hope for the rest of us.
Vì thế, vài năm trước tôi đã quyết định trở thành một nhà báo, tôi thử xem mình có thể làm tốt hơn không bằng cách đi vòng quanh thế giới và hỏi người dân về cách thức họ đã xử lý những thách thức lớn về kinh tế lẫn chính trị. Và điều khiến tôi ngạc nhiên. Đó là hóa ra có rất nhiều dấu hiệu đáng chú ý của sự tiến bộ ngoài xã hội, thường xảy ra ở những nơi ít ngờ tới đến nhất, và chúng khiến tôi tin rằng những thách thức toàn cầu hiện nay có lẽ không phải là không thể giải quyết. Không chỉ dựa vào các giải pháp trên lý thuyết; mà các giải pháp này đều đã được thử nghiệm. Chúng có vẻ hiệu quả. Và chúng khiến chúng ta có hy vọng.
I'm going to show you what I mean by telling you about how three of the countries I visited -- Canada, Indonesia and Mexico -- overcame three supposedly impossible problems. Their stories matter because they contain tools the rest of us can use, and not just for those particular problems, but for many others, too.
Và tôi sẽ chỉ cho các bạn thấy bằng cách kể về 3 quốc gia mà tôi đã ghé qua Canada, Indonesia và Mexico các quốc gia đó đã vượt 3 vấn đề được cho là không thể giải quyết. Câu chuyện của họ đáng quan tâm vì nó chứa những công cụ mà ta có thể dùng, và không chỉ đối với các vấn đề cụ thể và còn cho nhiều điều khác.
When most people think about my homeland, Canada, today, if they think about Canada at all, they think cold, they think boring, they think polite. They think we say "sorry" too much in our funny accents. And that's all true.
Những gì mà mọi người nghĩ về quê hương Canada của tôi hiện nay, nếu họ nghĩ về Canada, họ nghĩ nó lạnh, buồn tẻ, người Canada khá lịch thiệp. Họ cho rằng chúng tôi luôn nói "xin lỗi" bằng giọng buồn cười. Đó hoàn toàn là sự thật.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Sorry.
Xin lỗi.
(Laughter)
(Tiếng cười)
But Canada's also important because of its triumph over a problem currently tearing many other countries apart: immigration. Consider, Canada today is among the world's most welcoming nations, even compared to other immigration-friendly countries. Its per capita immigration rate is four times higher than France's, and its percentage of foreign-born residents is double that of Sweden. Meanwhile, Canada admitted 10 times more Syrian refugees in the last year than did the United States.
Nhưng Canada cũng rất quan trọng bởi vì thắng lợi của Canada qua một vấn đề hiện đang gây chia rẽ ở rất nhiều nước trên thế giới: vấn đề nhập cư. Canada ngày nay là một trong các nước chào đón người nhập cư nhiều nhất, thậm chí khi so sánh với các quốc gia thân thiện với dân nhập cư khác. Tỷ lệ nhập cư của Canada cao hơn Pháp 4 lần, và tỷ lệ công dân nước ngoài được sinh ra cũng cao gấp đôi của Thụy Điển. Trong khi, Canada tự nhận họ nhận dân tị nạn Syrian nhiều gấp 10 lần năm ngoái so với Mỹ.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)
And now Canada is taking even more. And yet, if you ask Canadians what makes them proudest of their country, they rank "multiculturalism," a dirty word in most places, second, ahead of hockey. Hockey.
Và bây giờ Canada nhận thêm nhiều người hơn. Tuy nhiên, nếu bạn hỏi người Canada điều gì làm cho họ tự hào nhất về đất nước mình, họ sẽ nói rằng đó là "sự đa văn hóa" một từ đáng khinh tại hầu hết các nơi, thứ hai, hơn cả "Hockey". Hockey.
(Laughter)
(Tiếng cười)
In other words, at a time when other countries are now frantically building new barriers to keep foreigners out, Canadians want even more of them in.
Nói cách khác, khi các quốc gia khác đang điên cuồng xây dựng rào chắn để ngăn người nhập cư, Canada lại muốn mở rộng cửa đón họ vào.
Now, here's the really interesting part. Canada wasn't always like this. Until the mid-1960s, Canada followed an explicitly racist immigration policy. They called it "White Canada," and as you can see, they were not just talking about the snow.
Và đây là thật sự là một điều thú vị. Canada không phải lúc nào cũng như vậy. Đến giữa thập niên 60, Canada theo chính sách phân biệt chủng tộc dân nhập cư Họ gọi đó là "Canada Trắng" và như bạn có thể thấy, họ không chỉ nói về tuyết.
So how did that Canada become today's Canada? Well, despite what my mom in Ontario will tell you, the answer had nothing to do with virtue. Canadians are not inherently better than anyone else. The real explanation involves the man who became Canada's leader in 1968, Pierre Trudeau, who is also the father of the current prime minister.
Vậy điều gì đã thay đổi Canada như ngày hôm nay? Dù mẹ tôi ở Ontario có thể nói với bạn điều gì đó, câu trả lời chẳng liên quan gì đến đức hạnh. Người Canada vốn không phải tốt hơn những người khác. Lời giải thích thực sự liên quan đến người đàn ông từng là lãnh đạo Canada năm 1968, Pierre Trudeau, người là cha đẻ của thủ tướng hiện nay.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)
The thing to know about that first Trudeau is that he was very different from Canada's previous leaders. He was a French speaker in a country long-dominated by its English elite. He was an intellectual. He was even kind of groovy. I mean, seriously, the guy did yoga. He hung out with the Beatles.
Điều chúng ta cần biết đầu tiên về Trudeau là ông rất khác so với các vị lãnh đạo trước. Ông là một người Pháp tại một nước bị cai trị lâu năm bởi bộ phận người Anh. Ông ấy là người có trí tuệ. Thậm chí ông ấy cũng rất biết cách ăn mặc. Ý tôi là, thật đấy, ông ấy còn tập Yoga. Ông ấy vui chơi cùng The Beatles.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And like all hipsters, he could be infuriating at times. But he nevertheless pulled off one of the most progressive transformations any country has ever seen. His formula, I've learned, involved two parts. First, Canada threw out its old race-based immigration rules, and it replaced them with new color-blind ones that emphasized education, experience and language skills instead. And what that did was greatly increase the odds that newcomers would contribute to the economy. Then part two, Trudeau created the world's first policy of official multiculturalism to promote integration and the idea that diversity was the key to Canada's identity.
Và như những người mê nhạc jazz, ông có thể nổi cáu bất cứ lúc nào. Nhưng ông ấy tạo ra một trong các thay đổi tiến bộ nhất chưa từng xảy ra tại bất cứ quốc gia nào. Cách thức của ông ấy, theo tôi hiểu, gồm hai phần. Thứ nhất, Canada loại bỏ các quy định nhập cư dựa theo sắc tộc lỗi thời, và thay thế chúng bằng các chính sách "mù màu" đa dạng hơn chú trọng vào giáo dục, kinh nghiệm và các kỹ năng ngôn ngữ. Và những điều đó sẽ làm tăng lên cơ hội cho người mới đóng góp cho nền kinh tế nước nhà. Phần thứ hai, Trudeau tạo ra chính sách đầu tiên trên thế giới về sự đa dạng văn hóa để thúc đẩy hội nhập và ý tưởng rằng sự đa dạng là chìa khóa cho đặc tính của Canada.
Now, in the years that followed, Ottawa kept pushing this message, but at the same time, ordinary Canadians soon started to see the economic, the material benefits of multiculturalism all around them. And these two influences soon combined to create the passionately open-minded Canada of today.
Và nhiều năm sau đó, Ottawa đã tiếp tục đẩy mạnh thông điệp này, nhưng cùng thời điểm đó, người Canada đã sớm nhận ra sự thay đổi trong nền kinh tế, những lợi ích thiết thực của sự đa văn hóa ở xung quanh họ. Và những ảnh hưởng tích cực này đã nhanh chóng kết hợp tạo ra đất nước Canada với tư tưởng phóng khoáng như ngày hôm nay.
Let's now turn to another country and an even tougher problem, Islamic extremism. In 1998, the people of Indonesia took to the streets and overthrew their longtime dictator, Suharto. It was an amazing moment, but it was also a scary one. With 250 million people, Indonesia is the largest Muslim-majority country on Earth. It's also hot, huge and unruly, made up of 17,000 islands, where people speak close to a thousand languages. Now, Suharto had been a dictator, and a nasty one. But he'd also been a pretty effective tyrant, and he'd always been careful to keep religion out of politics. So experts feared that without him keeping a lid on things, the country would explode, or religious extremists would take over and turn Indonesia into a tropical version of Iran. And that's just what seemed to happen at first. In the country's first free elections, in 1999, Islamist parties scored 36 percent of the vote, and the islands burned as riots and terror attacks killed thousands.
Chúng ta hãy nhìn sang một đất nước khác, và một vấn đề khác nhạy cảm hơn, Hồi giáo cực đoan. Năm 1998, người dân Indonesia đã xuống đường và lật đổ kẻ độc tài lâu năm, Suharto. Đó là một giây phút kinh ngạc, nhưng cũng đáng sợ vô cùng. Với 250 triệu người, Indonesia là đất nước có cộng đồng người Hồi Giáo đông nhất trên thế giới. Là nơi khá nóng, diện tích lớn và khó kiểm soát, với hơn 17,000 hòn đảo, nơi mà mọi người nói gần 1000 ngôn ngữ. Hiện tại thì, Suharto đã từng là một kẻ độc tài, một kẻ độc ác. Nhưng ông ấy cũng là kẻ bạo chúa có sức ảnh hưởng, ông luôn cẩn trọng trong việc giữ tôn giáo ra khỏi chính trị. Vì vậy các chuyên gia lo sợ nếu ông ấy không kiểm soát tốt sự tách biệt đó, thì có thể Indonesia đã tan vỡ, hoặc nhóm cực đoan sẽ chiếm sự kiểm soát và khiến Indonesia thành một "phiên bản nhiệt đới của Iran" Và đó có vẻ là chính xác những gì đã xảy ra đầu tiên. Trong kỳ tuyển cử đầu tiên của Indonesia vào năm 1999, các đảng Hồi giáo đã đạt được 36% phiếu bầu, và những hòn đảo phải gánh chịu các cuộc nổi loạn và tấn công khủng bố giết chết hàng nghìn người.
Since then, however, Indonesia has taken a surprising turn. While ordinary folks have grown more pious on a personal level -- I saw a lot more headscarves on a recent visit than I would have a decade ago -- the country's politics have moved in the opposite direction. Indonesia is now a pretty decent democracy. And yet, its Islamist parties have steadily lost support, from a high of about 38 percent in 2004 down to 25 percent in 2014. As for terrorism, it's now extremely rare. And while a few Indonesians have recently joined ISIS, their number is tiny, far fewer in per capita terms than the number of Belgians. Try to think of one other Muslim-majority country that can say all those same things.
Tuy nhiên, kể từ đó Indonesia đã thay đổi ngoạn mục. Khi người dân trở nên sùng đạo hơn ở cấp độ cá nhân Tôi đã thấy nhiều người mang khăn trùm đầu hơn so với 1 thập kỷ trước-- tình hình chính trị của đất nước đã chuyển sang theo hướng trái ngược. Indonesia hiện nay là một nước dân chủ khá khuôn khép. Tuy nhiên, các đảng Hồi giáo cũng sụt giảm dần lượng ủng hộ, từ mức 38% năm 2004 xuống 25% năm 2014 Như các vụ khủng bố, cũng xảy ra ít hơn. Và trong khi một vài người Indonesia gần đây đã gia nhập vào ISIS, thì số lượng cũng khá nhỏ tỷ lệ đầu người ít hơn nhiều so với Bỉ. Hãy nghĩ tới một đất nước cộng đồng hồi giáo khác có thể nói những điều tương tự.
In 2014, I went to Indonesia to ask its current president, a soft-spoken technocrat named Joko Widodo, "Why is Indonesia thriving when so many other Muslim states are dying?"
Năm 2014, tôi đến Indonesia hỏi vị tổng thống hiện nay, một chuyên gia kỹ thuật có tên là Joko Widodo, "Tại sao Indonesia lại thịnh vượng khi rất nhiều nước hồi giáo khác đang lụi tàn?"
"Well, what we realized," he told me, "is that to deal with extremism, we needed to deal with inequality first."
"Những gì chúng tôi nhận ra", ông nói, "là, để đương đầu với chủ nghĩa cực đoan. chúng tôi cần xử lý bất bình đẳng trước."
See, Indonesia's religious parties, like similar parties elsewhere, had tended to focus on things like reducing poverty and cutting corruption. So that's what Joko and his predecessors did too, thereby stealing the Islamists' thunder. They also cracked down hard on terrorism, but Indonesia's democrats have learned a key lesson from the dark years of dictatorship, namely that repression only creates more extremism. So they waged their war with extraordinary delicacy. They used the police instead of the army. They only detained suspects if they had enough evidence. They held public trials. They even sent liberal imams into the jails to persuade the jihadists that terror is un-Islamic. And all of this paid off in spectacular fashion, creating the kind of country that was unimaginable 20 years ago.
Các đảng phái của Indonesia, như các đảng phái ở những nơi khác, đều cố gắng tập trung vào các vấn đề như giảm đói nghèo và chống tham nhũng. Nên đó là những gì Joko và những người đi trước đã làm, bằng cách xóa bỏ sự đe dọa của Hồi giáo. Họ đàn áp mạnh tay với khủng bố, nhưng đảng dân chủ Indonesia cũng đã nhận ra bài học từ những thời kì đen tối của sự độc tài, cụ thể là, sự đàn áp chỉ làm gia tăng chủ nghĩa cực đoan hơn. Vì vậy, họ đã tiến hành chiến tranh với sự khéo léo đặc biệt. Họ sử dụng cảnh sát thay vì quân đội. Họ chỉ giam giữ ai đó khi có đủ bằng chứng Tổ chức các phiên tòa công khai. Họ còn cử các lãnh tụ Hồi giáo vào các nhà tù để thuyết phục kẻ thánh chiến rằng khủng bố là không Hồi giáo. Và tất cả những nỗ lực trên cũng đã được đền đáp xứng đáng, khi tạo ra một đất nước không thể tưởng được so với 20 năm về trước.
So at this point, my optimism should, I hope, be starting to make a bit more sense. Neither immigration nor Islamic extremism are impossible to deal with. Join me now on one last trip, this time to Mexico. Now, of our three stories, this one probably surprised me the most, since as you all know, the country is still struggling with so many problems. And yet, a few years ago, Mexico did something that many other countries from France to India to the United States can still only dream of. It shattered the political paralysis that had gripped it for years.
Và qua ví dụ này, tôi hy vọng, tính lạc quan của tôi, sẽ bắt đầu làm rõ hơn. Vấn đề nhập cư hay chủ nghĩa hồi giáo không phải bất khả thi để giải quyết. Giờ hãy theo tôi đến chuyến đi cuối cùng, đó là Mexico. Trong cả 3 câu chuyện, chuyện này có lẽ làm tôi ngạc nhiên nhất, khi các bạn cũng biết, đất nước vẫn đang mắc kẹt với rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, vài năm trước đây, Mexico đã làm điều mà nhiều quốc gia khác từ Pháp, Ấn Độ hay cả Mỹ chỉ có thể mơ đến. Nó phá vỡ sự tê liệt chính trị đã áp bức trong suốt thời gian dài
To understand how, we need to rewind to the year 2000, when Mexico finally became a democracy. Rather than use their new freedoms to fight for reform, Mexico's politicians used them to fight one another. Congress deadlocked, and the country's problems -- drugs, poverty, crime, corruption -- spun out of control. Things got so bad that in 2008, the Pentagon warned that Mexico risked collapse.
Để hiểu được điều đó, chúng ta cần trở lại thời gian năm 2000, khi Mexcico cuối cùng cũng trở thành nước dân chủ. Thay vì sử dụng sự tự do mới để đấu tranh cải cách, Các nhà chính trị Mexico đã dùng nó để giải quyết vấn đề khác. Quốc hội bế tắc, và các vấn đề của đất nước -- thuốc phiện, nghèo đói, tội phạm, tham nhũng -- xoay khỏi tầm kiểm soát. Mọi chuyện trở nên tệ đi vào năm 2008, Lầu Năm Góc cảnh báo rằng Mexico có nguy cơ bị sụp đổ.
Then in 2012, this guy named Enrique Peña Nieto somehow got himself elected president. Now, this Peña hardly inspired much confidence at first. Sure, he was handsome, but he came from Mexico's corrupt old ruling party, the PRI, and he was a notorious womanizer. In fact, he seemed like such a pretty boy lightweight that women called him "bombón," sweetie, at campaign rallies. And yet this same bombón soon surprised everyone by hammering out a truce between the country's three warring political parties. And over the next 18 months, they together passed an incredibly comprehensive set of reforms. They busted open Mexico's smothering monopolies. They liberalized its rusting energy sector. They restructured its failing schools, and much more. To appreciate the scale of this accomplishment, try to imagine the US Congress passing immigration reform, campaign finance reform and banking reform. Now, try to imagine Congress doing it all at the same time. That's what Mexico did.
Đến 2012, một người tên Enrique Pena Nieto bằng cách nào đó ông được bầu làm tổng thống. Trước hết, Pena hầu như không lấy cảm hứng nhiều từ sự tự tin của ông ấy. Chắc chắn, ông ấy đẹp trai nhưng ông bước ra từ đảng mục nát Mexico trong thời gian lãnh đạo, PRI, và ông ta nổi danh vì sự lăng nhăng của mình. Thực tế, ông ấy trông như một anh chàng dễ thương thấp bé nhẹ cân nên phụ nữ thường gọi ông ấy là "bombon", cưng, trong chiến dịch tranh cử. Tuy nhiên "bombon" này đã sớm làm mọi người ngạc nhiên bởi đưa ra lệnh ngừng bắn giữa ba đảng phái mâu thuẫn chính trị của đất nước. Và trong 18 tháng tiếp theo, họ cùng nhau trải qua một sự cải cách toàn diện đáng kinh ngạc. Họ đã phá vỡ sự xuất hiện các mầm mống độc quyền âm ỉ ở Mexico. Họ tự do hóa lĩnh vực năng lượng gỉ. Họ tái cấu trúc từ trường học đến nhiều thứ khác. Để đánh giá mức thành tựu cải cách này, hãy cố gắng tưởng tượng quốc hội Hoa kỳ thông qua việc cải cách vấn đề nhập cư, vận động cải cách tài chính và ngân hàng. Bây giờ, hãy tưởng tượng Quốc hội đang làm điều đó cùng một thời điểm. Đó là điều Mexico đã làm.
Not long ago, I met with Peña and asked how he managed it all. The President flashed me his famous twinkly smile --
Không lâu trước đây, tôi đã gặp Pena và hỏi ông đã quản lý nó như nào. Tổng thống chiếu rọi tôi với nụ cười đầy hào quang của ông --
(Laughter)
(Tiếng cười)
and told me that the short answer was "compromiso," compromise. Of course, I pushed him for details, and the long answer that came out was essentially "compromise, compromise and more compromise." See, Peña knew that he needed to build trust early, so he started talking to the opposition just days after his election. To ward off pressure from special interests, he kept their meetings small and secret, and many of the participants later told me that it was this intimacy, plus a lot of shared tequila, that helped build confidence. So did the fact that all decisions had to be unanimous, and that Peña even agreed to pass some of the other party's priorities before his own. As Santiago Creel, an opposition senator, put it to me, "Look, I'm not saying that I'm special or that anyone is special, but that group, that was special." The proof? When Peña was sworn in, the pact held, and Mexico moved forward for the first time in years. Bueno.
và trả lời ngắn gọn rằng, đó là "sự thỏa thiệp". Tất nhiên, tôi đã hỏi chi tiết hơn, và câu trả lời đầy đủ hơn thốt ra rằng "thỏa hiệp, thỏa hiệp và thỏa hiệp nhiều hơn." Thấy không, Pena biết ông ấy cần sớm xây dựng lòng tin. thế nên ông bắt đầu bàn với phe đối lập vài ngày sau đợt bầu cử của ông. Để tránh khỏi áp lực từ các lợi ích đặc biệt, ông ấy giữ những cuộc gặp của họ nhỏ và bí mật, và rất nhiều người tham gia sau đó đã nói rằng đó là cuộc gặp mặt riêng tư, tràn ngập thứ rượu tequila, nó đã giúp xây dựng sự tự tin. Nên sự thật tất cả các quyết định cũng phải được nhất trí, và Pena còn đồng ý thông qua vài sự ưu tiên của các đảng khác trước cái của ông. Thượng nghị sĩ Santiago Creel, nói với tôi, "Nhìn xem, tôi không nói tôi đặc biệt hay là bất cứ ai đặc biệt", nhưng nhóm đó, thật sự đặc biệt." Bằng chứng ư? Khi Pena tuyên thệ, hiệp ước giữ vững, và Mexico đã tiến lên lần đầu sau nhiều năm. Bueno.
So now we've seen how these three countries overcame three of their great challenges. And that's very nice for them, right? But what good does it do the rest of us?
Vậy chúng ta đã thấy làm sao ba quốc gia này trải qua ba thử thách lớn lao của họ. Và nó rất tốt họ, phải không? Nhưng ý tưởng tích cực gì cho chúng ta?
Well, in the course of studying these and a bunch of other success stories, like the way Rwanda pulled itself back together after civil war or Brazil has reduced inequality, or South Korea has kept its economy growing faster and for longer than any other country on Earth, I've noticed a few common threads.
Trong khóa học nghiên cứu những thứ này và hàng ngàn chuyện thành công khác, như cách Rwanda cùng tự kéo bản thân về sau cuộc nội chiến hoặc Brazil đã giảm đi sự bất bình đẳng, hoặc Hàn quốc đã giữ nền kinh tế của họ phát triển nhanh và xa hơn bất kỳ nước nào trên trái đất này, tôi đã chú ý một vài mối đe dọa phổ biến.
Now, before describing them, I need to add a caveat. I realize, of course, that all countries are unique. So you can't simply take what worked in one, port it to another and expect it to work there too. Nor do specific solutions work forever. You've got to adapt them as circumstances change.
Trước khi trình bày chúng, tôi báo trước điều này. Tôi nhận ra, dĩ nhiên, tất cả các quốc gia đều độc nhất. Nên bạn không thể đơn giản lấy những gì đã làm ở một nước, áp dụng nó vào nước khác và mong nó cũng hiệu quả như thế. Không giải pháp cụ thể nào hiệu quả được mãi mãi. Bạn cần thích nghi chúng vì sự thay đổi hoàn cảnh.
That said, by stripping these stories to their essence, you absolutely can distill a few common tools for problem-solving that will work in other countries and in boardrooms and in all sorts of other contexts, too.
Đã nói, bằng cách tẩy xóa những câu chuyện này đến bản chất của chúng, bạn hoàn toàn có thể lọc ra một vài công cụ để giải quyết vấn đề mà nó sẽ hiệu quả ở các nước khác và trong phòng họp và trong các bối cảnh khác nhau.
Number one, embrace the extreme. In all the stories we've just looked at, salvation came at a moment of existential peril. And that was no coincidence. Take Canada: when Trudeau took office, he faced two looming dangers. First, though his vast, underpopulated country badly needed more bodies, its preferred source for white workers, Europe, had just stopped exporting them as it finally recovered from World War II. The other problem was that Canada's long cold war between its French and its English communities had just become a hot one. Quebec was threatening to secede, and Canadians were actually killing other Canadians over politics. Now, countries face crises all the time. Right? That's nothing special. But Trudeau's genius was to realize that Canada's crisis had swept away all the hurdles that usually block reform. Canada had to open up. It had no choice. And it had to rethink its identity. Again, it had no choice. And that gave Trudeau a once-in-a-generation opportunity to break the old rules and write new ones. And like all our other heroes, he was smart enough to seize it.
Số một, nắm lấy điểm tột cùng. Trong tất cả các ví dụ mà chúng ta xem, sự cứu vớt đến từ thời điểm sự nguy hiểm tồn tại. Và nó không phải trùng hợp. Như Canada: khi Trudeau lên nắm quyền, ông ấy đối diện với hai nguy cơ tiềm ẩn. Đầu tiên, dù đất nước rộng lớn và thưa dân của ông rất cần thêm nhân số, nguồn cung cấp công nhân da trắng của nó, Châu Âu, đã dừng việc xuất khẩu họ khi nó cuối cùng đã phục hồi từ Thế Chiến II. Vấn đề còn lại đó là chiến tranh lạnh của Canada giữa cộng đồng Pháp và Anh đã trờ thành cuộc chiến nóng. Quebec đang đe dọa rút khỏi, và chính người Canada thật sự giết những người Canada khác qua chính trị. Hiện giờ, các quốc gia luôn đối đầu với những khủng hoảng. Phải không? Không có gì đặc biệt cả. Nhưng sự thiên tài của Trudeau là nhận ra rằng cuộc khủng hoảng Canada đã càn quét tất cả bức rào thường cản trở cuộc cải cách. Canada đã phải mở cửa. Nó không có sự lựa chọn. Và họ phải cân nhắc tính đồng nhất. Lần nữa, nó không có sự lựa chọn. và nó đã đem lại cơ hội ngàn năm có một cho Trudeau để phá vỡ quy tắc cũ và viết ra quy tắc mới. Và cũng như những anh hùng khác, ông ấy đủ thông minh để nắm bắt nó.
Number two, there's power in promiscuous thinking. Another striking similarity among good problem-solvers is that they're all pragmatists. They'll steal the best answers from wherever they find them, and they don't let details like party or ideology or sentimentality get in their way. As I mentioned earlier, Indonesia's democrats were clever enough to steal many of the Islamists' best campaign promises for themselves. They even invited some of the radicals into their governing coalition. Now, that horrified a lot of secular Indonesians. But by forcing the radicals to actually help govern, it quickly exposed the fact that they weren't any good at the job, and it got them mixed up in all of the grubby compromises and petty humiliations that are part of everyday politics. And that hurt their image so badly that they've never recovered.
Số hai, sức mạnh trong những suy nghĩ pha tạp. Điểm tương đồng nổi bật khác giữa những người xử lý vấn đề tốt đó là, họ đều là những người thực dụng. Họ sẽ lấy những câu trả lời tốt nhất từ bất cứ nơi nào họ tìm được, và họ sẽ không đưa chi tiết như là buổi tiệc hay tư tưởng hay sự đa cảm lấn vào con đường của họ. Như tôi đã đề cập lúc đầu, đảng viên dân chủ Indonesia đủ khéo léo để trộm lấy nhiều lời hứa vận động hay nhất của người Hồi Giáo cho bản thân họ. Họ còn mời một vài đảng viên Cấp Tiến vào liên minh cai trị của họ. Hiện giờ, nó khiến nhiều giáo sĩ thế tục Indonesia phát sợ. Nhưng bởi cưỡng ép đảng viên Cấp Tiến để giúp thống trị, nó nhanh chóng đưa ra sự thật họ không giỏi ở công việc này, và nó xáo trộn họ lên trong tất cả các thỏa hiệp bẩn thỉu và nỗi nhục nhã hèn hạ là một phần của chính trị hiện nay. Và nó xúc phạm hình ảnh của họ rất nhiều đến nỗi không bao giờ sửa được.
Number three, please all of the people some of the time. I know I just mentioned how crises can grant leaders extraordinary freedoms. And that's true, but problem-solving often requires more than just boldness. It takes showing restraint, too, just when that's the last thing you want to do. Take Trudeau: when he took office, he could easily have put his core constituency, that is Canada's French community, first. He could have pleased some of the people all of the time. And Peña could have used his power to keep attacking the opposition, as was traditional in Mexico. Yet he chose to embrace his enemies instead, while forcing his own party to compromise. And Trudeau pushed everyone to stop thinking in tribal terms and to see multiculturalism, not language and not skin color, as what made them quintessentially Canadian. Nobody got everything they wanted, but everyone got just enough that the bargains held.
Số ba, làm mọi người vui lòng trong vài thời điểm. Tôi biết tôi đã nêu cách khủng hoảng cấp cho các lãnh đạo nền tự do đặc biệt. Và đúng vậy, nhưng sự giải quyết vấn đề thường đòi hỏi nhiều hơn là sự dũng cảm. Nó cũng cần thể hiện sự kiềm chế, chỉ khi đó là thứ cuối cùng bạn muốn làm. Như Trudeau: khi ông nhậm chức, ông ấy dễ dàng đặt các cử tri cốt lõi của ông lên hàng đầu, đó là cộng đồng Pháp của Canada. Ông ấy đã có thể làm hài lòng một vài người vào mọi thời điểm. Và Pena đã có thể sử dụng khả năng của ông để tấn công đối thủ, như nó là truyền thống ở Mexico. Nhưng thay vào đó, ông đã chọn ôm lấy kẻ thù, trong khi bắt buộc đảng của ông thỏa hiệp. Và Trudeau buộc mọi người dừng nghĩ đến những điều hạn bộ tộc và nhìn nhận sự đa văn hóa, không phải ngôn ngữ và màu da, như những gì làm họ trở thành người Canada chân chính. Không ai hiểu mọi thứ họ muốn, nhưng mọi người chỉ đủ hiểu rằng sự thương lượng đã nắm quyền.
So at this point you may be thinking, "OK, Tepperman, if the fixes really are out there like you keep insisting, then why aren't more countries already using them?" It's not like they require special powers to pull off. I mean, none of the leaders we've just looked at were superheroes. They didn't accomplish anything on their own, and they all had plenty of flaws. Take Indonesia's first democratic president, Abdurrahman Wahid. This man was so powerfully uncharismatic that he once fell asleep in the middle of his own speech.
Thế nên ngay tại điểm này bạn có thể đang nghĩ, "Được, Tepperman, nếu các giải pháp ngoài đó như anh cứ khăng khăng đòi, thì vì sao nhiều quốc gia không sử dụng chúng?" Không như họ đòi hỏi năng lực đặc biệt để thành công. Ý tôi, không một nhà lãnh đạo nào chúng ta đã thấy là siêu anh hùng cả. Họ không hoàn thành bất cứ điều gì nhờ bản thân họ, và họ đều có rất nhiều sai lầm. Như tổng thống đảng dân chủ đầu tiên của Indonesia, Abdurrahman Wahid. Người đàn ông này rất thiếu sức lôi cuốn ông một lần đã ngủ gục ngay giữa bài diễn văn của mình.
(Laughter)
(Tiếng cười)
True story.
Câu chuyện có thật.
So what this tells us is that the real obstacle is not ability, and it's not circumstances. It's something much simpler. Making big changes involves taking big risks, and taking big risks is scary. Overcoming that fear requires guts, and as you all know, gutsy politicians are painfully rare. But that doesn't mean we voters can't demand courage from our political leaders. I mean, that's why we put them in office in the first place. And given the state of the world today, there's really no other option.
Vậy điều này cho chúng ta biết rằng trở ngại thật không phải là khả năng, và cũng không phải là tình thế. Đôi khi nó đơn giản hơn nhiều Tạo ra những sự thay đổi lớn bao gồm giữ lấy những rủi ro lớn, và giữ lấy các rủi ro lớn khá đáng sợ. Trải qua nỗi sợ ấy cần sự can đảm, và như bạn biết, các nhà chính trị dũng cảm rất hiếm. Nhưng không có nghĩa là chúng ta, cử tri không thể đòi hỏi dũng khí từ nhà lãnh đạo chính trị của mình. Mà đó là lý do vì sao chúng ta đưa họ nhậm chức ngay đầu tiên. Và như tình hình thế giới hiện nay, thật sự không có sự lựa chọn khác.
The answers are out there, but now it's up to us to elect more women and men brave enough to find them, to steal them and to make them work.
Câu trả lời đang ở ngoài kia, nhưng bây giờ nó tùy vào chúng ta bầu chọn giới nữ hơn và giới nam đủ can đảm để tìm họ, để trộm lấy họ và để bắt họ làm việc.
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)