You all know this story. In the summer of 1950, Enrico Fermi, the Italian-American physicist and atomic-pile builder, went to lunch at Los Alamos National Laboratory and joined some colleagues there, and asked them a question: "Where is everybody?" This confused his colleagues, obviously, because they were sitting right there with him. And then he had to clarify that he wasn't talking about them. He was talking about the space aliens.
Hẳn các bạn biết câu chuyện này. Vào mùa hè năm 1950, Enrico Fermi, một nhà vật lý học người Mỹ gốc Ý và là người sáng chế ra lò phản ứng hạt nhân, ăn trưa tại Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos và ngồi cùng những đồng nghiệp ở đây, ông đã hỏi họ một câu rằng: "Mọi người đâu hết rồi?" Điều này rõ ràng đã làm đồng nghiệp của ông bối rối, vì lúc ấy tất cả đều ngồi ngay cạnh ông. Và sau đó, ông ấy phải đính chính rằng ông không hề nói về họ. Ông đang nói đến những người ngoài hành tinh.
You see, this was only a few years after the supposed flying saucer crash at Roswell, New Mexico. And even though that turned out to be nothing, nothing at all -- (Laughter) -- merely a downed weather balloon piloted by small hairless men with slits for mouths ... Still, America had gone saucer-mad, even famous scientists who were eating lunch. Fermi's reasoning, if I may paraphrase badly, is that the universe is so vast that it stands to reason, there should be other intelligent life out there. And the universe is so old that unless we were the very first civilization ever to evolve, we should have some evidence of their existence by now. And yet, to the best of our knowledge, we are alone.
Bạn thấy đấy, thời điểm ấy chỉ khoảng vài năm sau vụ va chạm đĩa bay được xác định ở Roswell, New Mexico. Và mặc dù chuyện là hóa ra chẳng có gì cả, không có gì cả luôn (Tiếng cười) chỉ là một cái khinh khí cầu hạ cánh được lái bởi một gã trọc nhỏ thó với cái miệng toét thôi mà.... Dù vậy, nước Mỹ cũng bấn loạn vì đĩa bay, cả với những nhà khoa học nổi tiếng đang ăn trưa này. Về lập luận của Fermi, tôi có thể vụng về cắt nghĩa rằng là vũ trụ vô cùng rộng lớn và đương nhiên, hẳn là có sự sống thông minh khác ngoài kia. Và vũ trụ thì đã quá xa xưa đến mức trừ khi chúng ta là nền văn minh đầu tiên hình thành, chẳng có lý gì bây giờ ta lại không tìm ra bằng chứng cho sự tồn tại của họ. Tuy nhiên, với vốn kiến thức uyên thâm của mình, ta biết mình đơn độc.
"Where is everybody?" asked Fermi, and his colleagues had no answer. Fermi then went on with the same blunt logic to disprove fairies, Sasquatch, God, the possibility of love -- and thereafter, as you know, Enrico Fermi ate alone. (Laughter) Now, I am not a scientist. I have never built an atomic pile. Although, I might argue that, technically, every pile is atomic.
"Mọi người đâu hết rồi?" Fermi hỏi, và các đồng nghiệp của ông không trả lời được. Fermi sau đó tiếp tục với cách suy luận ngớ ngẩn như trước để bác bỏ yếu tố thần thánh, Người tuyết, Chúa trời, hay khả năng của tình yêu rồi sau đó, bạn biết đấy, Enrico Fermi ăn một mình. (Tiếng cười) Bây giờ, tôi không phải là nhà khoa học. Tôi chưa tạo nên lò phản ứng hạt nhân nào. Mặc dù, tôi sẽ chứng minh, một cách chính xác rằng mỗi cái lò đều mang tính hạt nhân.
(Laughter)
(Tiếng cười)
However, with respect, I might point out two possibilities that Enrico Fermi perhaps did not consider. One is that the aliens might be very far away. Perhaps, I dare say, even on other planets. The other possibility -- (Laughter) -- is, perhaps, Enrico Fermi himself was an alien.
Thế nhưng, về vấn để này, tôi sẽ chỉ ra hai khả năng mà Enrico Fermi có lẽ đã không công nhận. Một là người ngoài hành tinh có thể ở rất xa. Tôi dám nói rằng, thậm chí trên những hành tinh khác. Khả năng còn lại (Tiếng cười) là, hình như, bản thân Enrico là người ngoài hành tinh.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Think about it. Isn't it a little convenient that in the midst of the World War, out of nowhere, suddenly an Italian scientist showed up with an amazing new technology that would transform everything in the world and darken the history of the human species forever after? And isn't it a little strange that he required no payment for this? That he asked for only one thing -- a gift of two healthy sperm whales? That's -- that's not true. But it is strange.
Hãy nghĩ về chuyện đó đi ạ. Không có lý hay sao khi mà giữa cuộc Chiến tranh Thế giời, từ đâu không biết thình lình xuất hiện một ông bác học người Italia với một thứ công nghệ mới đáng kinh ngạc có thể đổi dời mọi thứ trên trái đất này và khép lại lịch sử loài người mãi mãi? Và không lạ lùng sao khi mà ông này không đòi tiền lương gì cả? Ông ta chỉ yêu cầu mỗi một thứ đó là hai con cá nhà táng mà thôi? Điều này, điều này không đúng. Nhưng vẫn thật kì lạ.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And if Enrico Fermi were indeed a space alien, wouldn't he be the first to have tried to convince his fellow scientists that the space aliens are not already here? For it is given in certain UFO-ology or UFOlogy circles, that the aliens are already here and have been for millennia; that they have walked among us in disguise, observing us, guiding our evolution from ape to man -- if you believe in that sort of thing -- and, occasionally, kidnapping us in their flying saucers and taking us away to have sex with us in pyramids.
Và nếu Enrico Fermi thật sự là người ngoài hành tinh, thì có phải ông là người ngoài hành tinh đầu tiên đã cố thuyết phục đồng nghiệp của mình rằng người ngoài hành tinh không còn ở đây nữa? Thuyết người ngoài hành tinh hay những vòng tròn mùa vụ đã được chấp nhận, rằng người ngoài hành tinh đang và đã ở đây cả nghìn năm rồi; họ sinh hoạt cùng ta dưới lớp cải trang, quan sát chúng ta, dẫn lối sự tiến hóa của ta, từ con vượn thành con người Nếu bạn tin vào mấy thứ đó rồi thì, thỉnh thoảng, họ bắt cóc ta bỏ vào đĩa bay rồi dẫn ta vào các kim tự tháp để giao phối.
(Laughter)
(Tiếng cười)
It's a difficult theory to discount, I think you'll agree.
Đó là một học thuyết rất khó bác bỏ, tôi nghĩ bạn cũng đồng ý như thế.
(Laughter)
(Tiếng cười)
For even in my own life, there are memories I have that are difficult to explain -- happenings that are so odd and unaccountably weird, that it is difficult to imagine they were not the result of prolonged and frequent contact with aliens throughout my life. For how else will you explain the amazing and absolutely true close encounters that I had and will describe to you now? Encounter one: Ocean City, New Jersey, 1980. This was the summer when the special edition of "Close Encounters of the Third Kind" was released. And I went on vacation with my parents to the Jersey shore. Within 12 hours, I was horribly sunburned, just like Richard Dreyfuss in the movie.
Trong đời mình, tôi cũng có những kí ức rất kì lạ và quái đản diễn ra mà không thể nào giải thích nổi, thật không thể tưởng tượng nổi rằng chúng không phải là kết quả của mối liên kết lâu dài và thường trực giữa người ngoài hành tinh và cuộc sống của tôi. Dù sao đi nữa, bạn có thể lý giải những lần đụng độ đáng kinh ngạc mà tôi đã kể và sẽ kể với bạn ngay bây giờ không? Lần chạm mặt thứ nhất: Ở Ocean City, New Jersey, năm 1980. Vào một ngày hè khi bản đặc biệt của phim "Kiểu tiếp xúc thứ ba" được phát hành. Tôi đi nghỉ với bố mẹ ở bờ biển Jersey. Trong 12 tiếng, tôi bị cháy nắng thậm tệ, giống y như Richard Dreyfuss trong phim vậy.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And so I spent the rest of the vacation largely sitting outside our little rental house at night, the sidewalk still warm from the sun, watching the skies for UFOs. What did I see? Stars, satellites, blinking airplanes -- typical sky junk. Occasionally, kids would come and join me and watch, but their necks soon got sore, and they would go off to the boardwalk to play video games and mingle with humans. I was pretty good at the video games. I was not very good at the other part, so I stayed alone with the cosmos.
Tôi dành phần lớn thời gian còn lại của kì nghỉ bên ngoài căn nhà thuê nhỏ xinh vào ban đêm, ngồi trên vỉa hè còn nóng vì nắng, tôi tìm đĩa bay trên trời. Tôi đã thấy gì ư? Những vì sao, vệ tinh, máy bay chớp nháy, đám rác điển hình của trời xanh. Đôi khi, nhiều đứa trẻ khác đến cùng tôi tìm kiếm, nhưng vì cổ bị đau nên chúng liền bỏ đi ra dọc bờ biển để chơi điện tử và gia nhập với loài người. Tôi chơi điện tử rất giỏi. Nhưng lại không siêu những thứ khác, thế nên tôi chỉ ngồi một mình với vũ trụ mà thôi.
And that's when it happened. An elderly couple came walking down the street. I would say they were in their late seventies, and I would say that they were on a date, because he was wearing a very neat little suit with a yellow tie -- a brown suit. And she was wearing a cardigan, because it was now fully night and a chill was coming in off the ocean. I remember, for some reason, that they were exactly the same height. And then they stopped, and the man turned to me and said, "What are you looking for, flying saucers?"
Và đó là lúc chuyện này xảy đến. Có hai cụ già dắt nhau đi trên đường. Tôi nghĩ họ khoảng hơn bảy mươi tuổi, và tôi cũng đoán là họ đang hẹn hò, vì cụ ông mặc một bộ đồ rất chỉnh tề với nơ vàng trên bộ vest nâu. Còn cụ bà mặc áo khoác nhẹ, vì đêm ấy trăng sáng và có hơi lạnh từ biển thổi vào. Cũng vì vậy mà tôi nhớ họ cao vừa bằng nhau. Sau đó họ dừng lại, cụ ông quay sang tôi và nói, "Cháu đang tìm gì thế, lại mấy cái đĩa bay hả?"
(Laughter)
(Tiếng cười)
You have to admit, that's a pretty boss piece of detective work for an old man on a date. But what was stranger still -- and even I realized it at the time, as a nine-year-old child -- was that they stopped at all. That this old man would interrupt his moonlight stroll with his sweetheart with the precise reason of making fun of a child. "Oh," he said, "little green men." And then his girlfriend joined in, too. "There's no such thing as space men," she said. "There's no such thing." And then they both laughed. "Ha, ha, ha." I looked around. The street was entirely empty. I had stopped hearing the sound of the ocean. It was as though time had stopped. I did not know why they were teasing me. I looked into their strangely angry faces, and I remember wondering, are they wearing rubber masks?
Tôi phải thừa nhận, đó thật là một thành quả trinh thám cừ khôi đối với một ông cụ đang hẹn hò. Nhưng hành động của hai người lạ lúc ấy tôi nhận ra khi tôi mới chín tuổi rằng, họ đã dừng lại bên tôi Ông cụ đó đã tạm dừng cuộc tản bộ ngắm trăng với người tình của mình chỉ với mỗi mục đích chế nhạo một đứa bé. "Ôi", ông ta nói, "chàng trai màu xanh bé nhỏ". Và cụ bà cũng nói vào. "Không có người ngoài hành tinh đâu cháu", bà bảo. "Họ không tồn tại đâu". Xong xuôi họ cười ồ lên. "Ha ha ha". Tôi nhìn quanh. Đường phố không một bóng người. Tôi không còn nghe tiếng biển nữa. Cứ như thời gian đã ngừng lại vậy. Tôi không hiểu tại sao họ lại giễu cợt mình như thế. Tôi nhìn sâu vào khuôn mặt nhăn nhóm xa lạ của họ, và tôi tự hỏi rằng, liệu họ có đang đeo mặt nạ không?
(Laughter)
(Tiếng cười)
And what would be behind those rubber masks, if they were? Giant, almond-shaped, unblinking eyes? Slits for mouths? The old man crooked his finger as though he were firing a gun, and then he made laser sounds. "Kew, kew, kew -- watch out." And they turned at once and walked away. The old man reached out his knobbly claw for the woman's hand, and found it, and left me alone. Now, you could describe this as a simple misunderstanding -- a strange encounter among humans. Maybe it was swamp gas, but -- (Laughter) -- I know what I saw.
Hay có gì bên dưới những lớp mặt nạ ấy, nếu họ có đeo chúng? Những con mắt to bự, hình quả hạnh, không bao giờ chớp ư? Những cái miệng toét ư? Ông cụ ấy cong ngón tay lại như thế đang bắn súng, rồi ông ta phát ra tiếng laser "Kew, kew, kew cảnh giác nè" Sau đó bọn họ liền quay đầu bước tiếp. Cụ ông rờ rẫm cái tay gân guốc của mình để nắm lấy tay bà lão, xong xuôi họ bỏ tôi một mình. Bây giờ, tôi đã có thể nói về việc này như một cuộc chạm mặt nhầm nhọt giữa con người với nhau. Có lẽ, đó là do khí độc, nhưng mà (Tiếng cười) tôi biết những gì mình nhìn thấy chứ.
Close encounter two: Brookline, Massachusetts, 1984. I went to see the movie "Dune," and a girl talked to me. Now, on its face -- (Laughter) -- this is impossible on its face, I realize -- but it is absolutely true. It was opening night, naturally. I went with my friend Tim McGonigal, who sat on my left. On my right was the girl in question. She had long, curly black hair, a blue jean jacket. I remember, she had some sort of injury to her ankle, an Ace bandage, and she had crutches. She was very tall, I would say. I was starting high school at the time. I would say she was a junior, but I had never seen her before. She didn't go to my school. I didn't know her name, and I never will. She was sitting with someone who I presume was her mother, and they were talking about the novel, "Dune." They were both big fans, mother and daughter -- very unusual. They were talking about how their favorite characters were the giant sandworms. And then it got stranger. That's when she turned to me and said, "Are you looking forward to seeing the movie?"
Cuộc chạm mặt thứ hai là ở Brookline, Massachusetts, năm 1984. Tôi đi xem phim "Xứ cát", và một cô gái bắt chuyện với tôi. (Tiếng cười) rõ là không thể tin nổi, nhưng tôi nhận ra việc này là sự thật. Đó là đêm mở màn, tất nhiên rồi. Tôi đã đến cùng với anh bạn Tim McGonial, anh ngồi bên trái tôi. Còn bên phải là cô gái đang nói đến. Cô có mái tóc dài đen óng và mặc áo jacket jean màu xanh. Tôi nhớ cô có một vài vết thương nơi mắt cá chân, phải dán băng cá nhân và đi đôi nạng. Có thể nói là cô gái ấy rất cao lớn. Lúc ấy tôi đang bắt đầu học cấp ba. Cô nàng là học sinh năm cuối, nhưng tôi chưa thấy cô bao giờ. Cô ấy đã không đi học. Tôi đã không biết và sẽ chẳng bao giờ biết được tên cô. Cô nàng đang ngồi với ai đó mà tôi đoán là mẹ của cô ấy, họ đang nói chuyện về cuốn "Xứ cát"". Hai người đều là những người hâm mộ, mẹ và con gái rất bất bình thường. Họ đang nói về việc những nhân vật họ yêu thích hóa thân thành rươi như thế nào. Và chuyện còn kì lạ hơn. Khi cô gái ấy quay sang tôi và nói, "Cậu có mong đợi bộ phim này không?"
(Laughter)
(Tiếng cười)
First of all, I was embarrassed because I had not read the novel "Dune" at that time. I was merely a connoisseur of movies featuring desert planets, as I still am.
Mới đầu, tôi rất lúng túng vì tôi khi ấy tôi chưa đọc cuốn "Dune" đó. Tôi vẫn chỉ là một đứa mê những bộ phim có những hành tinh hoang sơ thôi mà.
(Laughter) But it was also the tone of how she asked the question: apropos of nothing, like she didn't even care about the answer, as though she just wanted to talk to me. I did not know what to say. I said, "Yes." I did not even turn my head. The movie began. I need not remind you that this was David Lynch's version of "Dune," in which all of the characters were sexy and deformed at the same time.
(Tiếng cười) Nhưng vấn đề là thái độ của cô nàng khi hỏi câu đó: chẳng bận tâm gì, cứ như nàng ta không cần biết đến câu trả lời vậy, như là chỉ muốn xã giao thôi vậy. Tuy không biết phải nói sao. Tôi cũng trả lời, "Đúng thế". Tôi thậm chí chẳng quay mặt sang cô ta. Bộ phim bắt đầu. Hẳn tôi không cần nhắc bạn rằng đó là bản phim của David Lynch mà mọi nhân vật trong ấy đều rất gợi tình và bị biến thái cùng một lúc.
(Laughter)
(Tiếng cười)
There was a character called the Third-Stage Guild Navigator, which was a kind of giant, floating fetus-creature that lived in a giant tank with this orange mist of psychedelic spice swirling around him, allowing him to bend space and time. He could never leave the tank or interact with the outside world. He had become, in his isolation, so deformed and so sexy, that he had to talk through a kind of old-timey radio to the outside world, and could never touch them. I mean, I liked him a lot better than the sandworms. The sandworms were fine, but your favorite character? Please.
Có một nhân vật tên là Third-Stage Guild Navigator, một bào thai khổng lồ lơ lửng sống trong một cái thùng lớn đầy sương màu cam của chất gây phê uốn lượn quanh hắn, giúp hắn bẻ cong không gian và thời gian. Hắn không thể rời khỏi cái thùng đó hay tương tác với thế giới bên ngoài được. Trong sự cô độc ấy, hắn đã trở nên rất lệch lạc và cũng quyến rũ nữa, hắn phải nói chuyện với bên ngoài qua một cái radio cũ kĩ, và không thể chạm vào mọi người được. Theo tôi, tôi thích hắn ta hơn lũ rươi nhiều. Lũ đó cũng được thôi, Nhưng nhân vật bạn thích là gì? Thôi bỏ đi.
When the movie ended, everyone seemed very happy to get up and get out of the theatre as soon as possible. Except for the girl. As I walked out, her pace slowed. Perhaps it was the crutches, but it seemed -- (Laughter) -- it seemed as though she might want to talk to me again. When I say it out loud, it sounds so ridiculous, but I can only come to the conclusion that it was what, in the alien abductee community, they call a "screen memory": a ridiculous false recollection designed by their brain to cover up some trauma -- say, of being kidnapped and flown off to a sex pyramid.
Khi bộ phim kết thúc, mọi người đều rất vui vẻ đứng dậy và ra khỏi rạp càng nhanh càng tốt. Trừ cô gái ấy. Khi tôi bước ra ngoài, cô ta đi chậm lại. Có lẽ là vì cái nạng, nhưng dường như, (Tiếng cười) hình như cô lại muốn bắt chuyện tôi lần nữa. Khi nói về chuyện này, nghe có vẻ rất kì cục, nhưng tôi chỉ có thể đúc kết rằng những chuyện ở trong cộng đồng bị người ngoài hành tinh bắt cóc như này có tên là "bộ nhớ màn hình": hồi ức nhầm lẫn kì cục được tạo ra bởi não bộ để che đậy sự tổn thương do bị bắt cóc và bị kéo đến kim tự tháp giao phối.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And so I sure am glad I did not slow down to talk to her. I sure am glad I never saw her again.
Tôi rất mừng vì mình đã không đi chậm lại để nói chuyện với cô ta. Tôi cũng rất mừng vì không bao giờ gặp lại cô ta nữa.
Close encounter three: Philadelphia, Pennsylvania, 1989. In the mid-to-late '80s, the novelist Whitley Strieber wrote a book called "Communion," in which he described his own lifelong experiences being abducted by aliens. And he also described the phenomenon known in this community as "lost time," where Whitley Strieber would suddenly become aware that he could not remember the previous ten minutes, or the previous ten hours, or the previous ten days. And would come to the conclusion that that was when the aliens were taking him and giving him rectal probes.
Cuộc chạm mặt thứ ba: Ở Philadelphia, Pennsylvania, năm 1989. Vào nửa cuối thập niên 80, tiểu thuyết gia Whitley Srrieber viết cuốn "Mối quan hệ", trong ấy ông kể lại trải nghiệm của đời mình lúc bị người ngoài hành tinh bắt cóc. Ông cũng kể lại một hiện tượng được nói đến trong xã hội này với cái tên "thời gian đánh mất", nơi Whitley Srtieber bỗng nhiên nhận ra rằng ông không thể nhớ được những gì xảy ra mười phút trước, hay mười giờ trước, hay mười ngày trước. Và ông kết luận rằng đó là vì người ngoài hành tinh đã dẫn ông đi xét nghiệm trực tràng.
(Laughter)
(Tiếng cười)
This book became, naturally, an enormous best-seller. This image by Ted Joseph was from that book, and was his, sort of, police sketch of what the creatures looked like that Whitley Strieber had described to him. And it was so successful that they made it into a movie. And in 1989, the way I remember it, I was in Philadelphia visiting my girlfriend, and we decided, apropos of nothing, to go see this movie. And the way I remember it, the movie featured these details. One: Whitley Strieber was played by Christopher Walken. Two: the alien was played by a rubber puppet.
Cuốn sách đó, dĩ nhiên, vô cùng ăn khách. Bức hành này do Ted Joseph vẽ, được lấy ra từ cuốn sách, và dường như là chân dung tội phạm của những sinh vật giống với những gì mà Whiley Strieber đã miêu tả với Joseph. Và cuốn sách đã được chuyển thể thành phim rất thành công. Vào năm 1989, tôi nhớ thế, lúc ấy tôi ở Philadelphia để thăm bạn gái tôi, và chúng tôi quyết định không vì lý do gì, sẽ đi xem bộ phim này. Tôi nhớ bộ phim có những chi tiết này. Một: Vai Whitley Striber được Christopher Walken đóng. Hai: Người ngoài hành tinh do hai con rối cao su đảm nhận.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Three: there was a surprisingly long sequence of the film in which the rubber puppet gives Christopher Walken a rectal probe. Four: this was being shown in a regular movie theater in Center City, Philadelphia. Five: all of which is to say, they made a movie out of the book, "Communion," and it starred Christopher Walken. Does something seem strange about this to you? Something odd? Something off? Something wrong with this picture? Think about it. Yes. The answer is: I had a girlfriend. What?
Ba: Có những cảnh phim dài đáng kinh ngạc về chuyện con rối cao su kiểm tra trực tràng cho Christopher Walken. Bốn: Bộ phim được chiếu trong một rạp chiếu chính quy ở Center City, Philadelphia. Năm: Bộ phim ý nói rằng, họ đã làm bộ phim từ cuốn "Mối quan hệ" đó, và có Christopher Walken tham gia. Có điều gì đó lạ lùng trong chuyện này không? Thứ gì đó kì quặc? Hay đã bị xóa đi? Điều gì đó không đúng trong tấm hình ấy? Nghĩ về chuyện đó đi bạn. Vâng. Đáp án là: Tôi đã có bạn gái. Gì cơ?
(Laughter)
(Tiếng cười)
How did this happen? When did this happen? I remember walking out of the theater and becoming suddenly aware of this fact, as we walked hand in hand, and pondering these very same questions. And to this day, I have no answer for you. Close encounter four: the Algarve, Portugal, 1991. Some years later, I and this woman -- we'll call her "Catherine Fletcher" -- (Laughter) -- went traveling through the south of Portugal together. We stayed in old, crumbling, walled cities, in tiny little hotels, and we would climb up to the roof and drink Vinho Verde and watch the sun set and play checkers. What? Did we do this? Really? Does anyone do this? We went to some topless beaches. Excuse me? No, not in my life. For what it's worth, we went to Sagres, which was considered, at the time, to be the end of the world. And there I was chased by a pack of feral dogs on the dock, and the lead dog bit me on the ass, requiring me to go to a strange Portuguese clinic and receive an ass shot. Make of that what you will.
Chuyện xảy đến thế nào? Chuyện xảy đến khi nào? Tôi nhớ là mình đã bước ra khỏi rạp chiếu và bỗng nhiên nhận ra rằng chúng tôi tay trong tay dạo bộ và suy nghĩ những câu hỏi giống nhau. Chuyện là thế, giờ thì tôi vẫn chưa có câu trả lời. Lần chạm mặt thứ tư: Ở Algarve, Bồ Đào Nha, 1991. Vài năm sau, tôi và người phụ nữ này chúng ta sẽ gọi cô là "Catherine Fletcher" (Tiếng cười) cùng nhau đi qua miền bắc Bồ Đào Nha. Chúng tôi đã ở những phố cổ xập xệ và bao vây bởi những bức tường trong những khách sạn nhỏ bé, chúng tôi trèo lên mái nhà, uống Vinho Verde ngắm mặt trời lặn và chơi cờ đam. Gì cơ? Chúng tôi đã làm vậy ư? Thật chứ? Có ai từng làm chuyện ấy chưa? Chúng tôi đã đến những bãi biển bất tận ư. Không, xin thứ lỗi. Đời tôi chưa từng đến đó luôn. Trong lưỡng lự, chúng tôi đã đến Sagres, nơi được xem như chốn tận cùng thế giới vào lúc ấy. Và ở đó, tôi bị một đám chó rừng rượt đuổi trên bến phà, con đầu đàn đã cắn vào mông tôi, thành ra tôi phải đến một phòng khám của một người Bồ Đào Nha xa lạ để tiêm mấy mũi vào mông. Bạn muốn nghĩ sao về chuyện này cũng được.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Our last day in Portugal, we were in the district capital of Faro, and Catherine decided that she wanted to go to the beach one last time. Now, Faro is a bustling little city, and to get to the beach, she explained, you would have to take a bus and then a boat. And did I want to come with? But I was exhausted and dog-bitten, and so I said, "No." I remember what she looked like before she left. The freckles had grown and multiplied on her face and shoulders, clustering into a kind of a tan. A tan, we were both tan -- is this true? Her eyes were extra bright and extra blue, as a result. She was smiling. She was a single woman about to go alone into a country, not even speaking the language, to travel alone by bus and boat to go to a beach she did not know or had never seen. I loved her, and then she went out into that strange, alien land.
Vào ngày cuối cùng ở Bồ Đào Nha, chúng tôi đến thủ đô của Faro, và Catherine muốn đến thăm biển một lần cuối. Lúc ấy, Faro là một thành phố nhỏ bé tấp nập và cô chỉ rằng muốn đến biển, chúng tôi phải đón xe buýt rồi sau đó đi tàu. Và hỏi tôi liệu có muốn đi cùng không? Nhưng tôi đã quá mệt và vì bị chó cắn nữa, nên tôi nói "Không". Tôi còn nhớ gương mặt cô trước khi cô rời đi. Những vết tàn nhang lớn dần và nhân lên trên khuôn mặt, bờ vai của cô, chúng tập trung trên ấy như vết cháy nắng/ Cháy nắng ấy, ai cũng bị thế cả đúng không nhỉ? Với đôi mắt cô ấy sáng rỡ và xanh biếc hơn cả, Catherine mỉm cười. Cô là một bà mẹ đơn thân đang định đến sống một mình ở một đất nước không nói cùng thứ tiếng với cô. định đi phượt một mình bằng xe buýt và tàu và đến một bờ biển, nơi cô không biết đến hay thậm chí chưa từng nhìn thấy. Tôi yêu cô gái ấy, và khi cô bỏ đi đến miền đất xa lạ, ngoài hành tinh kia.
It took me some time to come to my senses. I had my own "lost time" moment, where I woke up and suddenly realized it was very late in the day, almost dinnertime, and she had not come back. Nervous, I went down to the street to look for her. Now, I did not speak Portuguese. I did not know where the beach was. I could not call her on a cell phone because this was 1991, and the aliens had not given us that technology yet.
Tôi phải mất một khoảng thời gian để suy nghĩ. Tôi đã có cho mình "thời gian bị đánh mất", ở nơi ấy, tôi thức dậy và giật mình nhận ra trời đã tối, sắp đến bữa tối rồi, mà cô ấy vẫn không trở về. Đầy lo âu, tôi ra ngoài tìm Catherine. Khi ấy tôi không biết tiếng Bồ Đào Nha. Tôi không biết biển ở đâu cả. Tôi cũng không thể gọi di động cho cô vì đó là năm 1991, người ngoài hành tinh vẫn chưa đưa cho ta thứ công nghệ ấy.
(Laughter)
(Tiếng cười)
I realized that the day would only have two possible outcomes: either Catherine would come back to the hotel, or she would never come back to the hotel. And so I sat down to wait. I did not watch the skies, but the very end of the street where the buses and cars and pedestrians and little scooters were moving along. And I watched those constellations shift, hoping that they would part and I would see her face. It was at that moment, in that very small town of 30,000 or so, that I truly appreciated the vastness of the universe and the searching we might do in it. And that's when the Liberians came along. Five young men -- all laughing, happy, traveling together, coming back to this hotel where they were staying.
Tôi nhận ra hôm ấy chỉ có hai khả năng có thể xảy ra: Có thể Catherine sẽ trở về khách sạn, hay cô không bao giờ về nữa. Và thế là tôi ngồi đợi. Tôi không ngắm bầu trời nữa, ngoài việc nhìn ra cuối con đường nơi những chiếc xa buýt, xe hơi, người đi bộ và những chiếc scooter đi qua. Tôi quan sát những chòm sao chuyển dời, hi vọng rằng chúng sẽ tản mạn ra và tôi lại thấy gương mặt cô. Vào giờ khắc ấy, nơi thị trấn bé nhỏ độ 30000 dân hay hơn, tôi đã đánh giá được sự mênh mông của thế giới này và cuộc kiếm tìm của ta ở nơi đây. Khi ấy những người Liberia đi qua. Năm cậu trai trẻ, họ cười, vui vẻ đi bên nhau trở về khách sạn nơi họ đang ở.
One of them was named Joseph, and he asked me what was I doing, and I explained. And he said, "Don't worry." He was sure that Catherine would be safe. But he did not seem so very sure, for he sat down to wait with me. And for the next two hours, they all waited with me: taking turns, going up to their room, coming back, telling me jokes, distracting me. Two hours, they gave me a message. We are not alone.
Một trong số ấy là Joseph, cậu ta hỏi tôi đang làm gì, tôi kể chuyện. Rồi cậu nói, "Đừng lo anh ạ". Cậu ấy chắc rằng Catherine sẽ an toàn. Nhưng trông cũng chẳng chắc chắn lắm, vì vậy cậu ngồi xuống đợi với tôi. Hai giờ sau đó, mọi người đều chờ đợi cùng tôi: thay phiên nhau, trở về phòng rồi quay lại, chọc cười tôi, làm tôi phân tâm. Hai giờ đó, họ đã gửi tôi thông điệp rằng. Chúng tôi không cô đơn.
And then, in the middle of a sentence, at the very birth of twilight, I turned and looked down the street. The stars aligned, and she came back. She was smiling. She did not understand why I was so worried. Neither did the Liberians, although there was a huge amount of relief in their laughter as they clapped us on the back, and went back up to their room and left us alone in the street, holding hands. An event like this leaves a scar on the memory, much like a piece of alien technology that has been inserted into your buttocks by a "Portuguese doctor."
Rồi sau đó, tôi quay đi và nhìn xuống đường. Khi những ngôi sao đã thẳng hàng, Catherine trở về. Cô ấy tươi cười, không hiểu tại sao tôi lo lắng như thế. Ngay cả những người Liberia cũng vậy, mặc dù họ cười trong sự nhẹ nhõm tột cùng khi vỗ tay sau lưng chúng tôi, rồi trở về phòng, để lại chúng tôi trên đường, đang nắm tay nhau. Một sự việc như thế để lại một vết sẹo trong bộ nhớ, cứ như một phần của công nghệ ngoài trái đất đã được đẩy vào mông bạn bởi một ông bác sĩ người Bồ Đào Nha vậy.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And even now, a decade and a half later, even now that we are married, I look for her still, whenever she is not in the room. And even though, I think you'll agree, it is probable that during the time she was away, she was kidnapped and replaced by an alien clone, I love her and wait for her still.
Dù cho vào lúc ấy, một thập kỉ sau hay hơn thế nữa, dù cho chúng tôi đã kết hôn, tôi vẫn luôn tìm kiếm cô, bất cứ khi nào không có cô trong phòng. Và dù cho, tôi nghĩ bạn đồng ý, cũng rất hợp lý khi cho rằng lúc đi ra ngoài cô ấy bị bắt cóc và thế chỗ bởi một bản sao người ngoài hành tinh, nhưng tôi vẫn luôn yêu và chờ đợi cô.
Thank you for your kind attention.
Cảm ơn vì đã lắng nghe.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)