This is a map of New York State that was made in 1937 by the General Drafting Company. It's an extremely famous map among cartography nerds, because down here at the bottom of the Catskill Mountains, there is a little town called Roscoe -- actually, this will go easier if I just put it up here -- There's Roscoe, and then right above Roscoe is Rockland, New York, and then right above that is the tiny town of Agloe, New York.
Đây là bản đồ của bang New York nó được làm ra vào năm 1937 bởi công ty General Drafting. Nó là một tấm bản đồ rất nổi tiếng đối với những người đam mê bản đồ, bởi vì ở phía dưới này, phía dưới dãy núi Catskill, có một thị trấn nhỏ tên là Roscoo -- thực ra, nó sẽ dễ hơn nếu tôi đưa nó lên đây -- Đó là Roscoe, và ngay phía trên của Roscoe là Rockland, New York, và trên nó nữa là thị trấn nhỏ bé Agloe, New York.
Agloe, New York, is very famous to cartographers, because it's a paper town. It's also known as a copyright trap. Mapmakers -- because my map of New York and your map of New York are going to look very similar, on account of the shape of New York -- often, mapmakers will insert fake places onto their maps, in order to protect their copyright. Because then, if my fake place shows up on your map, I can be well and truly sure that you have robbed me. Agloe is a scrabblization of the initials of the two guys who made this map, Ernest Alpers and Otto [G.] Lindberg, and they released this map in 1937. Decades later, Rand McNally releases a map with Agloe, New York, on it, at the same exact intersection of two dirt roads in the middle of nowhere. Well, you can imagine the delight over at General Drafting. They immediately call Rand McNally, and they say, "We've caught you! We made Agloe, New York, up. It is a fake place. It's a paper town. We're going to sue your pants off!" And Rand McNally says, "No, no, no, no, Agloe is real." Because people kept going to that intersection of two dirt roads --
Agloe, New York, rất nổi tiếng với những người vẽ bản đồ, bởi vì nó là một thị trấn giấy. Nó còn được biến đến như một cái bẫy bản quyền. Những người vẽ bản đồ -- bởi vì tấm bản đồ New York của tôi và của bạn đều sẽ rất giống nhau, do hình dáng New York -- thông thường, những người vẽ sẽ thêm vào các địa điểm giả vào bản đồ của họ, để bảo vệ quyền tác giả của họ. Nếu địa điểm ảo đó của tôi xuất hiện trên bản đồ của bạn, tôi có thể chắc chắn rằng bạn đã ăn trộm của tôi. Agloe là sự kết hợp từ tên họ viết tắt của hai người tạo nên tấm bản đồ này. Ernest Alpers và Otto [G.] Lindberg, và họ phát hành nó vào năm 1937. Nhiều thập kỉ sau, Rand McNally phát hành một tấm bản đồ có Agloe, New York, ở trên nó, ở chính vị trí giao nhau của hai con đường đất ở một nơi hẻo lánh. Bạn có thể tưởng tượng ra sự vui mừng của General Drafting. Họ lập tức gọi cho Rand McNally, và nói, "Chúng tôi bắt tóm được ông rồi nhé! chúng tôi đã bịa ra Agloe, New York. Nó là giả. Nó là một thị trấn trên giấy. Chúng tôi sẽ kiện ông!." Và Rand McNally nói, "Không, không, không, không Agloe là có thật" Bời vì người ta cứ đến điểm giao của hai con đường đất đó --
(Laughter)
(Cười)
in the middle of nowhere, expecting there to be a place called Agloe -- someone built a place called Agloe, New York.
ở một nơi hẻo lánh, hy vọng rằng có một nơi tên là Agloe -- ai đó tạo nên địa điểm tên là Agloe, New York.
(Laughter)
(Cười)
It had a gas station, a general store, two houses at its peak.
Nó có trặm xăng, của hàng tạp hoá, hai ngôi nhà ở trên đỉnh.
(Laughter)
(Cười)
And this is of course a completely irresistible metaphor to a novelist, because we would all like to believe that the stuff that we write down on paper can change the actual world in which we're actually living, which is why my third book is called "Paper Towns".
Và điều này là một sự ẩn dụ vô cùng thú vị đối với các nhà văn, bởi vì chúng ta đều thích tin vào những gì ta ghi trên giấy có thể thay đổi được thế giới thực mà ta đang sống, đó là lý do cuốn sách thứ ba của tôi có tên là "Thị trấn giấy".
But what interests me ultimately more than the medium in which this happened, is the phenomenon itself. It's easy enough to say that the world shapes our maps of the world, right? Like the overall shape of the world is obviously going to affect our maps. But what I find a lot more interesting is the way that the manner in which we map the world changes the world. Because the world would truly be a different place if North were down. And the world would be a truly different place if Alaska and Russia weren't on opposite sides of the map. And the world would be a different place if we projected Europe to show it in its actual size. The world is changed by our maps of the world. The way that we choose -- sort of, our personal cartographic enterprise, also shapes the map of our lives, and that in turn shapes our lives.
nhưng cuối cùng điều thu hút tôi nhiều hơn cách điều này xảy ra, là ở bản thân hiện tượng. Nó thật dễ dàng để nó rằng thế giới định hình những tấm bản đồ, đúng không? Giống như hình dáng tổng thể của thế giới hiển nhiên sẽ quy định những tấm bản đồ. Nhưng điều mà tôi thấy thú vị hơn là cách thức mà cách những tấm bản đồ của chúng ta thay đổi thế giới. Bời vì thế giới sẽ chắc chắn là một nơi khác nếu cực Bắc ở phía dưới. Và nó sẽ là một nơi hoàn toàn khác biệt nếu Alaska và Nga không ở hai phía đối diện của bản đồ. Và thế giới sẽ là một nơi khác nếu chúng ta chiếu châu Âu để cho thấy kích thước thật của nó. Thế giới bị thay đổi bởi những tấm bản đồ của chúng ta. Cách mà chúng ta lựa chọn -- kiểu như, doanh nghiệp bản đồ của chúng ta, cũng ảnh hưởng tới bản đồ của cuộc sống chúng ta, và nó lần lượt thay đổi cuộc sống của ta.
I believe that what we map changes the life we lead. And I don't mean that in some, like, secret-y Oprah's Angels network, like, you-can-think-your-way- out-of-cancer sense. But I do believe that while maps don't show you where you will go in your life, they show you where you might go. You very rarely go to a place that isn't on your personal map.
Tôi tin rằng cái chúng ta vẽ trên bản đồ thay đổi cuộc sống mà ta lãnh đạo. Và tôi không có ý là trong một trường hợp, như mạng lưới bí mật Oparah Angels, như, cảm giác bạn-có-thể-nghĩ -cách-thoát-khỏi-ung-thư. Nhưng tôi tin rằng khi bản đồ không chỉ cho bạn nơi bạn sẽ đi đến trong cuộc đời, chúng sẽ chỉ cho bạn nơi bạn có thể đến. Bạn gần như không đi đến một nơi nào đó mà không có trên bản đồ của mình.
So I was a really terrible student when I was a kid. My GPA was consistently in the low 2s. And I think the reason that I was such a terrible student is that I felt like education was just a series of hurdles that had been erected before me, and I had to jump over in order to achieve adulthood. And I didn't really want to jump over these hurdles, because they seemed completely arbitrary, so I often wouldn't, and then people would threaten me, you know, they'd threaten me with this "going on [my] permanent record," or "You'll never get a good job." I didn't want a good job! As far as I could tell at eleven or twelve years old, like, people with good jobs woke up very early in the morning,
Vì vậy tôi là một học sinh kém khi tôi còn nhỏ. Điểm GPA của tôi luôn luôn ở 2. Và tôi nghĩ lý do tôi là một học sinh kém là vì tôi cảm thấy như giáo dục chỉ giống như 1 chuỗi các rào cản đã được dựng lên ở phía trước, và tôi vượt qua chúng để đạt được sự trưởng thành. Và tôi thực sự không muốn nhảy qua chúng, bởi vì chúng dường như hoàn toàn tuỳ tiện, vậy nên tôi sẽ không, và rồi mọi người đe doạ tôi, bạn biết đấy, họ đe doạ tôi thế này "tiếp tục với cái hồ sơ vĩnh viên của tôi," hoặc "Con sẽ không bao giờ có được một công việc tốt." Tôi không muốn một công việc tốt! Tất cả những gì tôi ở thế nói ở tuổi mười một, mười hai, giống như, những người có công việc tốt dậy rất sớm vào buổi sáng,
(Laughter)
(Cười)
and the men who had good jobs, one of the first things they did was tie a strangulation item of clothing around their necks. They literally put nooses on themselves, and then they went off to their jobs, whatever they were. That's not a recipe for a happy life. These people -- in my, symbol-obsessed, twelve year-old imagination -- these people who are strangling themselves as one of the first things they do each morning, they can't possibly be happy. Why would I want to jump over all of these hurdles and have that be the end? That's a terrible end!
và người có công việc tốt, một trong những điều đầu tiên họ làm là thắt một thứ nghẹt thở lên cổ mình. Họ thực sự buộc thòng lọng vào cổ mình, rồi họ đi đến nơi làm việc, dù công việc đó là gì. Đó không phải là công thức cho sự hạnh phúc Những người đó -- trong những sự ám ảnh, suy nghĩa của đứa bé 12 tuổi trong tôi -- họ khiến việc tự thắt cổ mình thành một trong những việc thường nhật buổi sáng, họ không thể nào vui vẻ được. Vậy thì tại sao ta lại muốn nhảy qua những rào cản kia cơ chứ để rồi có kết cục như vậy? Đó là cái kết tồi tệ!
And then, when I was in tenth grade, I went to this school, Indian Springs School, a small boarding school, outside of Birmingham, Alabama. And all at once I became a learner. And I became a learner, because I found myself in a community of learners. I found myself surrounded by people who celebrated intellectualism and engagement, and who thought that my ironic oh-so-cool disengagement wasn't clever, or funny, but, like, it was a simple and unspectacular response to very complicated and compelling problems. And so I started to learn, because learning was cool. I learned that some infinite sets are bigger than other infinite sets, and I learned that iambic pentameter is and why it sounds so good to human ears. I learned that the Civil War was a nationalizing conflict, I learned some physics, I learned that correlation shouldn't be confused with causation -- all of these things, by the way, enriched my life on a literally daily basis. And it's true that I don't use most of them for my "job," but that's not what it's about for me. It's about cartography.
Và rồi, khi tôi ở lớp mười, tôi đến ngôi trường này, trường Indian Springs, ngôi trường nội trú nhỏ, ở ngoại ô Birmingham, Alabama. Và đột nhiên tôi muốn học. Tôi muốn học, vì tôi nhận ra tôi đang ở trong một cộng đồng những người ham học. Tôi thấy xung quanh mình là những con người tôn trọng tri thức và tham vọng, và ai lại nghĩ ý kiến cổ hủ đầy mỉa mai của tôi thật sự không thông minh, hay hài hước, mà chỉ là một câu trả lời nông cạn cho một vấn đề thật sự phức tạp nhưng hấp dẫn. Và tôi bắt đầu học, vì học tập thật tuyệt vời. Tôi học được vài tập vô hạn lại lớn hơn các tập vô hạn khác, và tôi học được thơ năm nhịp đôi là gì và tại sao nó lại thích hợp với tai người. Tôi học được rằng cuộc nội chiến là một xung đột được quốc gia hoá, tôi học một chút vật lý, tôi biết được sự tương quan không nên bị nhầm lẫn với nhân quả -- tất cả những điều này, nhân tiện, làm giàu thêm cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Và đúng là tôi không sử dụng chúng nhiều trong "công việc" của tôi, nhưng thật sự thì những thứ đó không giành cho tôi. Mà là cho việc vẽ bản đồ.
What is the process of cartography? It's, you know, sailing upon some land, and thinking, "I think I'll draw that bit of land," and then wondering, "Maybe there's some more land to draw." And that's when learning really began for me. It's true that I had teachers that didn't give up on me, and I was very fortunate to have those teachers, because I often gave them cause to think there was no reason to invest in me. But a lot of the learning that I did in high school wasn't about what happened inside the classroom, it was about what happened outside of the classroom. For instance, I can tell you that "There's a certain Slant of light, Winter Afternoons -- That oppresses, like the Heft Of Cathedral Tunes --" not because I memorized Emily Dickinson in school when I was in high school, but because there was a girl when I was in high school, and her name was Amanda, and I had a crush on her, and she liked Emily Dickinson poetry. The reason I can tell you what opportunity cost is, is because one day when I was playing Super Mario Kart on my couch, my friend Emmet walked in, and he said, "How long have you been playing Super Mario Kart?" And I said, "I don't know, like, six hours?" and he said, "Do you realize that if you'd worked at Baskin-Robbins those six hours, you could have made 30 dollars, so in some ways, you just paid thirty dollars to play Super Mario Kart." And I was, like, "I'll take that deal."
Quá trình vẽ bản đồ là gì? Bạn biết đấy, ta giong buồm đến vùng đất nào đó rồi suy nghĩ, "Tôi nghĩ tôi sẽ vẽ thêm đất ở đây," và lại tự hỏi, "Có lẽ ngoài kia còn nhiều đất để vẽ." Và đó là khi việc học thật sự bắt đầu với tôi. Đúng là tôi có những giáo viên không quay lưng lại với tôi, và tôi đã thật sự may mắn khi có những giáo viên như vậy, vì tôi thường cho rằng mình vô vọng. Nhưng những gì tôi đã học ở cấp ba không hề nói về những việc xảy ra trong lớp học, mà chúng nói về những việc xảy ra ở ngoài kia. Ví dụ, tôi có thể nói với bạn rằng (thơ) "There's a certain Slant of light, Winter Afternoons -- That oppresses, like the Heft Of Cathedral Tunes --" không phải vì tôi học thuộc Emily Dickinson trên trường khi tôi học cấp ba, mà vì có một cô gái hồi cấp ba, tên cô ấy là Amanda, và tôi thích cô ấy, và cô ấy thích thơ văn của Emily Dickinson. Nguyên nhân tôi có thể cho bạn biết "chi phí cơ hội" là gì là vì một ngày, khi tôi đang chơi Super Mario Kart, bạn tôi Emmet bước vào và nói "Cậu chơi Super Mario Kart được bao lâu rồi?" Tôi trả lời, "Không biết, chắc cỡ 6 tiếng." rồi cậu ta nói, "Cậu nhận là nếu dùng 6 tiếng đó làm việc tại Baskin-Robbins, cậu có thể kiếm 30 đô-la, hay nói cách khác cậu vừa trả 30 đô-la để chơi Super Mario Kart đấy." Và tôi nói, "Chơi luôn."
(Laughter)
(Cười)
But I learned what opportunity cost is.
Nhưng tôi đã học được chi phí cơ hội là gì.
And along the way, the map of my life got better. It got bigger; it contained more places. There were more things that might happen, more futures I might have. It wasn't a formal, organized learning process, and I'm happy to admit that. It was spotty, it was inconsistent, there was a lot I didn't know. I might know, you know, Cantor's idea that some infinite sets are larger than other infinite sets, but I didn't really understand the calculus behind that idea. I might know the idea of opportunity cost, but I didn't know the law of diminishing returns. But the great thing about imagining learning as cartography, instead of imagining it as arbitrary hurdles that you have to jump over, is that you see a bit of coastline, and that makes you want to see more. And so now I do know at least some of the calculus that underlies all of that stuff.
Và với mỗi bước chân của tôi, tấm bản đồ của cuộc sống trở nên tốt hơn. Nó càng lớn ra; nó chứa nhiều địa điểm hơn. Càng nhiều khả năng hơn, tương lai của tôi lại càng tươi sáng hơn. Nó không phải là môt quá trình học tập nhàm chán đầy rằng buộc, và tôi tự hào khi thừa nhận việc đó. Nó có nhiều lổ hổng hay không liền mạch, nhiều thứ tôi chưa biết. Tôi có thể biết, như là, ý tưởng của Cantor: vài tập vô hạn lại lớn hơn các tập vô hạn khác, nhưng tôi không thật sự hiểu ý nghĩa đằng sau khái niệm đó. Tôi có thể biết khái niệm chi phí cơ hội, nhưng tôi không biết quy luật hiệu suất giảm dần. Nhưng điều tuyệt vời khi ví việc học như việc vẽ bản đồ, thay vì tưởng tượng nó như những rào cản bạn phải nhảy qua, mà giống như bạn thấy vết tích một vùng đất mới, và nó thôi thúc bạn tiếp tục. Và giờ tôi đã biết một chút về ý nghĩa ẩn bên trong tất cả những thứ đó.
So, I had one learning community in high school, then I went to another for college, and then I went to another, when I started working at a magazine called "Booklist," where I was an assistant, surrounded by astonishingly well-read people. And then I wrote a book. And like all authors dream of doing, I promptly quit my job.
Vậy là tôi đã trở nên ham học ở cấp ba, rồi tôi lên đại học rồi một trường nữa, rồi tôi bắt đầu làm việc cho tạp chí "Booklist", tôi làm trợ lý, nhưng xung quanh tôi là những con người tài giỏi. Và rồi tôi viết một cuốn sách. Và cũng như mơ ước của những người viết sách, Tôi nhanh chóng nghỉ việc.
(Laughter)
(Cười)
And for the first time since high school, I found myself without a learning community, and it was miserable. I hated it. I read many, many books during this two-year period. I read books about Stalin, and books about how the Uzbek people came to identify as Muslims, and I read books about how to make atomic bombs, but it just felt like I was creating my own hurdles, and then jumping over them myself, instead of feeling the excitement of being part of a community of learners, a community of people who are engaged together in the cartographic enterprise of trying to better understand and map the world around us.
Và lần đầu tiên kể từ ngày ở trường cấp ba, tôi thấy mình không còn ở trong một cộng đồng học tập, nó thật tồi tệ. Tôi ghét nó. Tôi đọc rất nhiều, rất nhiều sách trong suốt hai năm này. Tôi đọc sách về Stalin, và sách về cách người Uzbek tự xưng là người Hồi giáo, và tôi đọc sách về cách chế tạo bom nguyên tử, nhưng nó cứ như thể tôi đang tạo ra những rào cản cho mình, và rồi tự mình nhảy qua chúng, thay vì cảm thấy thích thú vì là một phần của cộng đồng học hỏi, một nhóm những người cộng tác với nhau trong sự nghiệp vẽ bản đồ đang cố gắng hiểu rõ hơn và vẽ lại thế giới xung quanh chúng ta.
And then, in 2006, I met that guy. His name is Ze Frank. I didn't actually meet him, just on the Internet. Ze Frank was running, at the time, a show called "The Show with Ze Frank," and I discovered the show, and that was my way back into being a community learner again. Here's Ze talking about Las Vegas:
Và rồi, năm 2006, tôi gặp anh chàng này. Tên anh ấy là Ze Frank. Tôi không thực sự gặp mặt anh ấy, chỉ qua Internet. Lúc đó, Ze Frank đang thực hiện chương trình "The Show with Ze Frank," và tôi phát hiện ra nó, và đó là con đường đưa tôi trở về với cộng đồng học hỏi. Ở đây, Ze đang nói về Las Vegas:
(Video) Ze Frank: Las Vegas was built in the middle of a huge, hot desert. Almost everything here was brought from somewhere else -- the sort of rocks, the trees, the waterfalls. These fish are almost as out of place as my pig that flew. Contrasted to the scorching desert that surrounds this place, so are these people. Things from all over the world have been rebuilt here, away from their histories, and away from the people that experience them differently. Sometimes improvements were made -- even the Sphinx got a nose job. Here, there's no reason to feel like you're missing anything. This New York means the same to me as it does to everyone else. Everything is out of context, and that means context allows for everything: Self Parking, Events Center, Shark Reef. This fabrication of place could be one of the world's greatest achievements, because no one belongs here; everyone does. As I walked around this morning, I noticed most of the buildings were huge mirrors reflecting the sun back into the desert. But unlike most mirrors, which present you with an outside view of yourself embedded in a place, these mirrors come back empty.
(Video) Ze Frank: Las Vegas được xây dựng giữa sa mạc khổng lồ và nóng. Hầu hết mọi thức ở đây được đưa đến từ một nơi khác -- các loại đá, cây cối, thác nước. Những chú cá này ở đây có khi còn khó tin hơn nói lợn biết bay. Những thứ đó thật trái ngược với cái sa mạc bao quanh nơi này, những người ở đây cũng vậy. Những kì quan thế giới đã được dựng lại ở đây, tách biệt với lịch sử của chúng, tách biệt với những người hiểu chúng theo một cách khác. Vài tinh chỉnh đã được thêm vào -- kể cả con Nhân sư cũng được sửa mũi. Ở đây, bạn không có lý do nào để cảm thấy thiếu thốn thứ gì cả. Thành phố New York này đối với tôi cũng như đối với mọi người. Mọi thứ không đi theo khuôn mẫu nào cả, Bãi đổ xe, Trung tâm hội nghị, Hang cá mập . Sự sắp đặt các địa điểm thế này có thể là thành tựu lớn nhất của thế giới, bởi vì mọi người đều cảm thấy thuộc về nơi này. Khi tôi đi dạo sáng hôm nay, tôi để ý thấy các tòa nhà cao tầng như những tấm gương lớn phản chiếu ánh mặt trời vào sa mạc. Nhưng không giống loại gương thường, Những tấm gương này không có bóng gì cả. John Green: Khiến tôi nhớ về những ngày
John Green: Makes me nostalgic for the days when you could see the pixels in online video.
mà bạn có thể thấy từng điểm ảnh trong các video trên mạng. (Cười)
(Laughter)
Ze không chỉ là học giả giỏi, anh ấy còn là người xây dựng cộng đồng đại tài.
Ze isn't just a great public intellectual, he's also a brilliant community builder, and the community of people that built up around these videos was in many ways a community of learners. So we played Ze Frank at chess collaboratively, and we beat him. We organized ourselves to take a young man on a road trip across the United States. We turned the Earth into a sandwich, by having one person hold a piece of bread at one point on the Earth, and on the exact opposite point of the Earth, have another person holding a piece of bread. I realize that these are silly ideas, but they are also "learny" ideas, and that was what was so exciting to me, and if you go online, you can find communities like this all over the place. Follow the calculus tag on Tumblr, and yes, you will see people complaining about calculus, but you'll also see people re-blogging those complaints, making the argument that calculus is interesting and beautiful, and here's a way in to thinking about the problem that you find unsolvable. You can go to places like Reddit, and find sub-Reddits, like "Ask a Historian" or "Ask Science," where you can ask people who are in these fields a wide range of questions, from very serious ones to very silly ones. But to me, the most interesting communities of learners that are growing up on the Internet right now are on YouTube, and admittedly, I am biased. But I think in a lot of ways, the YouTube page resembles a classroom. Look for instance at "Minute Physics," a guy who's teaching the world about physics:
những cộng đồng được dựng lên từ những video này cũng tương tự như cộng đồng học tập. Vậy là ta đã thắng Ze Frank ở ván cờ hợp tác. Chúng tôi đã sắp xếp để đưa một chàng trai trẻ đi khắp nước Mĩ. Chúng tôi biến Trái Đất thành bánh sandwich bằng cách cho hai người hai người, mỗi người giữ một miếng bánh, đứng cách nhau đúng một vòng Trái Đất. Tôi có nhận ra rằng những ý tưởng này khá ngớ ngẩn nhưng chúng rất bổ ích, và điều đó khiến tôi cảm thấy hào hứng, và nếu bạn lên mạng, bạn có thể tìm thấy những cộng đồng thế này ở khắp mọi nơi. Lần theo tag "calculus" trên Tumblr, và bạn sẽ thấy người ta phàn nàn về toán học (calculus), nhưng bạn cũng sẽ thấy nhiều người không đồng tình, tạo ra những cuộc tranh luận về sự đẹp đẽ và thú vị của phép tính. và đây là cách bạn tìm câu trả lời cho những câu hỏi bạn không giải được. Bạn có thể vào những trang như Reddit, và tìm các sub-Reddits, như "Hỏi một sử gia" hay "Hỏi về khoa học", bạn có thể hỏi những người chuyên ngành trong những lĩnh vực khác nhau với mọi kiểu câu hỏi, từ những câu nghiêm túc đến những câu ngớ ngẩn. Nhưng đối với tôi, cộng đồng học tập thú vị nhất và đang lớn dần lên trên Internet hiện nay là Youtube, và thú thật, tôi có hơi thiên vị. Những xét cho kỹ, trang YouTube hiện nay tương tự một lớp học. Lấy ví dụ như "Minute Physics", kênh của anh chàng thích giảng cho mọi người về vật lý:
(Video) Let's cut to the chase. As of July 4, 2012, the Higgs boson is the last fundamental piece of the standard model of particle physics to be discovered experimentally. But, you might ask, why was the Higgs boson included in the standard model, alongside well-known particles like electrons and photons and quarks, if it hadn't been discovered back then in the 1970s? Good question. There are two main reasons. First, just like the electron is an excitation in the electron field, the Higgs boson is simply a particle which is an excitation of the everywhere-permeating Higgs field. The Higgs field in turn plays an integral role in our model for the weak nuclear force. In particular, the Higgs field helps explain why it's so weak. We'll talk more about this in a later video, but even though weak nuclear theory was confirmed in the 1980s, in the equations, the Higgs field is so inextricably jumbled with the weak force, that until now we've been unable to confirm its actual and independent existence.
(Video) Cùng đi vào vấn đề nào. Tính đến ngày 4 tháng 7 2012, hạt Higgs là mảnh ghép nền tảng cuối cùng của mô hình tiêu chuẩn của vật lý hạt được phát hiện qua các thí nghiệm. Bạn có thể đang thắc mắc, tại sao hạt Higgs lại xuất hiện trong mô hình tiêu chuẩn, cùng với các hạt phổ biến như electron, photon và quark khi mà nó còn chưa được tìm thấy vào những năm 1970? Hỏi hay đấy. Có hai lý do chính. Đầu tên, cũng như hạt electron là sự kích thích trong trường electron. hạt Higgs cũng vậy nó là sự kích thích trong trường Higgs, loại trường tồn tại ở mọi nơi trong vũ trụ. Trường Higgs lại đóng vai trò quan trọng trong mô hình lực hạt nhân yếu. Cụ thể, trường Higgs giúp giải thích tại sao nó lại yếu như vậy. Chúng ta sẽ nói về vấn đề này ở một video sau. Dù thuyết hạt nhân yếu đã được xác minh từ những năm 1980 bằng các phương trình, trường Higgs tồn tại lẫn trong sự hỗn độn của lực yếu nên ta không thể khẳng định sự tồn tại độc lập của nó, cho đến nay.
JG: Or here's a video that I made as part of my show "Crash Course," talking about World War I:
JG: Hoặc một video tôi làm trong chương trình "Crash Course", nó nói về chiến tranh thế giới thứ nhất.
(Video) The immediate cause was of course the assassination in Sarajevo of the Austrian Archduke Franz Ferdinand, on June 28, 1914, by a Bosnian-Serb nationalist named Gavrilo Princip. Quick aside: It's worth noting that the first big war of the twentieth century began with an act of terrorism. So Franz Ferdinand wasn't particularly well-liked by his uncle, the emperor Franz Joseph -- now that is a mustache! But even so, the assassination led Austria to issue an ultimatum to Serbia, whereupon Serbia accepted some, but not all, of Austria's demands, leading Austria to declare war against Serbia. And then Russia, due to its alliance with the Serbs, mobilized its army. Germany, because it had an alliance with Austria, told Russia to stop mobilizing, which Russia failed to do, so then Germany mobilized its own army, declared war on Russia, cemented an alliance with the Ottomans, and then declared war on France, because, you know, France.
(Video) Nguyên nhân trực tiếp dĩ nhiên là do vụ ám sát Thái tử Franz Ferdinand của Áo ở Sarajevo vào ngày 28 tháng 6, 1914. Thủ phạm là nhà cách mạng Cộng hòa Srpska có tên Gavrilo Princip. Ngoài ra, ta nên lưu ý rằng chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra bởi một hành động khủng bố. Mặc dù Franz Ferdinand không được sự tín nhiệm từ người chú - hoàng đế Franz Joseph -- như vậy mới gọi là râu chứ! Nhưng cuộc ám sát đã tạo điều kiện cho Áo gửi tối hậu thư cho Serbia, và Serbia đã chấp nhận một phần, không phải tất cả, yêu cầu của Áo khiến Áo tuyên bố chiến tranh với Serbia. rồi đến Nga, đồng minh của Serbia, tiến hành huy động quân đội. Đức, đồng minh của Áo, yêu cầu Nga dừng việc huy động nhưng Nga không chấp thuận, nên Đức liền huy động quân đội của họ, và tuyên chiến với Nga, củng cố tình đồng minh với Đế quốc Ottoman rồi tuyên chiến với Pháp, vì, bạn biết đấy, Pháp.
(Laughter)
(Cười)
And it's not just physics and world history that people are choosing to learn through YouTube. Here's a video about abstract mathematics.
Không chỉ có vật lý và lịch sử thế giới là thứ người ta học qua Youtube. Đây là một video về toán học trừu tượng.
(Video) So you're me, and you're in math class yet again, because they make you go every single day. And you're learning about, I don't know, the sums of infinite series. That's a high school topic, right? Which is odd, because it's a cool topic, but they somehow manage to ruin it anyway. So I guess that's why they allow infinite series in the curriculum. So, in a quite understandable need for distraction, you're doodling and thinking more about what the plural of "series" should be than about the topic at hand: "serieses," "seriese," "seriesen," and "serii?" Or is it that the singular should be changed: one "serie," or "serum," just like the singular of "sheep" should be "shoop." But the whole concept of things like 1/2 + 1/4 + 1/8 + 1/16 and so on approaches one, is useful if, say, you want to draw a line of elephants, each holding the tail of the next one: normal elephant, young elephant, baby elephant, dog-sized elephant, puppy-sized elephant, all the way down to Mr. Tusks and beyond. Which is at least a tiny bit awesome, because you can get an infinite number of elephants in a line, and still have it fit across a single notebook page.
(Video) Bạn là tôi, và bạn đang ở trong một tiết toán, vì họ bắt bạn học thứ đó hàng ngày. Và bạn đang học... tổng của dãy vô hạn. Nó nằm trong chương trình học cấp ba phải không? Mặc dù nó là chủ đề thú vị, nhưng họ lại khiến nó thật nhàm chán. Vậy nên tôi đoán đó là lí do họ cho dãy vô hạn vào chương trình học. Vì vậy, để tránh bị giáo viên chú ý, bạn vẽ vào vở thay vì chép bài và nghĩ xem viết từ "dãy" (series) ở dạng số nhiều thế nào thay vì nghĩ về bài học: "serieses," "seriese," "seriesen," hay "serii"? hay ở dạng số ít thế nào: một "serie", hay "serum", như dạng số ít của "sheep" là "shoop". Nhưng cái khái niệm ở đây, ví dụ 1/2 + 1/4 + 1/8 + 1/16 + ... thật ra cũng có ích nếu như chẳng hạn bạn muốn vẽ một hàng voi, mỗi con đều nối đuôi nhau: voi cỡ thường, voi nhỏ, voi sơ sinh, voi có kích cỡ con chó, rồi đến cỡ chó con, xuống tận kích cỡ của Mr. Tusk và tiếp tục. Và điều hay ho ở đây là bạn có thể vẽ số lượng voi vô hạn trên một hàng, mà chỉ cần vỏn vẹn một trang vở.
JG: And lastly, here's Destin, from "Smarter Every Day," talking about the conservation of angular momentum, and, since it's YouTube, cats:
JG: Và cuối cùng là Destin từ "Smarter Every Day", nói về tính bảo toàn của momen động lượng, vì đây là Youtube, nên, mèo:
(Video) Hey, it's me, Destin. Welcome back to "Smarter Every Day." So you've probably observed that cats almost always land on their feet. Today's question is: why? Like most simple questions, there's a very complex answer. For instance, let me reword this question: How does a cat go from feet-up to feet-down in a falling reference frame, without violating the conservation of angular momentum?
(Video) Chào, tôi Destin đây. Chào mừng trở lại với "Smarter Every Day". Có lẽ bạn đã biết rằng mèo luôn tiếp đất bằng chân của nó. Câu hỏi hôm là: tại sao? Câu trả lời cho những câu hỏi đơn giản thường rất phức tạp. Ví dụ, tôi sẽ thay đổi câu hỏi một chút: Làm thế nào mà con mèo có thể xoay mình trong khung tham chiếu theo chiều rơi mà không vi phạm tính bảo toàn của momen động lượng?
(Laughter)
(Cười)
JG: So, here's something all four of these videos have in common: They all have more than half a million views on YouTube. And those are people watching not in classrooms, but because they are part of the communities of learning that are being set up by these channels. And I said earlier that YouTube is like a classroom to me, and in many ways it is, because here is the instructor -- it's like the old-fashioned classroom: here's the instructor, and then beneath the instructor are the students, and they're all having a conversation. And I know that YouTube comments have a very bad reputation in the world of the Internet, but in fact, if you go on comments for these channels, what you'll find is people engaging the subject matter, asking difficult, complicated questions that are about the subject matter, and then other people answering those questions. And because the YouTube page is set up so that the page in which I'm talking to you is on the exact -- the place where I'm talking to you is on the exact same page as your comments, you are participating in a live and real and active way in the conversation. And because I'm in comments usually, I get to participate with you. And you find this whether it's world history, or mathematics, or science, or whatever it is.
JG: Ta có thể thấy cả bốn video đều có điểm chung: chúng đều có hơn nửa triệu lượt xem trên Youtube. Và những người xem nó không phải đang trong một lớp học, mà vì họ là một phần của cộng đồng học tập được dựng lên bởi những kênh này. Và như tôi đã nói, Youtube giống như một lớp học với tôi, và điều đó đúng ở nhiều mặt, vì đây là người hướng dẫn -- như một lớp học bình thường: đây là người hướng dẫn, và bên dưới người hướng dẫn là các học sinh, và các học sinh đang thảo luận với nhau. Tôi biết rằng những bình luận trên Youtube được đánh giá thấp trong thế giới Internet, nhưng thật ra, nếu bạn vào bình luận trên các kênh này, bạn sẽ thấy mọi người đang tập trung vào chủ đề, hỏi những câu hỏi khó về chủ đề, và rồi có người trả lời những câu hỏi đó. Và tất cả những video Youtube tôi nói với bạn sẽ luôn ở đó, đúng vị trí mà tôi đã thấy luôn nằm trên trang cố định khi bạn gõ bình luận, bạn đang tham gia vào một cuộc thảo luận có thực và nó luôn sôi động. Và vì tôi cũng hay bình luận, tôi cũng có thể gia nhập với bạn. Và bạn có thể thấy điều này dù là lịch sử thế giới, hay toán học hay khoa học hay cái gì đi nữa.
You also see young people using the tools and the sort of genres of the Internet in order to create places for intellectual engagement, instead of the ironic detachment that maybe most of us associate with memes and other Internet conventions -- you know, "Got bored. Invented calculus." Or, here's Honey Boo Boo criticizing industrial capitalism:
Bạn cũng có thể thấy giới trẻ hiện nay sử dụng các công cụ trên mạng Internet để tạo ra nơi trao đổi tri thức thay vì nơi để chạy trốn khỏi nó tiêu biểu là ảnh chế hay nhiều sáng chế khác trên Internet -- ví dụ như, "Ông trời rảnh quá nên đã tạo ra toán học". Hay Honey Boo Boo chỉ trích chủ nghĩa công nghiệp tư bản:
["Liberal capitalism is not at all the Good of humanity. Quite the contrary; it is the vehicle of savage, destructive nihilism."]
["Chủ nghĩa công nghiệp tư bản không phải là tất cả cái tốt của nhân loại. Ngược lại; nó là công cụ càn quét, chủ nghĩa hư vô phá hoại."]
In case you can't see what she says ... yeah.
I really believe that these spaces, these communities, have become for a new generation of learners, the kind of communities, the kind of cartographic communities that I had when I was in high school, and then again when I was in college. And as an adult, re-finding these communities has re-introduced me to a community of learners, and has encouraged me to continue to be a learner even in my adulthood, so that I no longer feel like learning is something reserved for the young. Vi Hart and "Minute Physics" introduced me to all kinds of things that I didn't know before. And I know that we all hearken back to the days of the Parisian salon in the Enlightenment, or to the Algonquin Round Table, and wish, "Oh, I wish I could have been a part of that, I wish I could have laughed at Dorothy Parker's jokes." But I'm here to tell you that these places exist, they still exist. They exist in corners of the Internet, where old men fear to tread.
Tôi thực sự tin rằng những không gian này, những cộng đồng này đã được dựng lên cho thế hệ trẻ ham học, loại cộng đồng thế này, cộng đồng vẽ bản đồ như thế này mà tôi đã từng tham gia hồi cấp ba, rôi đại học. Và khi tôi cố gắng tìm lại nó khi đã trưởng thành đã cho tôi biết sự tồn tại của một cộng đồng học tập luôn thôi thúc tôi học hỏi thêm ngay cả khi đã là người lớn, nhờ vậy tôi không còn cảm thấy học tập là thứ gì đó giành cho giới trẻ. Vi Hart và "Minute Physics" đã dạy cho tôi những kiến thức tôi chưa từng được biết. Và tôi biết rằng chúng ta đều hoài niệm về những phòng khách Paris trong thời kì Khai Sáng, hay nhớ đến Algonquin Round Table, và ước, "Ôi, giá mà mình có mặt ở đó Mình ước mình có thể nghe những câu đùa của Dorothy Parker." Nhưng tôi nói cho bạn hay là những nơi này có tồn tại và chúng vẫn luôn như vậy. Chúng tồn tại ở một góc nào đó trên Internet. nơi mà người già không giám bước đến.
(Laughter)
(Cười)
And I truly, truly believe that when we invented Agloe, New York, in the 1960s, when we made Agloe real, we were just getting started.
Và tôi thật sự, thật sự tin rằng khi chúng ta vẽ nên Agloe, New York, vào những năm 60, khi ta biến Agloe thành sự thật, chúng ta chỉ mới bắt đầu.
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)