So the machine I'm going to talk you about is what I call the greatest machine that never was. It was a machine that was never built, and yet, it will be built. It was a machine that was designed long before anyone thought about computers.
Tôi sẽ kể các bạn nghe về cỗ máy mà tôi nghĩ là tuyệt diệu nhất từng có Đó là một cỗ máy chưa từng được tạo ra tuy nhiên, nó sẽ được tạo ra thôi. Cỗ máy được thiết kế rất lâu trước khi bất kỳ ai biết về máy vi tính.
If you know anything about the history of computers, you will know that in the '30s and the '40s, simple computers were created that started the computer revolution we have today, and you would be correct, except for you'd have the wrong century. The first computer was really designed in the 1830s and 1840s, not the 1930s and 1940s. It was designed, and parts of it were prototyped, and the bits of it that were built are here in South Kensington.
Nếu như bạn biết bất cứ điều gì về lịch sử của máy vi tính, bạn sẽ biết là trong những năm 1930 và 1940, những máy tính đơn giản được tạo ra bắt đầu cho cuộc cách mạng máy tính như ngày nay, có thể bạn đúng, trừ việc bạn đã đoán nhầm thế kỷ. Chiếc máy tính đầu tiên thực sự được thiết kế từ những năm 1830 và 1840, chứ không phải 1930 và 1940. Nó đã được thiết kế, và nhiều phần là nguyên bản, và vài trong số đó được tạo ra ở đây, tại miền nam Kensington.
That machine was built by this guy, Charles Babbage. Now, I have a great affinity for Charles Babbage because his hair is always completely unkempt like this in every single picture. (Laughter) He was a very wealthy man, and a sort of, part of the aristocracy of Britain, and on a Saturday night in Marylebone, were you part of the intelligentsia of that period, you would have been invited round to his house for a soiree — and he invited everybody: kings, the Duke of Wellington, many, many famous people — and he would have shown you one of his mechanical machines.
Cỗ máy đã được tạo ra bởi anh chàng tên Charles Babbage. Tôi có cảm giác cực kỳ thân thuộc với Charles Babbage bởi vì tóc của anh ta luôn luôn không được chải như thế này trong mọi bức ảnh. Anh ta là một người giàu có và kiểu như thuộc tầng lớp quý tộc của nước Anh, và vào buổi tối thứ bảy tại Marylebone, nếu bạn là một phần của giới trí thức thời đó, bạn sẽ được mời tới nhà của anh ta dự một buổi dạ hội- và anh ta mời tất cả mọi người: nhà vua, công tước Wellington, và nhiều, nhiều người nổi tiếng - và anh ta sẽ cho bạn xem một trong những cỗ máy cơ khí của mình.
I really miss that era, you know, where you could go around for a soiree and see a mechanical computer get demonstrated to you. (Laughter) But Babbage, Babbage himself was born at the end of the 18th century, and was a fairly famous mathematician. He held the post that Newton held at Cambridge, and that was recently held by Stephen Hawking. He's less well known than either of them because he got this idea to make mechanical computing devices and never made any of them.
Tôi thực sự nhớ kỷ nguyên đó, bạn biết đó, lúc mà bạn có thể đi dạo quanh buổi dạ hội và chiếc máy tính cơ khí thu hút sự chú ý của bạn. Nhưng Babbage, anh ta ra đời vào cuối thế kỷ thứ 18, và là một nhà toán học cực kỳ nổi tiếng. Ông giữ chức vụ mà Newton từng đảm nhiệm tại Cambridge, và gần đây là Stephen Hawking. Ông ít nổi tiếng hơn 2 người họ bởi vì ông có ý tưởng để làm thiết bị máy tính cơ khí và không bao giờ làm cái nào hết.
The reason he never made any of them, he's a classic nerd. Every time he had a good idea, he'd think, "That's brilliant, I'm going to start building that one. I'll spend a fortune on it. I've got a better idea. I'm going to work on this one. (Laughter) And I'm going to do this one." He did this until Sir Robert Peel, then Prime Minister, basically kicked him out of Number 10 Downing Street, and kicking him out, in those days, that meant saying, "I bid you good day, sir." (Laughter)
Lý do mà ông không làm bất kỳ cái máy nào, bởi ông là người vô cùng đam mê máy tính. Mỗi lần ông nghĩ ra một ý tưởng, ông ta nghĩ, "Thật là thông minh, mình sẽ bắt tay tạo ra nó. Mình sẽ tiêu cả gia tài vào nó. Mình có một ý tưởng hay hơn. Mình sẽ làm việc này. (Tiếng cười) Và mình sẽ làm điều này." Ông cứ làm vậy cho đến khi Sir Robert Peel, về sau là Thủ tướng, về cơ bản đã đá anh ra khỏi số 10 Downing Street, "đá ra ngoài", những ngày đó, nghĩa là , "Tôi chúc bạn ngày tốt lành, thưa ngài."
The thing he designed was this monstrosity here, the analytical engine. Now, just to give you an idea of this, this is a view from above. Every one of these circles is a cog, a stack of cogs, and this thing is as big as a steam locomotive. So as I go through this talk, I want you to imagine this gigantic machine. We heard those wonderful sounds of what this thing would have sounded like. And I'm going to take you through the architecture of the machine — that's why it's computer architecture — and tell you about this machine, which is a computer.
Thứ ông thiết kế là vật quái dị này, một cỗ máy phân tích. Bây giờ, để bạn hiểu rõ hơn, đây là góc nhìn từ trên xuống. Mỗi vòng tròn là một bánh răng, một chồng bánh răng, và thứ này lớn như một đầu xe lửa hơi nước. Vì vậy, trong suốt buổi nói chuyện này, tôi muốn bạn tưởng tượng về chiếc máy khổng lồ này. Chúng ta đã nghe những âm thanh tuyệt vời mà máy này có thể đã tạo ra. Tôi sẽ nói rõ hơn về cấu trúc của chiếc máy - đó là lý do tại sao đây là cấu trúc máy tính — và cho bạn biết về chiếc máy này, hay còn gọi là máy tính.
So let's talk about the memory. The memory is very like the memory of a computer today, except it was all made out of metal, stacks and stacks of cogs, 30 cogs high. Imagine a thing this high of cogs, hundreds and hundreds of them, and they've got numbers on them. It's a decimal machine. Everything's done in decimal. And he thought about using binary. The problem with using binary is that the machine would have been so tall, it would have been ridiculous. As it is, it's enormous. So he's got memory. The memory is this bit over here. You see it all like this.
Vậy hãy nói về bộ nhớ. Bộ nhớ này rất giống như bộ nhớ của một máy vi tính ngày nay, ngoại trừ nó đều được làm từ kim loại, bánh răng chồng bánh răng, cao đến 30 chiếc. Tưởng tượng một thứ có ngần đó bánh răng, hàng trăm và hàng trăm chồng như thế, và họ đánh số lên chúng. Đây là một máy thập phân. Tất cả mọi thứ được xử lý bằng thập phân. Và ông nghĩ đến việc sử dụng nhị phân. Vấn đề với việc sử dụng nhị phân là cái máy có thể sẽ rất cao, và sẽ trông kỳ cục. Nếu vậy thì, nó sẽ lớn vô cùng. Vì vậy, ông sử dụng bộ nhớ. Bộ nhớ là phần này. Bạn sẽ thấy nó trông như thế này.
This monstrosity over here is the CPU, the chip, if you like. Of course, it's this big. Completely mechanical. This whole machine is mechanical. This is a picture of a prototype for part of the CPU which is in the Science Museum.
Vật quái dị trên đây là CPU, hay có thể gọi là con chip nếu bạn muốn. Tất nhiên, nó lớn cỡ này. Hoàn toàn bằng cơ khí. Toàn bộ đều là cơ khí. Đây là một hình ảnh một nguyên mẫu trong một phần của CPU đặt ở Bảo tàng Khoa Học.
The CPU could do the four fundamental functions of arithmetic -- so addition, multiplication, subtraction, division -- which already is a bit of a feat in metal, but it could also do something that a computer does and a calculator doesn't: this machine could look at its own internal memory and make a decision. It could do the "if then" for basic programmers, and that fundamentally made it into a computer. It could compute. It couldn't just calculate. It could do more.
CPU có thể thực hiện bốn chức năng cơ bản của số học-- cộng, nhân, trừ, chia-- đã là một kỳ công trong giới kim loại, nhưng nó cũng có thể làm vài điều mà một chiếc máy tính làm được còn một dụng cụ tính toán thì không: máy này có thể nhìn vào bộ nhớ trong của nó và đưa ra quyết định. Nó có thể thực hiện các lệnh lập trình cơ bản "If ... then" (Nếu...thì) và về cơ bản nó trở thành một chiếc máy tính. Nó có thể tính toán. Nó chỉ không chỉ tính toán mà còn có thể làm được nhiều hơn nữa.
Now, if we look at this, and we stop for a minute, and we think about chips today, we can't look inside a silicon chip. It's just so tiny. Yet if you did, you would see something very, very similar to this. There's this incredible complexity in the CPU, and this incredible regularity in the memory. If you've ever seen an electron microscope picture, you'll see this. This all looks the same, then there's this bit over here which is incredibly complicated.
Bây giờ, hãy thử nhìn vào điều này, dừng lại một chút, và nghĩ về con chip của ngày hôm nay, chúng ta không thể nhìn bên trong một con chip bán dẫn vì nó quá nhỏ. Nhưng nếu như bạn muốn, bạn sẽ nhìn thấy một cái gì đó rất, rất giống với thứ này. Trong CPU, có sự phức tạp không tưởng này, và sự đều đặn đáng kinh ngạc này trong bộ nhớ. Nếu bạn đã bao giờ nhìn thấy hình ảnh kính qua hiển vi điện tử, bạn sẽ thấy điều này. Chúng trông y hệt nhau và nó có một chút ở đằng này, thứ cực kỳ phức tạp
All this cog wheel mechanism here is doing is what a computer does, but of course you need to program this thing, and of course, Babbage used the technology of the day and the technology that would reappear in the '50s, '60s and '70s, which is punch cards. This thing over here is one of three punch card readers in here, and this is a program in the Science Museum, just not far from here, created by Charles Babbage, that is sitting there — you can go see it — waiting for the machine to be built. And there's not just one of these, there's many of them. He prepared programs anticipating this would happen.
Tất cả các cơ chế bánh xe này ở đây vận hành giống một chiếc máy tính, nhưng tất nhiên bạn cần lập trình cho cái này, và dĩ nhiên, Babbage sử dụng công nghệ của thời đó và công nghệ xuất hiện những năm '50, '60 và '70, chính là thẻ đục lỗ. Vật trong ảnh chứa một trong ba phiếu bấm lỗ độc giả trong này, và đây là một chương trình tại Bảo tàng Khoa học, không xa lắm đâu, do Charles Babbage tạo ra, ngồi ở đó — bạn có thể đến xem nó — chờ cho máy được xây dựng. Và không phải chỉ là một trong số những cái này, mà còn có rất nhiều máy nữa. Ông đã chuẩn bị các chương trình dự đoán điều sẽ xảy ra.
Now, the reason they used punch cards was that Jacquard, in France, had created the Jacquard loom, which was weaving these incredible patterns controlled by punch cards, so he was just repurposing the technology of the day, and like everything else he did, he's using the technology of his era, so 1830s, 1840s, 1850s, cogs, steam, mechanical devices. Ironically, born the same year as Charles Babbage was Michael Faraday, who would completely revolutionize everything with the dynamo, transformers, all these sorts of things. Babbage, of course, wanted to use proven technology, so steam and things.
Bây giờ, lý do họ đã sử dụng thẻ đục lỗ là do Jacquard, tại Pháp, đã tạo ra máy dệt Jacquard, cái đã dệt nên những hoa văn tuyệt vời và được kiểm soát bởi các thẻ đục lỗ, do đó, ông chỉ sử dụng công nghệ của thời này, và như mọi thứ khác ông đã làm, ông đang sử dụng công nghệ của thời đại của mình, những năm 1830, 1840, 1850, những bánh răng, hơi nước, thiết bị cơ khí. Trớ trêu thay, sinh cùng năm với Charles Babbage là Michael Faraday, người đã cách mạng hóa toàn bộ mọi thứ máy phát điện, máy biến áp, các máy tương tự. Babbage, tất nhiên, muốn sử dụng công nghệ đã được chứng minh, là hơi nước và các thứ khác.
Now, he needed accessories. Obviously, you've got a computer now. You've got punch cards, a CPU and memory. You need accessories you're going to come with. You're not just going to have that,
Bây giờ, ông cần nhiều phụ kiện nữa. Rõ ràng, bây giờ bạn có một chiếc máy tính. Bạn có những tấm thẻ đục lỗ, CPU và bộ nhớ. Bạn cần các phụ kiện để phối hợp. Bạn sẽ không chỉ có vậy,
So, first of all, you had sound. You had a bell, so if anything went wrong — (Laughter) — or the machine needed the attendant to come to it, there was a bell it could ring. (Laughter) And there's actually an instruction on the punch card which says "Ring the bell." So you can imagine this "Ting!" You know, just stop for a moment, imagine all those noises, this thing, "Click, clack click click click," steam engine, "Ding," right? (Laughter)
trước hết, bạn đã có âm thanh. Bạn có một cái chuông, vì vậy, nếu có sai sót gì xảy ra hoặc chiếc máy cần bổ trợ thêm thứ gì đó, một cái chuông có thể giúp ích trong chuyện này. Và thực sự đã có một câu lệnh trên thẻ bấm lỗ ghi là "Rung chuông." Vì vậy bạn có thể hình dung ra âm thanh "Ting!" Hãy dừng lại một chút, tưởng tượng mọi loại âm thanh như là, "Click, click, click, click", tiếng động cơ hơi nước,"Ding," đúng không?
You also need a printer, obviously, and everyone needs a printer. This is actually a picture of the printing mechanism for another machine of his, called the Difference Engine No. 2, which he never built, but which the Science Museum did build in the '80s and '90s. It's completely mechanical, again, a printer. It prints just numbers, because he was obsessed with numbers, but it does print onto paper, and it even does word wrapping, so if you get to the end of the line, it goes around like that.
Rõ ràng, bạn cũng cần một máy in, và tất cả mọi người đều cần một máy in. Đây là hình ảnh của động cơ in ấn cho một chiếc máy khác của ông ấy, chiếc máy có tên Động Cơ Khác Biệt 2, mà ông không bao giờ tạo ra, nhưng Bảo tàng Khoa học thì có triển lãm trong những năm 80 và 90. Toàn bộ đều là cơ khí, một lần nữa, một máy in. Nó chỉ in số, bởi vì ông ấy bị ám ảnh với những con số, nhưng nó cũng in trên giấy, và nó thậm chí còn in được chữ, vì vậy, nếu bạn xem đến cuối dòng, nó sẽ như thế này.
You also need graphics, right? I mean, if you're going to do anything with graphics, so he said, "Well, I need a plotter. I've got a big piece of paper and an ink pen and I'll make it plot." So he designed a plotter as well, and, you know, at that point, I think he got pretty much a pretty good machine.
Bạn cũng cần đồ họa, phải không? Ý tôi là, nếu bạn sắp làm bất kỳ điều gì với đồ họa, do đó, ông nói, "Chà, mình cần máy vẽ đồ thị. Mình có một tờ giấy lớn và một cây bút mực và khiến nó tự động vẽ." Vì vậy ông cũng đã thiết kế một máy vẽ, và, bạn biết, vào thời điểm đó, tôi nghĩ rằng ông có khá nhiều máy móc hay ho.
Along comes this woman, Ada Lovelace. Now, imagine these soirees, all these great and good comes along. This lady is the daughter of the mad, bad and dangerous-to-know Lord Byron, and her mother, being a bit worried that she might have inherited some of Lord Byron's madness and badness, thought, "I know the solution: Mathematics is the solution. We'll teach her mathematics. That'll calm her down." (Laughter) Because of course, there's never been a mathematician that's gone crazy, so, you know, that'll be fine. (Laughter) Everything'll be fine. So she's got this mathematical training, and she goes to one of these soirees with her mother, and Charles Babbage, you know, gets out his machine. The Duke of Wellington is there, you know, get out the machine, obviously demonstrates it, and she gets it. She's the only person in his lifetime, really, who said, "I understand what this does, and I understand the future of this machine." And we owe to her an enormous amount because we know a lot about the machine that Babbage was intending to build because of her.
Đến người phụ nữ này, Ada Lovelace. Bây giờ, hãy tưởng tượng những buổi dạ hội, cùng những điều tuyệt vời đang diễn ra. Cô gái này là con gái của một người tồi tệ, điên rồ và nguy hiểm có tiếng tên là Lord Byron, và mẹ của cô, hơi lo lắng rằng cô có thể có thừa hưởng sự xấu xa và điên rồ của Lord Byron nghĩ rằng, "Mình biết giải pháp: Toán học chính là giải pháp." Chúng ta sẽ dạy toán cho con bé. Điều đó sẽ khiến con bé đằm tính lại." Bởi vì hiển nhiên, chưa bao giờ có một nhà toán học mà bị điên, Bạn biết đó, sẽ ổn thôi. Tất cả mọi thứ sẽ ổn. Vì vậy, cô ấy theo học ngành toán, và cô đi cùng mẹ đến một trong số các buổi dạ hội kia và Charles Babbage đã mang chiếc máy của mình ra, Công tước Wellington cũng ở đó, mang nó ra để trình diễn, và cô hiểu được. Cô thực sự là người duy nhất trong cuộc đời ông, nói, "Tôi hiểu máy này vận hành ra sao, và tôi hiểu được tương lai của cỗ máy này." Và chúng ta nợ cho cô ấy một khoản rất lớn bởi vì chúng ta biết có rất nhiều máy mà Babbage có ý định xây dựng là vì cô ấy.
Now, some people call her the first programmer. This is actually from one of -- the paper that she translated. This is a program written in a particular style. It's not, historically, totally accurate that she's the first programmer, and actually, she did something more amazing. Rather than just being a programmer, she saw something that Babbage didn't.
Một số người gọi cô là lập trình viên đầu tiên. Đây thực ra là một trong số những bài cô đã dịch. Đây là một chương trình được viết theo văn phong đặc biệt. Về mặt lịch sử, cô ấy không hẳn là lập trình viên đầu tiên, và trên thực tế, cô ấy đã làm điều gì đó tuyệt vời hơn. Thay vì chỉ là một lập trình viên, cô nhìn thấy điều mà Babbage không thấy,
Babbage was totally obsessed with mathematics. He was building a machine to do mathematics, and Lovelace said, "You could do more than mathematics on this machine." And just as you do, everyone in this room already's got a computer on them right now, because they've got a phone. If you go into that phone, every single thing in that phone or computer or any other computing device is mathematics. It's all numbers at the bottom. Whether it's video or text or music or voice, it's all numbers, it's all, underlying it, mathematical functions happening, and Lovelace said, "Just because you're doing mathematical functions and symbols doesn't mean these things can't represent other things in the real world, such as music." This was a huge leap, because Babbage is there saying, "We could compute these amazing functions and print out tables of numbers and draw graphs," — (Laughter) — and Lovelace is there and she says, "Look, this thing could even compose music if you told it a representation of music numerically." So this is what I call Lovelace's Leap. When you say she's a programmer, she did do some, but the real thing is to have said the future is going to be much, much more than this.
Babbage đã hoàn toàn bị ám ảnh với toán học. Ông đã chế tạo một cỗ máy để làm toán, và Lovelace nói, "Anh có thể làm nhiều hơn toán học" với chiếc máy này." Và cũng như bạn, lúc này, tất cả mọi người trong phòng này đều có một chiếc máy tính và một chiếc điện thoại. Nếu bạn xem kỹ chiếc điện thoại, từng thứ một trong đó hoặc máy tính hay bất kỳ thiết bị vi tính khác đều là toán học. Tất cả các số đều ở phía dưới. Cho dù đó là video hoặc văn bản, âm nhạc hay giọng nói, toàn bộ là những con số, ẩn phía sau chính là các hàm toán học đang hoạt động. và Lovelace nói, "Chỉ vì anh đang thực hiện các hàm và biểu tượng toán học không có nghĩa là những thứ này không thể đại diện những thứ khác trong thế giới thực, chẳng hạn như âm nhạc." Đây là một bước tiến lớn, bởi vì Babbage có nói, "Chúng ta có thể tính toán những hàm tuyệt vời này và in ra các bảng số và vẽ đồ thị," và Lovelace ở đó và cô ấy nói, "Xem nào, thứ này thậm chí có thể soạn nhạc nếu bạn xem nó là đại diện của âm nhạc một cách số học." Vì vậy, đây là những gì tôi gọi là bước nhảy vọt của Lovelace. Khi bạn nói cô là một lập trình viên, cô có làm một ít, nhưng thật ra cô đã nói về tương lai sẽ hơn, hơn thế này rất nhiều.
Now, a hundred years later, this guy comes along, Alan Turing, and in 1936, and invents the computer all over again. Now, of course, Babbage's machine was entirely mechanical. Turing's machine was entirely theoretical. Both of these guys were coming from a mathematical perspective, but Turing told us something very important. He laid down the mathematical foundations for computer science, and said, "It doesn't matter how you make a computer." It doesn't matter if your computer's mechanical, like Babbage's was, or electronic, like computers are today, or perhaps in the future, cells, or, again, mechanical again, once we get into nanotechnology. We could go back to Babbage's machine and just make it tiny. All those things are computers. There is in a sense a computing essence. This is called the Church–Turing thesis.
Một trăm năm sau, anh chàng này đến, Alan Turing, và vào năm 1936, phát minh ra máy tính một lần nữa. Tất nhiên, máy của Babbage hoàn toàn là cơ khí. Máy Turing hoàn toàn là lý thuyết. Cả hai người đều nhìn từ một quan điểm toán học, nhưng Turing nói với chúng ta một điều rất quan trọng. Ông đặt nền móng toán học cho khoa học máy tính, và nói, "Cách ta tạo ra máy vi tính thì không quan trọng" Không quan trọng nếu máy tính của bạn là cơ khí như của Babbage, hoặc điện tử như máy vi tính ngày nay, hoặc có lẽ trong tương lai, tế bào, hoặc, một lần nữa, lại là cơ khí, một khi chúng ta hướng đến công nghệ nano. Chúng ta có thể trở lại với máy của Babbage và làm nó thật nhỏ. Tất cả đều là máy tính. Điều dễ hiểu, đó là bản chất điện toán. Điều này được gọi là luận án Church–Turing.
And so suddenly, you get this link where you say this thing Babbage had built really was a computer. In fact, it was capable of doing everything we do today with computers, only really slowly. (Laughter) To give you an idea of how slowly, it had about 1k of memory. It used punch cards, which were being fed in, and it ran about 10,000 times slower the first ZX81. It did have a RAM pack. You could add on a lot of extra memory if you wanted to.
Đột nhiên, bạn nhận được liên kết này khi bạn nói về thứ mà Babbage đã tạo ra thực sự là một máy tính. Trong thực tế, đó là khả năng làm được mọi thứ chúng ta làm ngày nay cùng với máy tính, chỉ là rất chậm thôi. Để bạn hiểu nó chậm thế nào, nó có khoảng 1k bộ nhớ. Nó sử dụng thẻ đục lỗ có sẵn, và chạy chậm hơn khoảng 10.000 lần chiếc ZX81 đầu tiên. Nó có một gói RAM. Bạn có thể thêm rất nhiều thêm bộ nhớ nếu bạn muốn.
(Laughter) So, where does that bring us today? So there are plans. Over in Swindon, the Science Museum archives, there are hundreds of plans and thousands of pages of notes written by Charles Babbage about this analytical engine. One of those is a set of plans that we call Plan 28, and that is also the name of a charity that I started with Doron Swade, who was the curator of computing at the Science Museum, and also the person who drove the project to build a difference engine, and our plan is to build it. Here in South Kensington, we will build the analytical engine.
Vậy thì, điều đó mang gì cho chúng ta hôm nay? Có nhiều dự án. Ở tận Swindon, Bảo tàng Khoa học lưu trữ, có hàng trăm dự án và hàng ngàn trang ghi chú bởi Charles Babbage về động cơ phân tích này. Trong số đó là một tập hợp các dự án mà chúng tôi gọi là Dự án 28, và đó cũng là tên của một tổ chức từ thiện mà tôi đã bắt tay với Doron Swade, người quản lí máy tính tại Bảo tàng Khoa học, và cũng là người dẫn dắt dự án để tạo ra một công cụ khác biệt, và dự án của chúng tôi là tạo ra nó. Ở ngay South Kensington, chúng tôi sẽ xây dựng các cỗ máy phân tích.
The project has a number of parts to it. One was the scanning of Babbage's archive. That's been done. The second is now the study of all of those plans to determine what to build. The third part is a computer simulation of that machine, and the last part is to physically build it at the Science Museum.
Dự án được chia ra nhiều phần. Một là từ các lưu trữ của Babbage. Nó đã được hoàn thành. Bây giờ, thứ hai là nghiên cứu tất cả các dự án để xác định những gì cần xây dựng. Phần thứ ba là một mô phỏng máy tính của chiếc máy và phần cuối là tạo ra một chiếc có thật tại Bảo tàng Khoa học.
When it's built, you'll finally be able to understand how a computer works, because rather than having a tiny chip in front of you, you've got to look at this humongous thing and say, "Ah, I see the memory operating, I see the CPU operating, I hear it operating. I probably smell it operating." (Laughter) But in between that we're going to do a simulation.
Khi nó được xây dựng, bạn cuối cùng sẽ có thể hiểu một máy tính hoạt động ra sao, bởi vì thay vì có một chip nhỏ ở phía trước, bạn sẽ nhìn vào thứ to lớn này và nói, "Ah, tôi thấy bộ nhớ hoạt động, tôi thấy các CPU điều hành, Tôi nghe thấy nó hoạt động. Tôi có thể ngửi nó hoạt động." Nhưng ở phần mà chúng tôi sắp làm mô phỏng
Babbage himself wrote, he said, as soon as the analytical engine exists, it will surely guide the future course of science. Of course, he never built it, because he was always fiddling with new plans, but when it did get built, of course, in the 1940s, everything changed.
Babbage đã tự mình viết, "Chừng nào các cỗ máy phân tích tồn tại, nó chắc chắn sẽ dẫn đường cho tương lai của khoa học. Tất nhiên, ông không chế tạo nó, bởi vì ông luôn luôn nghĩ ra những kế hoạch mới, nhưng khi đã được xây dựng, tất nhiên, trong thập niên 1940, tất cả mọi thứ thay đổi.
Now, I'll just give you a little taste of what it looks like in motion with a video which shows just one part of the CPU mechanism working. So this is just three sets of cogs, and it's going to add. This is the adding mechanism in action, so you imagine this gigantic machine.
Bây giờ, tôi sẽ gợi ý cho bạn nó trông như thế nào khi hoạt động trong một video cho thấy một phần của CPU cơ khí làm việc. Đây là 3 bộ bánh răng, và sẽ thêm vào nữa. Đây là cơ chế thêm đang hoạt động. Bạn hãy tưởng tượng cả chiếc máy khổng lồ này.
So, give me five years. Before the 2030s happen, we'll have it.
Cho tôi 5 năm. Trước khi những năm 2030s xảy ra, chúng tôi sẽ hoàn thành nó.
Thank you very much. (Applause)
Cảm ơn rất nhiều. (Vỗ tay)