We live on a human-dominated planet, putting unprecedented pressure on the systems on Earth. This is bad news, but perhaps surprising to you, it's also part of the good news. We're the first generation -- thanks to science -- to be informed that we may be undermining the stability and the ability of planet Earth to support human development as we know it. It's also good news, because the planetary risks we're facing are so large, that business as usual is not an option. In fact, we're in a phase where transformative change is necessary, which opens the window for innovation, for new ideas and new paradigms. This is a scientific journey on the challenges facing humanity in the global phase of sustainability.
Chúng ta sống trên hành tinh thống trị bởi con người đặt gánh nặng chưa từng có lên hệ sinh thái của Trái Đất. Đó là tin xấu, nhưng có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên đó cũng là một phần của tin tốt. Chúng ta là thế hệ đầu tiên, nhờ có khoa học, được biết rằng chúng ta có lẽ đang phá hủy sự ổn định và khả năng của Trái Đất để phục vụ sự phát triển của loài người như ta biết. Đó cũng là một tin tốt, vì rủi ro trên Trái Đất mà ta đối mặt rất lớn, việc phát triển như cũ không còn là một lựa chọn nữa. Thực tế chúng ta đang ở giai đoạn mà thay đổi là điều cần thiết, để mở đường cho sự đổi mới, cho những ý tưởng và mô hình mới. Đây là hành trình khoa học mà nhân loại đối mặt với các thách thức trong giai đoạn toàn cầu của phát triển bền vững.
On this journey, I'd like to bring, apart from yourselves, a good friend, a stakeholder, who's always absent when we deal with the negotiations on environmental issues, a stakeholder who refuses to compromise -- planet Earth. So I thought I'd bring her with me today on stage, to have her as a witness of a remarkable journey, which humbly reminds us of the period of grace we've had over the past 10,000 years. This is the living conditions on the planet over the last 100,000 years. It's a very important period -- it's roughly half the period when we've been fully modern humans on the planet. We've had the same, roughly, abilities that developed civilizations as we know it. This is the environmental conditions on the planet.
Trong cuộc hành trình này, tôi muốn mang theo, ngoài chính mình, một người bạn tốt, một người liên quan, người luôn vắng mặt khi ta thực hiện các cuộc đàm phán về vấn đề môi trường, một người thuộc bên liên quan, người từ chối thỏa hiệp -- Trái Đất. Nên tôi sẽ mang cô ấy lên sân khấu hôm nay, để làm nhân chứng cho một hành trình đầy kinh ngạc, hành trình khiêm tốn nhắc nhở chúng ta về khoảng thời gian ân sủng chúng ta đã có trong 10,000 năm qua. Đây là điều kiện sống trên Trái Đất trong 100,000 năm qua. Một giai đoạn rất quan trọng, gần một nửa thời gian chúng ta tiến hóa thành loài người hiện đại trên Trái Đất Chúng ta có cùng, đại khái, khả năng phát triển các nền văn minh như đã biết. Đây là điều kiện môi trường trên hành tinh.
Here, used as a proxy, temperature variability. It was a jumpy ride. 80,000 years back in a crisis, we leave Africa, we colonize Australia in another crisis, 60,000 years back, we leave Asia for Europe in another crisis, 40,000 years back, and then we enter the remarkably stable Holocene phase, the only period in the whole history of the planet, that we know of, that can support human development. A thousand years into this period, we abandon our hunting and gathering patterns. We go from a couple of million people to the seven billion people we are today. The Mesopotamian culture: we invent agriculture, we domesticate animals and plants. You have the Roman, the Greek and the story as you know it. The only phase, as we know it that can support humanity.
Biến đổi nhiệt độ được dùng ở đây như một đại diện. Chuyến đi vất vả 80000 năm trước, trong một cuộc khủng hoảng, chúng ta rời Châu Phi, chiếm Úc làm thuộc địa một khủng hoảng khác 60000 năm trước, chúng ta rời khỏi Á để đến Âu và trong khủng hoảng khác, 40,000 năm trước, sau đó chúng ta tiến vào giai đoạn Holocen ổn định rất đáng chú ý, giai đoạn duy nhất trong toàn bộ lịch sử của Trái Đất, có thể hỗ trợ sự phát triển của con người. Một ngàn năm vào giai đoạn này, chúng ta từ bỏ săn bắn và hái lượm. Chúng ta từ một vài triệu người đến bảy tỷ người ngày nay. Nền văn hóa Lưỡng Hà: ta phát minh ra nông nghiệp, thuần hóa các loại cây trồng và vật nuôi. Bạn có La Mã, Hy Lạp và các câu chuyện như bạn biết đấy. Giai đoạn duy nhất, như chúng ta biết có thể hỗ trợ nhân loại.
The trouble is we're putting a quadruple sqeeze on this poor planet, a quadruple sqeeze, which, as its first squeeze, has population growth of course. Now, this is not only about numbers; this is not only about the fact that we're seven billion people committed to nine billion people, it's an equity issue as well. The majority of the environmental impacts on the planet have been caused by the rich minority, the 20 percent that jumped onto the industrial bandwagon in the mid-18th century. The majority of the planet, aspiring for development, having the right for development, are in large aspiring for an unsustainable lifestyle, a momentous pressure.
Vấn đề là chúng ta đang gây áp lực gấp 4 lần lên hành tinh tội nghiệp này, gấp bốn lần, so với áp lực ban đầu, trong đó, tất nhiên, có sự gia tăng dân số. Bây giờ, vấn đề không chỉ ở con số không chỉ ở con số bảy tỷ người mà dự đoán sẽ tăng đến chín tỷ, đó còn là vấn đề bình đẳng. Phần lớn các tác động môi trường trên hành tinh đều gây ra bởi các dân tộc thiểu số giàu có, 20% số đó chạy theo trào lưu công nghiệp hóa vào giữa thế kỷ 18. Phần lớn của hành tinh, khao khát phát triển, có quyền phát triển, đang có tham vọng lớn về một lối sống không bền vững, một áp lực trọng yếu.
The second pressure on the planet is, of course the climate agenda -- the big issue -- where the policy interpretation of science is that it would be enough to stabilize greenhouse gases at 450 ppm to avoid average temperatures exceeding two degrees, to avoid the risk that we may be destabilizing the West Antarctic Ice Sheet, holding six meters -- level rising, the risk of destabilizing the Greenland Ice Sheet, holding another seven meters -- sea level rising. Now, you would have wished the climate pressure to hit a strong planet, a resilient planet, but unfortunately, the third pressure is the ecosystem decline. Never have we seen, in the past 50 years, such a sharp decline of ecosystem functions and services on the planet, one of them being the ability to regulate climate on the long term, in our forests, land and biodiversity.
Áp lực thứ hai tất nhiên là vấn đề khí hậu -- vấn đề rất lớn -- nơi giải thích chiến lược khoa học cho rằng cần ổn định khí nhà kính ở mức 450ppm để tránh nhiệt độ trung bình vượt quá hai độ C, để tránh nguy cơ gây ra sự mất ổn định cho tầng băng Tây Nam Cực, thứ chứa đến 6m nước biển, nguy cơ gây bất ổn cho tầng băng Greenland, chứa bảy mét nước biển. Giờ bạn sẽ ước gì áp lực khí hậu sẽ đối đầu với một hành tinh mạnh mẽ, kiên cường nhưng không may, áp lực thứ ba là sự suy giảm hệ sinh thái. Ta chưa từng thấy, trong 50 năm qua, một sự suy giảm nghiêm trọng các chức năng của hệ sinh thái trên hành tinh, một trong đó là khả năng điều hòa khí hậu về lâu dài cho rừng, đất và nền đa dạng sinh học.
The forth pressure is surprise, the notion and the evidence that we need to abandon our old paradigm, that ecosystems behave linearly, predictably, controllably in our -- so to say -- linear systems, and that in fact, surprise is universal, as systems tip over very rapidly, abruptly and often irreversibly. This, dear friends, poses a human pressure on the planet of momentous scale. We may, in fact, have entered a new geological era -- the Anthropocene, where humans are the predominant driver of change at a planetary level.
Áp lực thứ tư thật bất ngờ, đó là quan điểm và bằng chứng cho việc phải từ bỏ mô hình cũ của chúng ta, rằng hệ sinh thái phản ứng tuyến tính, có thể dự đoán, có thể kiểm soát bởi các hệ thống tuyến tính của ta, và thực tế, bất ngờ là quy luật phổ biển, khi hệ thống thay đổi rất nhanh, đột ngột và thường không thể phục hồi. Điều này, các bạn thân mến, đã đặt áp lực của cả nhân loại lên Trái Đất với quy mô lớn. Chúng ta có lẽ, thực sự, đã bước vào kỷ nguyên địa chất mới giai đoạn Anthropocen, khi mà con người là tác nhân chính dẫn đến sự thay đổi ở cấp hành tinh.
Now, as a scientist, what's the evidence for this? Well, the evidence is, unfortunately, ample. It's not only carbon dioxide that has this hockey stick pattern of accelerated change. You can take virtually any parameter that matters for human well-being -- nitrous oxide, methane, deforestation, overfishing land degredation, loss of species -- they all show the same pattern over the past 200 years. Simultaneously, they branch off in the mid-50s, 10 years after the Second World War, showing very clearly that the great acceleration of the human enterprise starts in the mid-50s. You see, for the first time, an imprint on the global level. And I can tell you, you enter the disciplinary research in each of these, you find something remarkably important, the conclusion that we may have come to the point where we have to bend the curves, that we may have entered the most challenging and exciting decade in the history humanity on the planet, the decade when we have to bend the curves.
Bây giờ, ở góc độ khoa học, bằng chứng là gì? Chà, bằng chứng, thật không may, rất nhiều. Nó không chỉ là CO2 có biểu đồ thay đổi tăng dần. Bạn có thể lấy bất kỳ tham số nào có ý nghĩa quan trọng với sức khỏe con người, như nito oxit (N20), khí mê-tan, nạn phá rừng, đánh bắt quá mức thoái hóa đất đai, sự tuyệt chủng của các loài -- tất cả đều cho thấy một mô hình giống nhau trong suốt 200 năm qua. Đồng thời, chúng tách ra vào giữa những năm 50, 10 năm sau Thế chiến thứ hai, thể hiện rất rõ sự tăng tốc vượt bậc của các doanh nghiệp bắt đầu từ giữa những năm 50. Như bạn thấy, lần đầu tiên một dấu ấn trên phạm vi toàn cầu. Và tôi có thể nói với bạn, khi bạn tham gia nghiên cứu một trong những điều này, bạn tìm ra một điều gì đó đặc biệt quan trọng, mà kết luận là chúng ta có thể đã đi đến điểm mà ở đó chúng ta phải uốn các đường cong, Có lẽ chúng ta đã bước vào thập kỷ thử thách nhất, thú vị nhất trong lịch sử loài người trên hành tinh, thập kỷ mà chúng ta phải uốn các đường cong.
Now, as if this was not enough -- to just bend the curves and understanding the accelerated pressure on the planet -- we also have to recognize the fact that systems do have multiple stable states, separated by thresholds -- illustrated here by this ball and cup diagram, where the depth of the cup is the resilience of the system. Now, the system may gradually -- under pressure of climate change, erosion, biodiversity loss -- lose the depth of the cup, the resilience, but appear to be healthy and appear to suddenly, under a threshold, be tipping over. Upff. Sorry. Changing state and literally ending up in an undesired situation, where new biophysical logic takes over, new species take over, and the system gets locked.
Bây giờ, nếu điều này không đủ để hiểu việc uốn các đường cong và áp lực đang gia tăng lên hành tinh, chúng ta cũng phải thừa nhận thực tế là các hệ thống có nhiều trạng thái ổn định, ngăn cách bởi các ngưỡng được minh họa bởi quả bóng và biểu đồ cốc này trong đó độ sâu của cốc là khả năng phục hồi của hệ thống. Bây giờ, hệ thống có thể dần dần - dưới áp lực của biến đổi khí hậu, xói mòn, mất đa dạng sinh thái - mất đi độ sâu hay là khả năng phục hồi, nhưng dường như vẫn khỏe mạnh và rồi một cách bất ngờ, nằm dưới ngưỡng, bị lộn nhào. Upff. Xin lỗi. Việc thay đổi trạng thái và kết thúc theo đúng nghĩa đen trong một tình huống không mong đợi, nơi một hệ sinh thái mới sẽ thay thế, những loài mới tiếp quản, và hệ thống sẽ chốt lại.
Do we have evidence of this? Yes, coral reef systems. Biodiverse, low-nutrient, hard coral systems under multiple pressures of overfishing, unsustainable tourism, climate change. A trigger and the system tips over, loses its resilience, soft corals take over, and we get undesired systems that cannot support economic and social development. The Arctic -- a beautiful system -- a regulating biome at the planetary level, taking the knock after knock on climate change, appearing to be in a good state. No scientist could predict that in 2007, suddenly, what could be crossing a threshold. The system suddenly, very surprisingly, loses 30 to 40 percent of its summer ice cover. And the drama is, of course, that when the system does this, the logic may change. It may get locked in an undesired state, because it changes color, absorbs more energy, and the system may get stuck. In my mind, the largest red flag warning for humanity that we are in a precarious situation. As a sideline, you know that the only red flag that popped up here was a submarine from an unnamed country that planted a red flag at the bottom of the Arctic to be able to control the oil resources.
Liệu ta có bằng chứng về điều này? Có, các rạn san hô. Đa dạng sinh học, dinh dưỡng thấp, các rạn san hô đá dưới áp lực của việc đánh bắt quá mức, du lịch không bền vững, biến đổi khí hậu. Một nút bấm và cả hệ thống sụp đổ, mất đi khả năng phục hồi, tiếp đó là các loài san hô mềm, và chúng ta có hệ sinh thái không mong đợi không thể hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế-xã hội Bắc Cực - một hệ sinh thái tuyệt đẹp - một quần xã sinh vật cấp hành tinh, chịu cú đập liên tiếp từ biến đổi khí hậu, có vẻ như vẫn trong trạng thái tốt. Không nhà khoa học nào có thể dự đoán được vào 2007, cái gì có thể bất ngờ vượt qua ngưỡng. Hệ sinh thái đột ngột mất đi 30-40% lớp băng phủ vào mùa hè. Và hậu quả, dĩ nhiên, là khi hệ sinh thái như vậy, logic có thể thay đổi. Nó có thể bị khóa lại trong trạng thái không mong đợi vì nó thay đổi màu sắc, hấp thụ năng lượng nhiều hơn và cả hệ thống có thể bị kẹt. Trong tâm trí tôi, có lá cờ đỏ rất lớn cảnh báo cho nhân loại rằng chúng ta đang trong tình trạng bấp bênh. Bạn biết rằng lá cờ đỏ duy nhất xuất hiện ở đây là một tàu ngầm từ một quốc gia không tên nước đã cắm lá cờ đỏ ở đáy của Bắc Cực để có thể kiểm soát tài nguyên dầu.
Now, if we have evidence, which we now have, that wetlands, forests, [unclear] monsoon system, the rainforests, behave in this nonlinear way. 30 or so scientists around the world gathered and asked a question for the first time, "Do we have to put the planet into the the pot?" So we have to ask ourselves: are we threatening this extraordinarily stable Holocene state? Are we in fact putting ourselves in a situation where we're coming too close to thresholds that could lead to deleterious and very undesired, if now catastrophic, change for human development? You know, you don't want to stand there. In fact, you're not even allowed to stand where this gentleman is standing, at the foaming, slippery waters at the threshold. In fact, there's a fence quite upstream of this threshold, beyond which you are in a danger zone. And this is the new paradigm, which we gathered two, three years back, recognizing that our old paradigm of just analyzing and pushing and predicting parameters into the future, aiming at minimalizing environmental impacts, is of the past.
Giờ đây, nếu ta đã có bằng chứng, rằng các đầm lầy, các khu rừng, hệ thống gió mùa, rừng nhiệt đới, hoạt động theo kiểu phi tuyến tính này. 30 hoặc hơn các nhà khoa học trên toàn thế giới đã họp lại và đặt ra câu hỏi lần đầu tiên, "Chúng ta có phải bàn về Trái đất không?" Chúng ta phải tự hỏi mình: có phải ta đang đe dọa giai đoạn Holocen cực kỳ ổn định này? Có phải ta đang tự đẩy mình vào tình trạng mà ở đó ta tiến quá gần tới ngưỡng mà có thể dẫn đến những điều tồi tệ, hoàn toàn không mong đợi, nếu giờ thảm họa xảy ra, làm thay đổi sự phát triển của loài người? Bạn sẽ không muốn đứng ở đó, Thực tế, bạn thậm chí không được đứng ở nơi mà quý ông này đang đứng, vùng nước sủi bọt, trơn trượt ngay bờ vực ấy. Thực tế, có một hàng rào ở thượng dòng bờ vực này, vượt qua nó, bạn sẽ ở trong vùng nguy hiểm. Và đây là mô hình mới, mà chúng ta đã tập hợp trong 2-3 năm trước, cho thấy rằng mô hình cũ của chúng ta về việc phân tích, thúc đẩy và dự đoán các thông số trong tương lai, nhằm giảm thiểu các tác động môi trường, đã là quá khứ.
Now we to ask ourselves: which are the large environmental processes that we have to be stewards of to keep ourselves safe in the Holocene? And could we even, thanks to major advancements in Earth systems science, identify the thresholds, the points where we may expect nonlinear change? And could we even define a planetary boundary, a fence, within which we then have a safe operating space for humanity? This work, which was published in "Nature," late 2009, after a number of years of analysis, led to the final proposition that we can only find nine planetary boundaries with which, under active stewardship, would allow ourselves to have a safe operating space. These include, of course, climate. It may surprise you that it's not only climate. But it shows that we are interconnected, among many systems on the planet, with the three big systems, climate change, stratospheric ozone depletion and ocean acidification being the three big systems, where the scientific evidence of large-scale thresholds in the paleo-record of the history of the planet.
Giờ đây ta phải tự hỏi mình: những quá trình môi trường quan trọng nào mà ta phải quản lý để giữ chúng ta an toàn trong giai đoạn Holocen? Và ta thậm chí có thể, cảm ơn các tiến bộ lớn trong Khoa học hệ thống Trái Đất, xác định các ngưỡng, các điểm tại đó ta có thể ước tính sự thay đổi phi tuyến tính? Và liệu ta có thể chỉ ra ranh giới của hành tinh, một cái rào chắn, trong đó ta có một không gian an toàn cho toàn nhân loại. Việc này đã được công bố trên tạp chí "Nature" cuối năm 2009, sau nhiều năm phân tích, đã đưa kết luận cuối cùng rằng ta chỉ có thể tìm thấy chín ranh giới hành tinh mà với chúng, dưới sự quản lý tích cực, sẽ cho phép chúng ta có một không gian an toàn Chúng, tất nhiên, bao gồm khí hậu. Có thể bạn sẽ ngạc nhiên rằng không chỉ mỗi khí hậu. Nó chỉ ra rằng ta đang liên kết, giữa nhiều hệ thống trên hành tinh, với ba hệ thống lớn, biển đổi khí hậu, suy giảm tầng ozon và axit hóa đại dương, trở thành ba hệ thống lớn, bằng chứng khoa học cho thấy đó là các ngưỡng quy mô lớn trong kỷ lục trước giờ của lịch sử hành tinh.
But we also include, what we call, the slow variables, the systems that, under the hood, regulate and buffer the capacity of the resilience of the planet -- the interference of the big nitrogen and phosphorus cycles on the planet, land use change, rate of biodiversity loss, freshwater use, functions which regulate biomass on the planet, carbon sequestration, diversity. And then we have two parameters which we were not able to quantify -- air pollution, including warming gases and air-polluting sulfates and nitrates, but also chemical pollution. Together, these form an integrated whole for guiding human development in the Anthropocene, understanding that the planet is a complex self-regulating system. In fact, most evidence indicates that these nine may behave as three Musketeers, "One for all. All for one." You degrade forests, you go beyond the boundary on land, you undermine the ability of the climate system to stay stable. The drama here is, in fact, that it may show that the climate challenge is the easy one, if you consider the whole challenge of sustainable development.
Nhưng ta cũng tính đến, cái mà ta gọi là, những biến đổi chậm, các hệ thống mà, dưới lớp vỏ bọc điều tiết và làm vật đệm cho khả năng phục hồi của hành tinh sự can thiệp của các chu kỳ nito và photpho quan trọng trên hành tinh thay đổi sử dụng đất đai, tốc độ mất đa dạng sinh thái, việc sử dụng nước ngọt, các chức năng điều chỉnh sinh khối trên hành tinh, công nghệ cô lập carbon, sự đa dạng. Và sau đó ta có hai tham số mà ta không thể xác định số lượng ô nhiễm không khí, gồm các loại khí làm nóng và ô nghiễm không khí, sunfat và nitrat, nhưng cũng gồm ô nhiễm hóa học. Cùng với nhau, chúng tạo nên một tổng thể đầy đủ để dẫn dắt sự phát triển nhân loại trong Thế Anthropocen, để hiểu rằng Trái đất là một hệ thống tự điều tiết phức tạp. Thực tế, hầu hết các bằng chứng chỉ ra rằng 9 ranh giới đó có thể vận hành như 3 chàng lính ngự lâm "Một người vì tất cả. Tất cả vì một người." Bạn tàn phá rừng, bạn sẽ vượt ra ngoài ranh giới của đất liền, bạn làm suy yếu chức năng của hệ thống khí hậu để ổn định. Thảm kịch ở đây, thực tế, là có thể thấy thách thức về khí hậu là điều dễ dàng, nếu bạn xem xét toàn bộ các thách thức về sự phát triển bền vững.
Now this is the Big Bang equivalent then of human development within the safe operating space of the planetary boundaries. What you see here in black line is the safe operating space, the quantified boundaries, as suggested by this analysis. The yellow dot in the middle here is our starting point, the pre-industrial point, where we're very safely in the safe operating space. In the '50s, we start branching out. In the '60s already, through the green revolution and the Haber-Bosch process of fixing nitrogen from the atmosphere -- you know, human's today take out more nitrogen from the atmosphere than the whole biosphere does naturally as a whole. We don't transgress the climate boundary until the early '90s, actually, right after Rio. And today, we are in a situation where we estimate that we've transgressed three boundaries, the rate of biodiversity loss, which is the sixth extinction period in the history of humanity -- one of them being the extinctions of the dinosaurs -- nitrogen and climate change. But we still have some degrees of freedom on the others, but we are approaching fast on land, water, phosphorus and oceans. But this gives a new paradigm to guide humanity, to put the light on our, so far overpowered industrial vehicle, which operates as if we're only on a dark, straight highway.
Đây là Vụ Nổ Lớn tương đương sự phát triển nhân loại trong không gian hoạt động an toàn của các ranh giới hành tinh, Những gì bạn thấy ở đây, các đường kẻ đen là không gian đó các ranh giới đã được xác định, như phân tích này đề xuất. Chấm vàng ở giữa là điểm bắt đầu của chúng ta, điểm tiền công nghiệp hóa, nơi ta chắc chắn an toàn trong không gian hoạt động Giữa những năm 50, ta bắt đầu phân nhánh Trong những năm 60, thông qua cuộc cách mạng xanh và quy trình Haber-Bosch về việc cố định nitơ trong không khí, con người ngày nay lấy nhiều nitơ từ bầu khí quyển hơn toàn bộ sinh quyển vẫn làm một cách tự nhiên Ta không vượt quá ranh giới khí hậu tới đầu những năm 90 chính xác, ngay sau Rio. Và ngày nay, ta đang trong tình trạng mà ta ước tính là đã vượt qua 3 ranh giới, tỷ lệ mất đa dạng sinh học, thời kỳ tuyệt chủng thứ 6 trong lịch sử nhân loại một trong số đó là sự tuyệt chủng của khủng long, nitơ và khí hậu biến đổi. Dù vậy ta vẫn có ít mức tự do với ranh giới khác nhưng ta đang tiến nhanh với đất đai, nước, photpho và đại dương Điều này đưa ra một mô hình mới để dẫn dắt nhân loại, xa hơn, để soi sáng cho các phương tiện công nghiệp hóa được cấp quá nhiều sức mạnh thứ vận hành như thể chỉ có mình ta trên đường cao tốc thẳng tắp và tối tăm.
Now the question then is: how gloomy is this? Is then sustainable development utopia? Well, there's no science to suggest. In fact, there is ample science to indicate that we can do this transformative change, that we have the ability to now move into a new innovative, a transformative gear, across scales. The drama is, of course, is that 200 countries on this planet have to simultaneously start moving in the same direction. But it changes fundamentally our governance and management paradigm, from the current linear, command and control thinking, looking at efficiencies and optimization towards a much more flexible, a much more adaptive approach, where we recognize that redundancy, both in social and environmental systems, is key to be able to deal with a turbulent era of global change. We have to invest in persistence, in the ability of social systems and ecological systems to withstand shocks and still remain in that desired cup. We have to invest in transformations capability, moving from crisis into innovation and the ability to rise after a crisis, and of course to adapt to unavoidable change. This is a new paradigm. We're not doing that at any scale on governance.
Giờ đây câu hỏi ở đây là: Nó tối tăm thế nào? Liệu phát triển bền vững là điều không tưởng? Không có khoa học nào để đề xuất. Thực tế, có rất nhiều ngành khoa học chỉ ra rằng ta có thể thực hiện sự biến đổi này rằng ta có khả năng chuyển sang một phát kiến mới, một bánh răng chuyển đổi, vượt qua các phạm vi. Thảm họa là, dĩ nhiên, rằng 200 nước trên hành tinh phải đồng thời bắt đầu di chuyển theo cùng một hướng. Nhưng nó thay đổi về cơ bản mô hình thể chế và quản lý của chúng ta từ quan hệ tuyến tính hiện nay, điều khiển và kiểm soát suy nghĩ, nhìn vào những hiệu suất và sự tối ưu hóa hướng tới một thứ linh hoạt hơn, một cách tiếp cận thích ứng hơn, mà ở đó ta thừa nhận rằng sự dư thừa, cả trong xã hội và các hệ sinh thái, là chìa khóa để có khả năng đối phó với kỷ nguyên hỗn loạn của sự thay đổi toàn cầu. Ta phải đầu tư vào sự kiên trì, vào khả năng của hệ thống xã hội và các hệ sinh thái để chống chọi với cú sốc mà vẫn giữ cái "cốc" như mong muốn Ta phải đầu tư vào khả năng biến đổi, biến khủng hoảng thành đổi mới và khả năng vực dậy hậu khủng hoảng, và để thích nghi với sự thay đổi không thể tránh khỏi. Đây là một mô thức mới, Chúng ta không thực hiện nó ở bất cứ quy mô quản trị nào.
But is it happening anywhere? Do we have any examples of success on this mind shift being applied at the local level? Well, yes, in fact we do and the list can start becoming longer and longer. There's good news here, for example, from Latin America, where plow-based farming systems of the '50s and '60s led farming basically to a dead-end, with lower and lower yields, degrading the organic matter and fundamental problems at the livelihood levels in Paraguay, Uruguay and a number of countries, Brazil, leading to innovation and entrepreneurship among farmers in partnership with scientists into an agricultural revolution of zero tillage systems combined with mulch farming with locally adapted technologies, which today, for example, in some countries, have led to a tremendous increase in area under mulch, zero till farming which, not only produces more food, but also sequesters carbon.
Nhưng nó đang xảy ra khắp nơi? Liệu chúng ta có ví dụ nào về sự thành công trong việc thay đổi quan niệm ở cấp địa phương không? Có, thực tế chúng ta có làm và danh sách có thể bắt đầu dài hơn nữa. Có tin tốt ở đây, ví dụ, từ Mỹ Latinh nơi mà hệ thống canh tác dựa vào cày bừa ở những năm 50 và 60 đã dẫn nông nghiệp về cơ bản vào tình trạng bế tắc, với sản lượng rất thấp, làm suy giảm các chất hữu cơ và các vấn đề cơ bản về kế sinh nhai ở Paraguay, Uruguay và một số nước, Brazil, dẫn tới kinh doanh và đổi mới giữa nông dân cộng tác với nhà khoa học đến cuộc cách mạng nông nghiệp của hệ thống không cày bừa kết hợp với làm ruộng với những công nghệ thích ứng tại địa phương những cái mà hiện nay, ở một số quốc gia, đã dẫn tới sự tăng khủng khiếp ở khu vực làm ruộng, không cày bừa, không chỉ sản xuất nhiều lương thực, mà còn hấp thụ cacbon.
The Australian Great Barrier Reef is another success story. Under the realization from tourist operators, fishermen, the Australian Great Barrier Reef Authority and scientists that the Great Barrier Reef is doomed under the current governance regime. Global change, beautification rack culture, overfishing and unsustainable tourism, all together placing this system in the realization of crisis. But the window of opportunity was innovation and new mindset, which today has led to a completely new governance strategy to build resilience, acknowledge redundancy and invest in the whole system as an integrated whole, and then allow for much more redundancy in the system.
Rạn san hô Great Barrier của Úc là một câu chuyện thành công khác. Dưới sự thực hiện của các nhà khai thác du lịch, ngư dân, Cơ quan Rạn san hô Great Barrier của Úc và các nhà khoa học, rạn san hô này bị sụp đổ dưới chế độ quản lý hiện tại. Sự thay đổi toàn cầu, văn hóa làm đẹp cảnh quan đánh mắt quá mức và du lịch không bền vững, tất cả cùng đặt hệ thống này vào cuộc khủng hoảng. Nhưng cánh cửa cho cơ hội là sự đổi mới và quan niệm mới, hiện nay đem đến một chiến lược quản lý hoàn toàn mới để tạo ra khả năng phục hồi, nhận biết giá trị thặng dư và đầu tư vào toàn bộ hệ thống như một tổng thể, sau đó tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn cho hệ thống.
Sweden, the country I come from, has other examples, where wetlands in southern Sweden were seen as -- as in many countries -- as flood-prone polluted nuisance in the peri-urban regions. But again, a crisis, new partnerships, actors locally, transforming these into a key component of sustainable urban planning. So crisis leading into opportunities.
Thụy Điển, nước mà tôi sống, có những ví dụ khác, các vùng ngập nước ở miền nam được coi, như ở nhiều nước, là sự phiền toái gây ô nhiễm do lũ lụt ở các vùng ven đô. Nhưng một lần nữa, một khủng hoảng, các đối tác mới, tác nhân địa phương, biến đổi chúng thành yếu tố quan trọng của quy hoạch đô thị bền vững. Vậy là khủng hoảng đem tới những cơ hội.
Now, what about the future? Well, the future, of course, has one massive challenge, which is feeding a world of nine billion people. We need nothing less than a new green revolution, and the planet boundaries shows that agriculture has to go from a source of greenhouse gases to a sink. It has to basically do this on current land. We cannot expand anymore, because it erodes the planetary boundaries. We cannot continue consuming water as we do today, with 25 percent of world rivers not even reaching the ocean. And we need a transformation. Well, interestingly, and based on my work and others in Africa, for example, we've shown that even the most vulnerable small-scale rainfall farming systems, with innovations and supplementary irrigation to bridge dry spells and droughts, sustainable sanitation systems to close the loop on nutrients from toilets back to farmers' fields, and innovations in tillage systems, we can triple, quadruple, yield levels on current land.
Còn về tương lai? Tương lai, dĩ nhiên, có một thách thức lớn, là việc nuôi dưỡng một thế giới 9 tỷ người Ta không cần gì ngoài cuộc Cách mạng xanh mới, và các ranh giới hành tinh cho thấy nông nghiệp phải chuyển từ nguồn các loại khí nhà kính sang một vũng lầy. Điều đó cần được thực hiện trên đất đai hiện tại. Ta không thể mở rộng thêm nữa, vì nó làm xói mòn các ranh giới. Chúng ta không thể tiếp tục tiêu thụ nước như hiện nay, với 25% các con sông trên thế giới không thể chảy ra đại dương. Và ta cần một sự thay đổi. Thật thú vị, dựa trên công việc của tôi và những người khác ở Châu Phi chúng tôi đã chỉ ra rằng ngay cả hệ thống thủy canh quy mô nhỏ nhất với các phát minh và việc tưới bổ sung khắc phục đợt khô cằn hạn hán hệ thống vệ sinh bền vững để đóng các vòng dưỡng chất từ các nhà vệ sinh trở lại các cánh đồng, và những đổi mới trong các hệ thống canh tác, ta có thể tăng gấp ba, gấp bốn, sản lượng trên vùng đất hiện tại.
Elinor Ostrom, the latest Nobel laureate of economics, clearly shows empirically across the world that we can govern the commons if we invest in trust, local, action-based partnerships and cross-scale institutional innovations, where local actors, together, can deal with the global commons at a large scale. But even on the hard policy area we have innovations. We know that we have to move from our fossil dependence very quickly into a low-carbon economy in record time. And what shall we do? Everybody talks about carbon taxes -- it won't work -- emission schemes, but for example, one policy measure, feed-in tariffs on the energy system, which is already applied, from China doing it on offshore wind systems, all the way to the U.S. where you give the guaranteed price for investment in renewable energy, but you can subsidize electricity to poor people. You get people out of poverty. You solve the climate issue with regards to the energy sector, while at the same time, stimulating innovation -- examples of things that can be out scaled quickly at the planetary level.
Elinor Ostrom, người đoạt giải Nobel mới nhất về kinh tế, chỉ rõ theo kinh nghiệm trên thế giới rằng ta có thể quản lý các cộng đồng nếu ta đầu tư vào sự tin tưởng, địa phương, các hành động dựa trên mối quan hệ đối tác và trao đổi chéo các phát minh, tại đó các nhân tố địa phương, cùng nhau, có thể đối mặt với các cộng đồng toàn cầu ở quy mô lớn. Nhưng ngay với vùng khó khăn, ta cũng có đổi mới, Ta biết phải nhanh chóng chuyển từ việc phụ thuộc vào hóa thạch sang nền kinh tế ít cacbon trong một thời gian kỷ lục. Vậy ta nên làm gì? Mọi người nói về thuế cacbon, kế hoạch phát thải nhưng, ví dụ như, một chính sách đo lường, giá bán điện năng trong hệ thống năng lượng, đã được áp dụng bởi Trung Quốc, ở hệ thống gió ngoài khơi rồi đến Hoa Kỳ nơi bạn đưa ra mức giá bảo đảm để đầu tư vào năng lượng tái tạo, nhưng bạn có thể trợ cấp điện cho người nghèo. Bạn giúp mọi người thoát khỏi đói nghèo. Bạn giải quyết vấn đề khí hậu liên quan đến lĩnh vực năng lượng, đồng thời kích thích sự đổi mới -- các ví dụ cho những điều có thể được mở rộng quy mô nhanh chóng ở cấp hành tinh.
So there is -- no doubt -- opportunity here, and we can list many, many examples of transformative opportunities around the planet. The key though in all of these, the red thread, is the shift in mindset, moving away from a situation where we simply are pushing ourselves into a dark future, where we instead backcast our future, and we say, "What is the playing field on the planet? What are the planetary boundaries within which we can safely operate?" and then backtrack innovations within that. But of course, the drama is, it clearly shows that incremental change is not an option.
Vậy, không nghi ngờ gì, cơ hội nằm ở đó, và ta có thể liệt kê ra nhiều, nhiều ví dụ về cơ hội thay đổi trên khắp hành tinh. Mặc cho tất cả điều trên, chìa khóa sợi chỉ đỏ, là sự thay đổi trong suy nghĩ, rời khỏi trạng thái ở đó ta đơn giản đang đẩy chính mình vào một tương lai tăm tối, nơi mà ta đáng lẽ thay đổi tương lai, và tự hỏi "Sân chơi trên hành tinh là gì?" Đâu là các ranh giới hành tinh mà trong đó ta có thể hoạt động an toàn?" rồi sau đó trở lại đổi mới trong đó. Nhưng tất nhiên, nó chỉ ra rất rõ rằng thay đổi gia tăng không phải một lựa chọn.
So, there is scientific evidence. They sort of say the harsh news, that we are facing the largest transformative development since the industrialization. In fact, what we have to do over the next 40 years is much more dramatic and more exciting than what we did when we moved into the situation we're in today. Now, science indicates that, yes, we can achieve a prosperous future within the safe operating space, if we move simultaneously, collaborating on a global level, from local to global scale, in transformative options, which build resilience on a finite planet.
Đó là bằng chứng khoa học. Chúng báo những tin tức gay gắt rằng ta đang đối mặt với sự phát triển biến đổi lớn nhất kể từ khi công nghiệp hóa. Trên thực tế, những gì ta phải làm trong 40 năm tiếp theo còn kịch tính và thú vị hơn những gì chúng ta đã làm khi bước vào tình trạng hiện nay. Khoa học chỉ ra rằng, chúng ta có thể đạt tới một tương lai thịnh vượng trong không gian an toàn, nếu chúng ta thay đổi cùng lúc, hợp tác trên phạm vi toàn cầu, từ quy mô địa phương đến toàn cầu, về lựa chọn thay đổi, tạo nên sự kiên cường trên một hành tinh hữu hạn.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)