I just want to share with you what I have been experiencing over the last five years in having the great privilege of traveling to many of the poorest countries in the world.
Tôi muốn chia sẻ với các bạn những kinh nghiệm tôi có được trong năm năm qua khi được đặc ân đi đến những đất nước nghèo nhất thế giới
This scene is one I see all the time everywhere, and these young children are looking at a smartphone, and the smartphone is having a huge impact in even the poorest countries. I said to my team, you know, what I see is a rise in aspirations all over the world. In fact, it seems to me that there's a convergence of aspirations. And I asked a team of economists to actually look into this. Is this true? Are aspirations converging all around the world? So they looked at things like Gallup polls about satisfaction in life and what they learned was that if you have access to the internet, your satisfaction goes up. But another thing happens that's very important: your reference income, the income to which you compare your own, also goes up. Now, if the reference income of a nation, for example, goes up 10 percent by comparing themselves to the outside, then on average, people's own incomes have to go up at least five percent to maintain the same level of satisfaction. But when you get down into the lower percentiles of income, your income has to go up much more if the reference income goes up 10 percent, something like 20 percent. And so with this rise of aspirations, the fundamental question is: Are we going to have a situation where aspirations are linked to opportunity and you get dynamism and economic growth, like that which happened in the country I was born in, in Korea? Or are aspirations going to meet frustration?
Đây là cảnh tượng mà tôi luôn nhìn thấy khắp nơi các em nhỏ vây quanh chiếc điện thoại thông minh (smartphone) điện thoại smartphone có ảnh hưởng lớn đến cả những nước nghèo nhất Tôi nói với cả nhóm rằng, những gì tôi thấy là một khát khao dâng trào khắp thế giới. Thực ra, với tôi, nó là cuộc đổ bộ của khát khao. Tôi đã nhờ một nhóm các nhà kinh tế xem xét vấn đề này. Nó có đúng như thế không? Có phải khát khao đang trào dâng khắp thế giới? Thế là họ tìm hiểu, như khảo sát Gallup về hài lòng trong cuộc sống và họ biết được rằng nếu bạn được truy cập Internet, mức độ hài lòng sẽ tăng lên. Nhưng có thứ khác cũng rất quan trọng: thu nhập của bạn so sánh với thu nhập bình quân cũng tăng lên. Ví dụ thu nhập bình quân của một quốc gia tăng lên 10% bằng cách so sánh với nước khác sau đó tính trung bình, thì thu nhập bình quân của người dân phải tăng lên ít nhất 5% nhằm duy trì mức độ hài lòng tương đồng. Nhưng khi thu nhập của bạn thấp, để thu nhập bình quân tăng lên 10% thì phải tăng thu nhập của bạn lên đại loại như 20% chẳng hạn. Và khi khao khát bùng lên, câu hỏi đặt ra là: Có phải chúng ta sẽ gặp tình huống khao khát dẫn lối tới cơ hội và bạn trở nên năng động và đạt được tăng trưởng kinh tế, giống như ở Hàn Quốc, nơi tôi sinh ra? Hay là khao khát đưa chúng ta đến thất bại?
This is a real concern, because between 2012 and 2015, terrorism incidents increased by 74 percent. The number of deaths from terrorism went up 150 percent. Right now, two billion people live in conditions of fragility, conflict, violence, and by 2030, more than 60 percent of the world's poor will live in these situations of fragility, conflict and violence. And so what do we do about meeting these aspirations? Are there new ways of thinking about how we can rise to meet these aspirations? Because if we don't, I'm extremely worried. Aspirations are rising as never before because of access to the internet. Everyone knows how everyone else lives. Has our ability to meet those aspirations risen as well?
Đây là quan ngại thực sự, bởi vì giữa năm 2012 và 2015, các cuộc khủng bố gia tăng lên tới 74%, tăng 150% số người tử vong do khủng bố. Ngay giờ này, 2 triệu người sống trong tình trạng đổ nát, xung đột, bạo lực, và đến năm 2030, hơn 60% dân nghèo trên thế giới sẽ phải sống trong tình trạng đổ nát, xung đột và bạo lực. vậy chúng ta làm gì để đạt được những khao khát này? Phải chăng có cách suy nghĩ mới về làm thế nào có thể vươn lên gặt hái được những khát vọng này? Nhưng nếu chúng ta không có thì tôi thực sự rất lo ngại. Khát khao đang lên cao hơn bao giờ hết nhờ tiếp cận dịch vụ internet. Mọi người đều biết người khác sống ra sao. Chúng ta phải có năng lực đáp ứng được những khát khao này phải không?
And just to get at the details of this, I want to share with you my own personal story. This is not my mother, but during the Korean War, my mother literally took her own sister, her younger sister, on her back, and walked at least part of the way to escape Seoul during the Korean War. Now, through a series of miracles, my mother and father both got scholarships to go to New York City. They actually met in New York City and got married in New York City. My father, too, was a refugee. At the age of 19, he left his family in the northern part of the country, escaped through the border and never saw his family again. Now, when they were married and living in New York, my father was a waiter at Patricia Murphy's restaurant. Their aspirations went up. They understood what it was like to live in a place like New York City in the 1950s.
Và để đi sâu hơn về vấn đề này, tôi muốn chia sẻ câu chuyện riêng của tôi. Đây không phải là mẹ tôi, trong cuộc Chiến tranh Hàn quốc, mẹ tôi cõng em trên lưng, em gái ruột, và đi bộ quãng đường dài trên đường thoát khỏi Seoul trong chiến tranh Hàn Quốc. Rồi, trải qua nhiều sự kiện kỳ diệu, mẹ tôi và bố tôi đều giành được học bổng đến thành phố New York. Họ đã gặp nhau ở New York và kết hôn ở New York. Bố tôi cũng là người tị nạn. Vào năm 19 tuổi, bố rời khỏi gia đình ở phương bắc nước Hàn, trốn qua biên giới và chưa bao giờ gặp lại gia đình. Hồi đó, khi hai người kết hôn và sinh sống tại New York, bố tôi làm bồi bàn cho nhà hàng Patricia Murphy. Lòng họ tràn trề hy vọng. Họ hiểu được cuộc sống ở nhưng nơi như thành phố New York những năm 1950.
Well, my brother was born and they came back to Korea, and we had what I remember as kind of an idyllic life, but what was happening in Korea at that time was the country was one of the poorest in the world and there was political upheaval. There were demonstrations just down the street from our house all the time, students protesting against the military government. And at the time, the aspirations of the World Bank Group, the organization I lead now, were extremely low for Korea. Their idea was that Korea would find it difficult without foreign aid to provide its people with more than the bare necessities of life. So the situation is Korea is in a tough position, my parents have seen what life is like in the United States. They got married there. My brother was born there. And they felt that in order to give us an opportunity to reach their aspirations for us, we had to go and come back to the United States.
Rồi anh trai tôi được sinh ra, và họ quay trở về Hàn Quốc, theo những gì tôi nhớ họ sống một cuộc sống điền viên, nhưng vào thời điểm đó, Hàn Quốc là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới và xảy ra bước ngoạt về chính trị. Lúc nào cũng có cuộc biểu tình dưới phố nhà tôi ở. sinh viên biểu tình phản đối chính phủ quân sự. Vào thời điểm đó, kỳ vọng của Nhóm Ngân hàng thế giới, cơ quan tôi đang lãnh đạo hiện nay, dành cho Hàn Quốc, là cực kỳ thấp. Quan điểm của họ là không có viện trợ quốc tế Hàn Quốc sẽ khó có thể để cung cấp cho người dân nhiều hơn nhu cầu tối thiểu. Thế nên Hàn Quốc rơi vào tình thế khó khăn, cha mẹ tôi đã chứng kiến cuộc sống ở nước Mỹ. Họ kết hôn ở đó. Anh trai tôi sinh ra ở đó. Và hai người thấy rằng để chúng tôi có cơ hội làm nên kỳ vọng mà hai người đặt lên chúng tôi phải ra đi và trở lại nước Mỹ.
Now, we came back. First we went to Dallas. My father did his dental degree all over again. And then we ended up moving to Iowa, of all places. We grew up in Iowa. And in Iowa, we went through the whole course. I went to high school, I went to college. And then one day, something that I'll never forget, my father picked me up after my sophomore year in college, and he was driving me home, and he said, "Jim, what are your aspirations? What do you want to study? What do you want to do?" And I said, "Dad," -- My mother actually was a philosopher, and had filled us with ideas about protest and social justice, and I said, "Dad, I'm going to study political science and philosophy, and I'm going to become part of a political movement." My father, the Korean dentist, slowly pulled the car over to the side of the road --
Và chúng tôi đã trở lại. Đầu tiên chúng tôi ở Dallas. Bố tôi học lấy bằng nha sĩ lần nữa. Sau đó chúng tôi thế nào lại chuyển tới Iowa, Chúng tôi lớn lên ở Iowa. Tại Iowa, chúng tôi học đầy đủ các khóa. Tôi học trung học cơ sở, rồi vào đại học. Sau có một ngày, xảy ra một việc làm tôi nhớ mãi, bố đón tôi sau năm thứ 2 ở đại học, trong lúc lái xe về nhà, bố hỏi, "Jim, con ước mong điều gì? Con muốn học gì? Con muốn làm gì? Tôi suy nghĩ. Mẹ tôi như là một triết gia, nhồi nhét vào chúng tôi đầy ý tưởng về phản kháng và công bằng xã hội, và tôi trả lời, "Bố, con sẽ học khoa học chính trị và triết học, rồi con sẽ trở thành thành viên chính trị." Bố tôi, nha sĩ người Hàn, tấp xe ngay vào lề đường.
(Laughter)
(Cười)
He looked back at me, and he said, "Jim, you finish your medical residency, you can study anything you want."
Bố quay lại nhìn tôi rồi nói, Jim, con học xong chứng chỉ y, rồi có thể học cái con muốn.
(Laughter)
(Cười)
Now, I've told this story to a mostly Asian audience before. Nobody laughs. They just shake their head. Of course.
Vâng, tôi từng kể câu chuyện này với các khán giả đa số là người châu Á. Không một ai cười. Họ chỉ lắc đầu. Dĩ nhiên rồi.
(Laughter)
(Cười)
(Applause)
(Vỗ tay)
So, tragically, my father died at a young age, 30 years ago at the age of 57, what happens to be how old I am right now, and when he died in the middle of my medical and graduate studies -- You see, I actually got around it by doing medicine and anthropology. I studied both of them in graduate school.
Thế rồi, buồn thay, bố tôi ra đi ở tuổi đời rất trẻ, cách đây 30 năm, ở tuổi 57, bằng tuổi tôi bay giờ, bố tôi mất vào giữa khóa học y của tôi. Bạn thấy đó, tôi thực sự đã học y và nhân chủng học. Tôi học cả 2 ngành ở trường.
But then right about that time, I met these two people, Ophelia Dahl and Paul Farmer. And Paul and I were in the same program. We were studying medicine and at the same time getting our PhD's in anthropology. And we began to ask some pretty fundamental questions. For people who have the great privilege of studying medicine and anthropology -- I had come from parents who were refugees. Paul grew up literally in a bus in a swamp in Florida. He liked to call himself "white trash." And so we had this opportunity and we said, what is it that we need to do? Given our ridiculously elaborate educations, what is the nature of our responsibility to the world? And we decided that we needed to start an organization. It's called Partners in Health. And by the way, there's a movie made about that.
Nhưng vào ngay thời điểm đó, tôi đã gặp hai người này. Ophelia Dahl và Paul Farmer. Rồi Paul và tôi cùng học một lớp. Chúng tôi cùng học y dược đồng thời lấy bằng thạc sĩ ngành nhân chủng học. Và chúng tôi bắt đầu đặt câu hỏi. Với những người có điều kiện nghiên cứu y dược và nhân chủng học tôi là con của dân tị nạn. Paul lớn lên trong một xe buýt ở khu phế thải tại Florida. Anh thích tự gọi mình là "phế thải trắng". Chúng tôi có cơ may này và chúng tôi tự hỏi, chúng tôi cần phải làm gì? Được hưởng nền giáo dục chỉn chu, vậy trách nhiệm chính của chúng tôi với thế giới này là gì? Và chúng tôi quyết định mình cần tạo ra một tổ chức. Tên là Partners In Health. À, có một bộ phim nói về tổ chức này.
(Applause)
(Vỗ tay)
There's a movie that was just a brilliant movie they made about it called "Bending the Arc." It launched at Sundance this past January. Jeff Skoll is here. Jeff is one of the ones who made it happen. And we began to think about what it would take for us to actually have our aspirations reach the level of some of the poorest communities in the world.
Bộ phim tài liệu đó rất hay tên là "Bending the Arc" - Bẻ đường cong. Phim công chiếu ở Sundance hồi tháng Giêng năm nay. Jeff Skoll đang ở đây. Jeff là một trong những người có công làm nên bộ phim này. Chúng tôi bắt đầu nghĩ đến người ta sẽ nghĩ chúng tôi là ai mà có tham vọng chạm đến tầng lớp người nghèo trên thế giới.
This is my very first visit to Haiti in 1988, and in 1988, we elaborated a sort of mission statement, which is we are going to make a preferential option for the poor in health. Now, it took us a long time, and we were graduate students in anthropology. We were reading up one side of Marx and down the other. Habermas. Fernand Braudel. We were reading everything and we had to come to a conclusion of how are we going to structure our work? So "O for the P," we called it, a preferential option for the poor.
Đây là chuyến đi đầu tiên của tôi tới Haiti năm 1988, và năm 1988, chúng tôi công bố kiểu công văn thông báo sứ mệnh của mình, là chúng tôi sẽ chọn ưu tiên dành cho người nghèo trong lĩnh vực y tế. Sau một thời gian, chúng tôi tốt nghiệp chuyên ngành nhân chủng học. Chúng tôi đọc tác phẩm của Mác và của tác giả khác. Habermas. Fernand Braudel. Chúng tôi đọc mọi thứ và chúng tôi buộc phải tìm ra làm thế nào xác định công việc mình làm? Vì thế ra đời "O for the P" "a preferential option for the poor" chọn ưu tiên cho người nghèo.
The most important thing about a preferential option for the poor is what it's not. It's not a preferential option for your own sense of heroism. It's not a preferential option for your own idea about how to lift the poor out of poverty. It's not a preferential option for your own organization. And the hardest of all, it's not a preferential option for your poor. It's a preferential option for the poor.
Điều quan trọng nhất về chọn ưu tiên cho người nghèo là những thứ không phải. Không phải là lựa chọn ưu tiên để bạn có cảm giác anh hùng. Không phải là ưu tiên cho ý tưởng của cá nhân về cách nâng đỡ thoát nghèo. Cũng không phải là chọn ưu tiên cho tổ chức của bạn. Và điều khó khăn nhất, nó không phải là chọn ưu tiên cho cái nghèo của bạn. Mà là chọn ưu tiên cho người nghèo.
So what do you do? Well, Haiti, we started building -- Everyone told us, the cost-effective thing is just focus on vaccination and maybe a feeding program. But what the Haitians wanted was a hospital. They wanted schools. They wanted to provide their children with the opportunities that they'd been hearing about from others, relatives, for example, who had gone to the United States. They wanted the same kinds of opportunities as my parents did. I recognized them. And so that's what we did. We built hospitals. We provided education. And we did everything we could to try to give them opportunities.
Thế bạn sẽ làm gì? Vâng, ở Haiti, chúng tôi xây dựng. Mọi người nói với chúng tôi, điều hữu dụng nhất là tập trung vào tiêm phòng và chương trình dinh dưỡng. Nhưng thứ người Haiti cần là bệnh viện. Là trường học. Họ muốn giành cho con mình có cơ hội mà họ nghe biết từ những người khác, từ họ hàng chẳng hạn, những người đã đến nước Mỹ. Họ muốn có cơ may như cha mẹ tôi. Tôi hiểu rõ điều đó. Chúng tôi đã làm. Chúng tôi xây bệnh viện. Chúng tôi dạy học. Và chúng tôi cố gắng làm mọi thứ có thể, để mang cơ hội đến cho họ.
Now, my experience really became intense at Partners in Health in this community, Carabayllo, in the northern slums of Lima, Peru. And in this community, we started out by really just going to people's homes and talking to people, and we discovered an outbreak, an epidemic of multidrug-resistant tuberculosis. This is Melquiades. Melquiades was a patient at that time, he was about 18 years old, and he had a very difficult form of drug-resistant tuberculosis. All of the gurus in the world, the global health gurus, said it is not cost-effective to treat drug-resistant tuberculosis. It's too complicated. It's too expensive. You just can't do it. It can't be done. And in addition, they were getting angry at us, because the implication was if it could be done, we would have done it. Who do you think you are? And the people that we fought with were the World Health Organization and probably the organization we fought with most was the World Bank Group.
Lúc này kinh nghiệm của tôi đã có được nhiều ở Partners in Health trong vùng Carabayllo này, trong khu ổ chuột phía bắc Lima, Peru. Và trong cộng đồng này, chúng tôi triển khai đi đến nhà dân và nói chuyện với họ, và chúng tôi phát hiện ra ổ dịch bệnh lao kháng thuốc. Đây là Melquiades. Khi đó Melquiades là bệnh nhân, 18 tuổi, cậu gặp phải dạng lao kháng thuốc mạnh. Tất cả các thầy thuốc các chuyên gia sức khỏe toàn cầu, đều cho rằng điều trị bệnh lao kháng thuốc sẽ vô hiệu thôi. Nó quá phức tạp, quá tốn kém. Anh không thể làm được. Không thể chữa được đâu. Thêm nữa, họ tỏ ra tức giận với chúng tôi, bởi vì họ cho rằng nếu mà có thể chữa được, họ đã làm từ lâu rồi. Anh nghĩ anh là ai chứ? Chúng tôi đấu tranh với Tổ chức Y tế thế giới và có lẽ đấu tranh nhiều nhất với Nhóm Ngân hàng thế giới.
Now, we did everything we could to convince Melquiades to take his medicines, because it's really hard, and not once during the time of treatment did Melquiades's family ever say, "Hey, you know, Melquiades is just not cost-effective. Why don't you go on and treat somebody else?"
Lúc đó, chúng tôi làm mọi thứ có thể để thuyết phục Melquiades tham gia điều trị, bởi việc này thực sự khó, và trong thời gian điều trị, gia đình Melquiades không chỉ một lần nói, Này, Melquiades không đáng đâu. Sao anh không đi tìm chữa cho người khác?
(Laughter)
(Cười)
I hadn't seen Melquiades for about 10 years and when we had our annual meetings in Lima, Peru a couple of years ago, the filmmakers found him and here is us getting together.
Khoảng 10 năm rồi tôi đã không gặp Melquiades và khi chúng tôi có cuộc họp thường niên ở Lima, Peru vài năm trước đây, các nhà làm phim đã tìm cậu và đây là ảnh chúng tôi chụp cùng nhau.
(Applause)
(Vỗ tay)
He has become a bit of a media star because he goes to the film openings, and he knows how to work an audience now.
Cậu như trở thành một ngôi sao vì cậu tới buổi ra mắt phim, và rất biết cách ứng xử với khán giả.
(Laughter)
(Cười)
But as soon as we won -- We did win. We won the argument. You should treat multidrug-resistant tuberculosis -- we heard the same arguments in the early 2000s about HIV. All of the leading global health people in the world said it is impossible to treat HIV in poor countries. Too expensive, too complicated, you can't do it. Compared to drug-resistant TB treatment, it's actually easier. And we were seeing patients like this. Joseph Jeune. Joseph Jeune also never mentioned that he was not cost-effective. A few months of medicines, and this is what he looked like.
Nhưng ngay khi chúng tôi thắng -- Chúng tôi thắng, thắng cuộc tranh cãi. Bạn nên điều trị bệnh lao kháng thuốc -- chúng tôi biết có cuộc tranh cãi tương tự đầu những năm 2000 về bệnh HIV. Tất cả các chuyên gia y tế hàng đầu thế giới đều nói bệnh HIV không thể chữa trị ở các quốc gia nghèo. Quá đắt đỏ, quá rắc rối, anh không thể làm được. So với chữa trị bệnh lao kháng thuốc. Bệnh này thực sự dễ hơn. Chúng tôi gặp gỡ các bệnh nhân như thế này. Joseph Jeune. Josephn Jeune cũng chưa bao giờ cho rằng biện pháp này hiệu quả. Sau vài tháng chữa trị, và giờ anh trông như thế này.
(Applause)
(Vỗ tay)
We call that the Lazarus Effect of HIV treatment. Joseline came to us looking like this. This is what she looked like a few months later.
Chúng tôi gọi nó là Hiệu ứng Lazarus điều trị HIV. Khi đến điều trị Joseline trông như thế này Và đây là hình ảnh của cô ấy vài tháng sau.
(Applause)
(Vỗ tay)
Now, our argument, our battle, we thought, was with the organizations that kept saying it's not cost-effective. We were saying, no, preferential option for the poor requires us to raise our aspirations to meet those of the poor for themselves. And they said, well, that's a nice thought but it's just not cost-effective. So in the nerdy way that we have operated Partners in Health, we wrote a book against, basically, the World Bank. It says that because the World Bank has focused so much on just economic growth and said that governments have to shrink their budgets and reduce expenditures in health, education and social welfare -- we thought that was fundamentally wrong. And we argued with the World Bank. And then a crazy thing happened. President Obama nominated me to be President of the World Bank.
Khi ấy chúng tôi cho rằng chúng tôi tranh luận, đấu tranh với các tổ chức kiên quyết cho là nó không hiệu quả Chúng tôi nói, không, ưu tiên cho người nghèo đòi buộc chúng ta phải nâng cao mong muốn đáp ứng khao khátcủa chính người nghèo Rồi họ nói, à, đó là suy nghĩ tốt, nhưng nó không hiệu quả. Bằng cách kỳ lạ, Partners in Health đã đi vào hoạt động, chúng tôi viết sách phản đối chủ yếu Ngân hàng thế giới. Nói như thế bởi vì Ngân hàng thế giới chú trọng quá nhiều vào phát triển kinh tế và nói rằng chính phủ phải thu hẹp ngân sách và giảm chi tiêu công về y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội -- theo chúng tôi điều đó hoàn toàn sai lầm. Chúng tôi tranh luận với Ngân hàng thế giới. Sau đó một điều điên rồ xảy ra. Tổng thống Obama đề bạt tôi làm Chủ tịch Ngân hàng thế giới.
(Applause)
(Vỗ tay)
Now, when I went to do the vetting process with President Obama's team, they had a copy of "Dying For Growth," and they had read every page. And I said, "OK, that's it, right? You guys are going to drop me?" He goes, "Oh, no, no, it's OK." And I was nominated, and I walked through the door of the World Bank Group in July of 2012, and that statement on the wall, "Our dream is a world free of poverty." A few months after that, we actually turned it into a goal: end extreme poverty by 2030, boost shared prosperity. That's what we do now at the World Bank Group. I feel like I have brought the preferential option for the poor to the World Bank Group.
Bấy giờ, khi tôi tham gia thẩm định tư cách với đội ngũ của tổng thống Obama, họ có bản sao ấn phẩm "Dying For Growth", họ đọc hết các trang, Và tôi nói, "Được rồi, Các anh định sa thải tôi à?" Họ trả lời, "À không, ổn mà." Rồi tôi được chọn, Tháng 7 năm 2012 tôi bước vào cánh cửa Nhóm Ngân hàng thế giới, và có câu khẩu hiệu trên tường, "Ước mơ thế giới không còn đói nghèo." Vài tháng sau đó, chúng tôi thực sự bắt tay vào hành động: chấm dứt nạn đói nghèo vào năm 2030, thúc đẩy thịnh vượng sẻ chia. Đó là việc chúng tôi làm ở Ngân hàng thế giới. Tôi cảm tưởng như tôi đã mang sứ điệp ưu tiên cho người nghèo đến với Ngân hàng thế giới.
(Applause)
(Vỗ tay)
But this is TED, and so I want to share with you some concerns, and then make a proposal.
Nhưng đây là TED, thế nên tôi muốn chia sẻ với các bạn một vài vấn đề, và đưa ra đề xuất.
The Fourth Industrial Revolution, now, you guys know so much better than I do, but here's the thing that concerns me. What we hear about is job loss. You've all heard that. Our own data suggest to us that two thirds of all jobs, currently existing jobs in developing countries, will be lost because of automation. Now, you've got to make up for those jobs. Now, one of the ways to make up for those jobs is to turn community health workers into a formal labor force. That's what we want to do.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, hiện giờ các bạn còn biết rõ hơn tôi nhưng tôi có một điều quan ngại. Chúng ta nghe thấy là giảm việc làm. Các bạn đều biết. Dữ liệu của chúng tôi chỉ ra rằng 2/3 các việc làm, cụ thể là các việc làm ở nước đang phát triển, sẽ bị mất do công nghệ tự động hóa. Bây giờ bạn phải tạo ra việc khác thay thế. Một trong những phương thức đó là chuyển nhân viên y tế cộng đồng vào nguồn nhân lực chính thức. Chúng tôi muốn làm thế.
(Applause)
(Vỗ tay)
We think the numbers will work out, that as health outcomes get better and as people have formal work, we're going to be able to train them with the soft-skills training that you add to it to become workers that will have a huge impact, and that may be the one area that grows the most.
Chúng tôi cho là con số này sẽ thành công, khi đầu ra sức khỏe trở nên tốt hơn và khi mọi người có công việc chính thức, chúng ta sẽ có thể đào tạo họ với khóa đào tạo kỹ năng mềm bạn thêm vào họ sẽ trở thành người có ảnh hưởng lớn, và có lẽ là một lĩnh vực phát triển nhất.
But here's the other thing that bothers me: right now it seems pretty clear to me that the jobs of the future will be more digitally demanding, and there is a crisis in childhood stunting. So these are photos from Charles Nelson, who shared these with us from Harvard Medical School. And what these photos show on the one side, on the left side, is a three-month-old who has been stunted: not adequate nutrition, not adequate stimulation. And on the other side, of course, is a normal child, and the normal child has all of these neuronal connections. Now, the neuronal connections are important, because that is the definition of human capital. Now, we know that we can reduce these rates. We can reduce these rates of childhood stunting quickly, but if we don't, India, for example, with 38 percent childhood stunting, how are they going to compete in the economy of the future if 40 percent of their future workers cannot achieve educationally and certainly we worry about achieving economically in a way that will help the country as a whole grow.
Nhưng thêm một điều nữa tôi quan ngại: ngay bây giờ với tôi, rõ ràng thấy nghề nghiệp tương lại sẽ gia tăng nhiều theo thời đại số, có một cuộc khủng hoảng trẻ em suy dinh dưỡng. Charles Nelson chia sẻ các bức ảnh này với chúng tôi từ trường Y Havard. Những bức ảnh này chỉ ra bên trái, là đứa bé ba tháng tuổi bị còi cọc: thiếu dinh dưỡng, không phát triển đủ. Và bên kia, một đứa trẻ bình thường, đứa trẻ bình thường có đầy đủ các kết nối thần kinh. Các kết nối thần kinh đóng vai trò quan trọng, vì đó xác định được giá trị con người. Hiện nay chúng ta có thể giảm tỉ lệ này, Chúng ta có thể giảm tỉ lệ trẻ em còi cọc một cách nhanh chóng, nhưng nếu chúng ta không làm, như ở Ấn độ, có 38% trẻ em bị suy dinh dưỡng, làm sao trẻ em cạnh tranh được trong nền kinh tế sau này nếu 40% người lao động tương lại không được đi học và chắc rằng chúng ta quan ngại về kinh tế giúp quốc gia phát triển toàn diện.
Now, what are we going to do? 78 trillion dollars is the size of the global economy. 8.55 trillion dollars are sitting in negative interest rate bonds. That means that you give the German central bank your money and then you pay them to keep your money. That's a negative interest rate bond. 24.4 trillion dollars in very low-earning government bonds. And 8 trillion literally sitting in the hands of rich people under their very large mattresses. What we are trying to do is now use our own tools -- and just to get nerdy for a second, we're talking about first-loss risk debt instruments, we're talking about derisking, blended finance, we're talking about political risk insurance, credit enhancement -- all these things that I've now learned at the World Bank Group that rich people use every single day to make themselves richer, but we haven't used aggressively enough on behalf of the poor to bring this capital in.
Vậy chúng ta sẽ làm gì? 78 nghìn tỉ đô la là trị giá nền kinh tế toàn cầu. 8.55 nghìn tỉ đô la là trái phiếu lãi suất âm. Nghĩa là bạn đưa tiền cho ngân hàng trung ương Đức sau đó bạn trả họ phí giữ tiền. Đó là trái phiếu lãi suất âm. 24.4 nghìn tỉ đô la nằm trong trái phiếu chính phủ lãi suất thấp. Và 8 nghìn tỉ đô la nằm trong tay người giàu dưới nhiều hình thức khác nhau. Những gì chúng tôi đang cố gắng làm là sử dụng công cụ riêng của chúng tôi à, hơi điên rồi một chút, chúng ta nói về công cụ nợ giảm thiểu rủi ro ban đầu giảm rủi ro, kết hợp tài chính, chúng ta đang nói về bảo hiểm rủi ro chính trị, tăng cường tín dụng -- tất cả những việc này tôi học được ở Nhóm Ngân hàng thế giới mà người giàu sử dụng mỗi ngày và làm cho họ trở nên giàu hơn, nhưng đại diện cho người nghèo chúng tôi chưa sử dụng đủ tích cực mang vốn đầu tư này vào.
(Applause)
(Vỗ tay)
So does this work? Can you actually bring private-sector players into a country and really make things work? Well, we've done it a couple of times. This is Zambia, Scaling Solar. It's a box-set solution from the World Bank where we come in and we do all the things you need to attract private-sector investors. And in this case, Zambia went from having a cost of electricity at 25 cents a kilowatt-hour, and by just doing simple things, doing the auction, changing some policies, we were able to bring the cost down. Lowest bid, 25 cents a kilowatt-hour for Zambia? The lowest bid was 4.7 cents a kilowatt-hour. It's possible.
Vậy việc này có hiệu quả không? Bạn có thể đưa nhà đầu tư tư nhân đến với nước mình và tận dụng hiệu quả không? Vâng, chúng tôi đã làm được đôi lần. Đây là Zambia, nhà máy điện mặt trời. Một giải pháp từ Ngân hàng thế giới chúng tôi làm việc ở đây và làm mọi thứ cần thiết để thu hút các nhà đầu tư cá nhân. Và trong trường hợp này, Zambia đi từ giá điện 25 cent trên 1 số điện, và chỉ bằng vài việc đơn giản, bằng cách đấu giá, thay đổi vài chính sách, chúng tôi đã có thể làm cho giá hạ xuống. Giá thầu thấp nhất, có phải 25 cent 1 cân điện ở Zambia? Giá thầu thấp nhất là 4.7 cent 1 số điện. Việc này hoàn toàn có thể.
(Applause)
(Vỗ tay)
But here's my proposal for you. This is from a group called Zipline, a cool company, and they literally are rocket scientists. They figured out how to use drones in Rwanda. This is me launching a drone in Rwanda that delivers blood anywhere in the country in less than an hour. So we save lives, this program saved lives --
Nhưng đây là đề xuất tôi gửi đến bạn. Đây là tổ chức tên gọi là Zipline, một công ty hay hay, thực ra họ là các nhà khoa học tên lửa. Họ tìm ra cách dùng máy bay không người lái ở Rwanda. Đây là tôi khởi động máy bay tại Rwanda nó tiếp tế máu đến khắp nơi trên cả nước chưa đến 1 tiếng đồng hồ. Chúng tôi đã cứu nhiều người, chương trình này cứu sống nhiều người
(Applause)
(Vỗ tay)
This program made money for Zipline and this program saved huge amounts of money for Rwanda. That's what we need, and we need that from all of you. I'm asking you, carve out a little bit of time in your brains to think about the technology that you work on, the companies that you start, the design that you do. Think a little bit and work with us to see if we can come up with these kinds of extraordinary win-win solutions.
Nó mang lại lợi nhuận cho Zipline và tiết kiệm được một số tiền lớn cho Rwanda. Đó là cái chúng tôi cần, và chúng tôi cần từ các bạn. Tôi hỏi bạn, hãy động não một chút nghĩ tới công nghệ bạn đang dùng, công ty bạn khởi nghiệp, thiết kế bạn làm. Hãy nghĩ một chút và hợp tác với chúng tôi để xem liệu chúng ta có thể tìm ra giải pháp hay ho đôi bên cùng có lợi.
I'm going to leave you with one final story. I was in Tanzania, and I was in a classroom. This is me with a classroom of 11-year-olds. And I asked them, as I always do, "What do you want to be when you grow up?" Two raised their hands and said, "I want to be President of the World Bank."
Tôi sẽ kết thúc với câu chuyện cuối cùng. Tôi đang ở Tanzania, trong một lớp học. Đây là tôi, ở trong lớp trẻ 11 tuổi. Như mọi lần, tôi hay hỏi, "Sau này lớn lên con sẽ làm gì?" Hai cánh tay giơ lên và trả lời, "Con muốn làm Chủ tịch Ngân hàng thế giới."
(Laughter)
(Cười)
And just like you, my own team and their teachers laughed. But then I stopped them. I said, "Look, I want to tell you a story. When I was born in South Korea, this is what it looked like. This is where I came from. And when I was three years old, in preschool, I don't think that George David Woods, the President of the World Bank, if he had visited Korea on that day and come to my classroom, that he would have thought that the future President of the World Bank was sitting in that classroom. Don't let anyone ever tell you that you cannot be President of the World Bank."
Và cũng như bạn, nhóm tôi và các thầy cô giáo đều cười. Nhưng tôi ngăn họ lại. Tôi nói, "À, tôi muốn kể một chuyện. Khi tôi sinh ra ở Hàn Quốc, đất nước lúc đó trông như thế này. Đây là nơi tôi sinh ra. Và khi tôi lên ba, ở trường mẫu giáo, tôi không nghĩ George David Woods, Chủ tịch Ngân hàng thế giới bấy giờ, nếu ông đến thăm Hàn Quốc và đến lớp tôi, ông đáng lẽ phải nghĩ ra Chủ tịch Ngân hàng thế giới tương lai đang ngồi học ở trong lớp đó. Đừng để ai nói với bạn rằng bạn không thể là Chủ tịch Ngân hàng thế giới được."
Now -- thank you.
Vâng - xin cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)
Let me leave you with one thought. I came from a country that was the poorest in the world. I'm President of the World Bank. I cannot and I will not pull up the ladder behind me. This is urgent. Aspirations are going up. Everywhere aspirations are going up. You folks in this room, work with us. We know that we can find those Zipline-type solutions and help the poor leapfrog into a better world, but it won't happen until we work together. The future "you" -- and especially for your children -- the future you will depend on how much care and compassion we bring to ensuring that the future "us" provides equality of opportunity for every child in the world.
Tôi xin nói một điều cuối. Tôi đến từ một nước từng nghèo nhất thế giới. Giờ là Chủ tịch Ngân hàng thế giới. Tôi không thể và sẽ không còn cơ hội nữa. Việc này rất cấp bách. Khao khát đang trào dâng. Khao khát trào dâng ở mọi nơi. Các bạn ở đây, hãy hợp tác với chúng tôi. Chúng ta biết có thể tìm ra giải pháp tương tự Zipline và giúp người nghèo nhảy vọt vào thế giới tươi đẹp hơn, nhưng sẽ không xảy ra nếu không cùng nhau hợp tác. Bạn trong tương lai, đặc biệt là con cháu bạn, bạn trong tương lai sẽ phụ thuộc vào mức độ quan tâm và chia sẻ chúng ta mang tới để đảm bảo chúng ta trong tương lai có cơ hội bình đẳng cho mọi trẻ em trên thế giới.
Thank you very much.
Cảm ơn bạn rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you. Thank you. Thank you.
Cảm ơn. Cảm ơn. Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)
Chris Anderson: You'd almost think people are surprised to hear a talk like this from the President of the World Bank. It's kind of cool. I'd encourage you to even be a little more specific on your proposal. There's many investors, entrepreneurs in this room. How will you partner with them? What's your proposal?
Chris Anderson: Anh chắc sẽ nghĩ mọi người bất ngờ nghe bài nói như thế này từ Chủ tịch Ngân hàng thế giới. Quá ngầu. Tôi có đề nghị anh nói chi tiết hơn về đề xuất của anh. Có rất nhiều nhà đầu tư, doanh nhân trong khán phòng. Anh sẽ hợp tác với họ thế nào? Đề xuất của anh là gì?
Jim Yong Kim: Can I get nerdy for just a second.
Jim Y.Kim: Tôi có thể hơi điên rồ chút không?
CA: Get nerdy. Absolutely. JYK: So here's what we did. Insurance companies never invest in developing country infrastructure, for example, because they can't take the risk. They're holding money for people who pay for insurance. So what we did was a Swedish International Development Association gave us a little bit of money, we went out and raised a little bit more money, a hundred million, and we took first loss, meaning if this thing goes bad, 10 percent of the loss we'll just eat, and the rest of you will be safe. And that created a 90-percent chunk, tranche that was triple B, investment-grade, so the insurance companies invested. So for us, what we're doing is taking our public money and using it to derisk specific instruments to bring people in from the outside. So all of you who are sitting on trillions of dollars of cash, come to us. Right?
CA: Dĩ nhiên. JYK: Vậy đây là việc chúng tôi đã làm. Công ty bảo hiểm chưa đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước đang phát triển, bởi vì họ không thể chịu được rủi ro. Họ cầm tiền của người đóng bảo hiểm. Chúng tôi đàm phán với Hiệp hội phát triển quốc tế Thụy Điển đưa cho chúng tôi ít tiền, chúng tôi mang tiền đi và gây lời được một trăm triệu, và lần lầu tiên bị lỗ, nghĩa là nếu điều xấu xảy ra chúng tôi chịu 10% số lỗ số tiền còn lại của bạn vẫn an toàn. Và nó tạo ra 90% phần đó là 3B, mức đầu tư, thế nên các công ty bảo hiểm đầu tư vào. Vì thế với chúng tôi, chúng tôi đang dùng tiền công quỹ và sử dụng nó để giảm rủi ro cho các công cụ hiện hành để đưa người khác đến kinh doanh. Thế nên tất cả các bạn đang sở hữu hàng trăm triệu đô la, hãy đến với chúng tôi.
(Laughter)
(Cười)
CA: And what you're specifically looking for are investment proposals that create employment in the developing world.
CA: Vậy ra cái anh đang tìm kiếm là các thỏa thuận đầu tư tạo công ăn việc làm cho thế giới phát triển.
JYK: Absolutely. Absolutely. So these will be, for example, in infrastructure that brings energy, builds roads, bridges, ports. These kinds of things are necessary to create jobs, but also what we're saying is you may think that the technology you're working on or the business that you're working on may not have applications in the developing world, but look at Zipline. And that Zipline thing didn't happen just because of the quality of the technology. It was because they engaged with the Rwandans early and used artificial intelligence -- one thing, Rwanda has great broadband -- but these things fly completely on their own. So we will help you do that. We will make the introductions. We will even provide financing. We will help you do that.
JYK: Chính là như vậy. Chẳng hạn sẽ đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra năng lượng xây dựng cầu đường, bến cảng. Những thứ này tạo ra việc làm, ngoài những gì chúng ta đang nói, có lẽ bạn cho rằng công nghệ mình đang sử dụng hay doanh nghiệp mình đang vận hành sẽ không thích hợp trong thế giới phát triển, nhưng hãy nhìn vào Zipline. Zipline đã không thành hiện thực nếu chỉ có chất lượng công nghệ, Bởi vì họ liên kết với người Rwanda từ sớm và sử dụng trí tuệ nhân tạo thêm nữa, Rwanda có băng thông lớn nên những vật thể bay này đều nằm trong kiểm soát của họ. Vậy chúng tôi sẽ giúp bạn làm điều đó. Chúng ta sẽ trao đổi. Thậm chí sẽ cung cấp tài chính. Chúng tôi sẽ giúp bạn.
CA: How much capital is the World Bank willing to deploy to back those kinds of efforts?
CA: Ngân hàng thế giới sẵn sàng sẽ chi bao nhiêu để hỗ trợ những hợp tác này?
JYK: Chris, you're always getting me to try to do something like this.
JYK: Chris, anh hay làm khó tôi kiểu này.
CA: I'm trying to get you in trouble. JYK: So here's what we're going to do. We have 25 billion a year that we're investing in poor countries, the poorest countries. And as we invest over the next three years, 25 billion a year, we have got to think with you about how to use that money more effectively. So I can't give you a specific number. It depends on the quality of the ideas. So bring us your ideas, and I don't think that financing is going to be the problem.
CA: Tôi cố ý làm thế. JYK: Đây là những gì chúng tôi sẽ làm. Chúng tôi có 25 tỉ mỗi năm để đầu tư vào nước nghèo. những nước nghèo nhất. Và khi đầu tư qua 3 năm liên tiếp 25 tỉ mỗi năm. chúng tôi phải nghĩ làm thể nào sử dụng số tiền đó hiệu quả. Tôi không thể cho bạn con số chính xác. Còn phụ thuộc vào chất lượng mỗi dự án. Hãy đưa ý tưởng cho chúng tôi. và tôi nghĩ tài chính là không vấn đề.
CA: All right, you heard it from the man himself.
CA: Được rồi, bạn đã nghe rồi đó.
Jim, thanks so much. JYK: Thank you. Thank you.
Jim, cảm ơn anh rất nhiều. JYK: Cảm ơn. Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)