When you think about resilience and technology it's actually much easier. You're going to see some other speakers today, I already know, who are going to talk about breaking-bones stuff, and, of course, with technology it never is. So it's very easy, comparatively speaking, to be resilient. I think that, if we look at what happened on the Internet, with such an incredible last half a dozen years, that it's hard to even get the right analogy for it. A lot of how we decide, how we're supposed to react to things and what we're supposed to expect about the future depends on how we bucket things and how we categorize them.
Khi nhắc tới sự linh hoạt trong công nghệ, nó dễ dàng hơn bạn tưởng. Hôm nay bạn sẽ thấy vài diễn giả khác mà tôi đã biết, họ sẽ nói về những chuyện rất to lớn, dĩ nhiên, với công nghệ thì không hề có giới hạn. Nên tương đối mà nói, linh hoạt trong công nghệ rất đơn giản. Nếu ta nhìn vào những gì xảy ra trên Internet, với bao điều phi thường trong vòng sáu năm vừa qua, thật khó để so sánh cho đúng. Đa phần cách ta quyết định, cách ta đáng ra phải phản ứng và những gì ta mong đợi trong tương lai phụ thuộc vào cách ta xử lý và phân loại chúng.
And so I think the tempting analogy for the boom-bust that we just went through with the Internet is a gold rush. It's easy to think of this analogy as very different from some of the other things you might pick. For one thing, both were very real. In 1849, in that Gold Rush, they took over $700 million worth of gold out of California. It was very real. The Internet was also very real. This is a real way for humans to communicate with each other. It's a big deal. Huge boom. Huge boom. Huge bust. Huge bust. You keep going, and both things are lots of hype. I don't have to remind you of all the hype that was involved with the Internet -- like GetRich.com.
Vậy nên, tôi nghĩ phép so sánh hợp lý nhất về sự bùng nổ và suy thoái mà ta vừa trải qua với Internet là Cơn sốt Vàng. Bạn có thể nghĩ phép so sánh này rất khác so với những thứ mà bạn đã chọn so sánh. Thứ nhất, chúng đều có thật. Năm 1849, trong Cơn sốt Vàng, họ thu được hơn 700 triệu đô-la tương ứng số vàng ở California. Chuyện hoàn toàn có thật. Internet cũng là thật. Nó là một cách có thật, giúp con người giao tiếp với nhau. Nó là chuyện lớn đấy. Bùng nổ mạnh. Bùng nổ mạnh. Tụt dốc mạnh. Tụt dốc mạnh. Bạn cứ so sánh tiếp. Và cả hai đều rất được mong đợi. Tôi đâu cần nhắc bạn về mọi sự háo hức xảy ra trên Internet... như là GetRich.com.
But you had the same thing with the Gold Rush. "Gold. Gold. Gold." Sixty-eight rich men on the Steamer Portland. Stacks of yellow metal. Some have 5,000. Many have more. A few bring out 100,000 dollars each. People would get very excited about this when they read these articles. "The Eldorado of the United States of America: the discovery of inexhaustible gold mines in California." And the parallels between the Gold Rush and the Internet Rush continue very strongly. So many people left what they were doing. And what would happen is -- and the Gold Rush went on for years.
Nhưng nó có điểm giống với Cơn sốt Vàng. " Vàng. Vàng. Vàng. 68 người giàu trên tàu Portland. Chất đầy vàng. Vài người có 5.000 đô-la. Nhiều người có nhiều hơn. Vài người kiếm được tận 100.000 đô-la." Người ta thấy thích thú khi đọc những bài báo này. "Elorado của Hợp chủng quốc Hoa Kì: Sự khám phá ra những mỏ vàng vô tận ở California." Những điểm tương đồng giữa Cơn sốt Vàng và Cơn sốt Internet rất khớp nhau. Nhiều người đã từ bỏ thứ mà họ đang làm dở. Và điều tiếp theo... Cơn sốt Vàng đã kéo dài nhiều năm.
People on the East Coast in 1849, when they first started to get the news, they thought, "Ah, this isn't real." But they keep hearing about people getting rich, and then in 1850 they still hear that. And they think it's not real. By about 1852, they're thinking, "Am I the stupidest person on Earth by not rushing to California?" And they start to decide they are. These are community affairs, by the way. Local communities on the East Coast would get together and whole teams of 10, 20 people would caravan across the United States, and they would form companies. These were typically not solitary efforts. But no matter what, if you were a lawyer or a banker, people dropped what they were doing, no matter what skill set they had, to go pan for gold.
Những người ở Bờ Đông năm 1849, khi họ mới biết được tin này, Họ đã nghĩ, "Thật hoang đường." Nhưng họ cứ nghe tin về những người đang giàu lên, và đến năm 1850 họ vẫn nghe điều đó. Và họ vẫn không nghĩ đó là thật. Đến năm 1852, họ nghĩ, "Mình có phải người ngu nhất hành tinh này không khi không đến California nhỉ?" Và rồi họ quyết định đi. Rất nhiều người nghĩ như vậy đó. Các cộng đồng địa phương ở Bờ Đông tập hợp với nhau, và các nhóm gồm 10,20 người... trên khắp đất Mỹ, và họ lập ra những công ty, nhưng chúng cũng chẳng tồn tại được lâu. Nhưng dù họ là luật sư hay làm ngân hàng, mọi người đều bỏ dở việc đang làm, bất kể họ có kĩ năng gì, để đi săn vàng.
This guy on the left, Dr. Richard Beverley Cole, he lived in Philadelphia and he took the Panama route. They would take a ship down to Panama, across the isthmus, and then take another ship north. This guy, Dr. Toland, went by covered wagon to California. This has its parallels, too. Doctors leaving their practices. These are both very successful -- a physician in one case, a surgeon in the other. Same thing happened on the Internet. You get DrKoop.com.
Người bên trái đây, bác sĩ Richard Beverley Cole. Ông sống ở Philadelphia và đã đi tuyến đường Panama. Họ đi tàu xuống Panama, đi qua eo đất, và lên một chuyến tàu khác về hướng bắc. Còn đây, bác sĩ Toland, đi xe ngựa tới California. Điểm chung ở đây là họ đều từ bỏ nghề bác sĩ của mình. Cả hai đều rất thành đạt. Một bác sĩ trị liệu, người kia là bác sĩ phẫu thuật. Điều tương tự xảy ra trên Internet, chẳng hạn như DrKoop.com.
(Laughter)
(Cười)
In the Gold Rush, people literally jumped ship. The San Francisco harbor was clogged with 600 ships at the peak because the ships would get there and the crews would abandon to go search for gold. So there were literally 600 captains and 600 ships. They turned the ships into hotels, because they couldn't sail them anywhere. You had dotcom fever. And you had gold fever. And you saw some of the excesses that the dotcom fever created and the same thing happened. The fort in San Francisco at the time had about 1,300 soldiers. Half of them deserted to go look for gold. And they wouldn't let the other half out to go look for the first half because they were afraid they wouldn't come back.
Thời kì Cơn Sốt Vàng, mọi người thực sự đã "nhảy tàu." Cảng San Francisco chật kín với 600 chiếc tàu lúc đỉnh điểm cơn sốt. Vì khi đó, thuỷ thủ đã bỏ tàu để đi tìm vàng. Và đúng là có 600 thuyền trưởng và 600 chiếc tàu. Họ biến tàu thành khách sạn, vì họ không thể đỗ tàu đi nơi khác. Ta có cơn sốt "chấm com," và ta có cơn sốt vàng. Và ta thấy vài sự quá đà mà cơn sốt dotcom đã gây ra. Điều tương tự đã xảy ra. Cảng San Francisco lúc đó có khoảng 1300 quân nhân. Một nửa trong số họ đào ngũ để tìm vàng. Và người ta không cho phép số còn lại đi tìm họ vì người ta sợ họ sẽ không quay lại.
(Laughter)
(Cười)
And one of the soldiers wrote home, and this is the sentence that he put: "The struggle between right and six dollars a month and wrong and 75 dollars a day is a rather severe one." They had bad burn rate in the Gold Rush. A very bad burn rate. This is actually from the Klondike Gold Rush. This is the White Pass Trail. They loaded up their mules and their horses. And they didn't plan right. And they didn't know how far they would really have to go, and they overloaded the horses with hundreds and hundreds of pounds of stuff. In fact it was so bad that most of the horses died before they could get where they were going. It got renamed the "Dead Horse Trail."
Một người lính gửi thư về nhà, và một câu trong đó là: "Ranh giới giữa tuân thủ luật với sáu đô-la mỗi tháng, và làm trái luật với 75 đô-la mỗi ngày là một thứ rất mơ hồ." Họ tiêu hết vốn đầu tư rất nhanh. Thực sự rất nhanh. Ảnh này từ thời sốt vàng Klondike. Đây là đường mòn White Pass. Họ chất hành lý lên lừa, và ngựa. Và họ đã không tính kĩ. Họ không ước lượng đúng quãng đường cần đi, và họ đã khiến đàn ngựa phải chở quá tải hàng trăm cân. Và thực tế, quá tải đến mức hầu hết ngựa đã chết trước khi chúng đến được đích. Nó được đổi tên thành "đường mòn Ngựa chết."
And the Canadian Minister of the Interior wrote this at the time: "Thousands of pack horses lie dead along the way, sometimes in bunches under the cliffs, with pack saddles and packs where they've fallen from the rock above, sometimes in tangled masses, filling the mud holes and furnishing the only footing for our poor pack animals on the march, often, I regret to say, exhausted, but still alive, a fact we were unaware of, until after the miserable wretches turned beneath the hooves of our cavalcade. The eyeless sockets of the pack animals everywhere account for the myriads of ravens along the road. The inhumanity which this trail has been witness to, the heartbreak and suffering which so many have undergone, cannot be imagined. They certainly cannot be described."
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Canada thời đó đã viết: "Hàng nghìn con ngựa chất đầy đồ nằm chết trên đường, chúng nằm chất đống dưới chân vách đá, với yên ngựa và đống hàng hoá nơi chúng ngã từ trên vách xuống, đôi chỗ chúng nằm chồng chất nhau, lấp kín cả ao bùn, chúng chỉ còn là vài nắm đất dưới chân những con ngựa khốn khổ khác đang đi tới. Thật tiếc khi thường phải nói rằng chúng kiệt sức nhưng còn sống, nhưng ta nào có hay biết, cho tới lúc chúng chết rũ rượi ngay bên cạnh chúng ta. Những hốc mắt trống rỗng ở khắp nơi, chúng là những gì còn lại sau khi lũ quạ bỏ đi. Sự vô nhân tính con đường này đã chứng kiến, sự khổ đau bao người phải chịu, thật không tưởng, không lời nào diễn tả được.
And you know, without the smell that would have accompanied that, we had the same thing on the Internet: very bad burn rate calculations. I'll just play one of these and you'll remember it. This is a commercial that was played on the Super Bowl in the year 2000.
Các bạn biết đấy, dù không bốc mùi như vụ vừa rồi, ta có chuyện tương tự trên internet: số vốn mất đi là vô cùng lớn. Tôi sẽ nhắc lại chuyện đó bằng cách chiếu lại thứ này. Đây là quảng cáo chiếu ở cúp Super Bowl năm 2000.
(Video): Bride #1: You said you had a large selection of invitations. Clerk: But we do. Bride #2: Then why does she have my invitation? Announcer: What may be a little thing to some ... Bride #3: You are mine, little man. Announcer: Could be a really big deal to you. Husband #1: Is that your wife? Husband #2: Not for another 15 minutes. Announcer: After all, it's your special day. OurBeginning.com. Life's an event. Announce it to the world.
- Anh nói có nhiều mẫu thiệp mời lắm mà? - Đúng vậy! Vậy tại sao cô ta có thiệp mời giống tôi?! <i>Điều nhỏ nhặt với người khác...</i> - Tao phải xử mày, thằng nhóc! <i>...có thể rất quan trọng với bạn.</i> - Đó là vợ anh đấy à? - 15 phút nữa cô ta mới là vợ tôi. <i>Đây là ngày trọng đại của bạn mà...</i> <i>OurBeginning.com - Đời là một sự kiện. Hãy để cả thế giới biết.</i>
Jeff Bezos: It's very difficult to figure out what that ad is for.
Jeff Bezos: Rất khó biết được quảng cáo này nói về cái gì.
(Laughter)
(Cười)
But they spent three and a half million dollars in the 2000 Super Bowl to air that ad, even though, at the time, they only had a million dollars in annual revenue. Now, here's where our analogy with the Gold Rush starts to diverge, and I think rather severely. And that is, in a gold rush, when it's over, it's over. Here's this guy: "There are many men in Dawson at the present time who feel keenly disappointed. They've come thousands of miles on a perilous trip, risked life, health and property, spent months of the most arduous labor a man can perform and at length with expectations raised to the highest pitch have reached the coveted goal only to discover the fact that there is nothing here for them."
Nhưng họ bỏ ra hẳn 3,5 triệu đô-la để chiếu nó tại cúp Super Bowl năm 2000, dù lúc đó doanh thu hằng năm của họ chỉ là 100.000 đô-la. Đây là chỗ phép so sánh với Cơn sốt Vàng không còn đúng nữa, và tôi nghĩ nó khác đi nhiều. Đó là, cơn sốt vàng, khi nó kết thúc, nó kết thúc luôn. Có người viết: "Nhiều người hiện đang ở Dawson thấy rất thất vọng. Họ tới đó sau hành trình hàng nghìn cây số đầy rủi ro, mạo hiểm tính mạng và tài sản, dành hàng tháng lao động cực nhọc, và tràn trề niềm hi vọng đạt được mong muốn của mình chỉ để phát hiện rằng: rằng nơi này chẳng có gì cho họ cả.
And that was, of course, the very common story. Because when you take out that last piece of gold -- and they did incredibly quickly. I mean, if you look at the 1849 Gold Rush -- the entire American river region, within two years -- every stone had been turned. And after that, only big companies who used more sophisticated mining technologies started to take gold out of there. So there's a much better analogy that allows you to be incredibly optimistic and that analogy is the electric industry. And there are a lot of similarities between the Internet and the electric industry. With the electric industry you actually have to -- one of them is that they're both sort of thin, horizontal, enabling layers that go across lots of different industries. It's not a specific thing.
Và đó dĩ nhiên là chuyện thường thấy. Vì khi đào sạch vàng, họ đã làm vậy rất nhanh. Ý tôi là, nếu ta nhìn vào Cơn sốt Vàng năm 1849, toàn bộ các lưu vực sông trên nước Mỹ... trong vòng hai năm đã bị xới tung hết Và sau đó, chỉ những công ty lớn mới sử dụng công nghệ khai thác hiện đại để khai thác vàng ở đó. Tôi nghĩ có phép so sánh đúng hơn nhiều và khiến ta thấy lạc quan hơn. Và phép so sánh đó là ngành công nghiệp điện. Có rất nhiều điểm chung giữa internet và ngành công nghiệp điện. Với ngành điện, ta thực sự phải... Một điểm chung là cả hai đều rất linh hoạt, có thể phối hợp cùng nhiều ngành khác. Chúng không chỉ gói gọn trong phạm vi hẹp.
But electricity is also very, very broad, so you have to sort of narrow it down. You know, it can be used as an incredible means of transmitting power. It's an incredible means of coordinating, in a very fine-grained way, information flows. There's a bunch of things that are interesting about electricity. And the part of the electric revolution that I want to focus on is sort of the golden age of appliances. The killer app that got the world ready for appliances was the light bulb. So the light bulb is what wired the world. And they weren't thinking about appliances when they wired the world. They were really thinking about -- they weren't putting electricity into the home; they were putting lighting into the home. And, but it really -- it got the electricity. It took a long time.
Nhưng điện cũng là một ngành rất rộng, nên ta phải thu gọn nó lại. Bạn biết đấy, chẳng hạn như về phương tiện truyền tải điện, nó là cách điều phối tỉ mỉ từng chi tiết, hay truyền dữ liệu. Có rất nhiều điều thú vị về điện. Một phần của cuộc cách mạng điện năng mà tôi muốn tập trung vào là thời hoàng kim của đồ gia dụng. Một sản phẩm tuyệt vời giúp thế giới sẵn sàng dùng đồ gia dụng là bóng đèn. Vậy bóng đèn là thứ giúp cả thế giới dùng điện. Và họ đã không nghĩ rằng đồ gia dụng sẽ sử dụng đến điện. Họ không hề nghĩ tới... Họ không cho rằng họ đang mang điện tới từng nhà, Họ chỉ muốn thắp sáng từng nhà thôi. Việc đó đã mất rất lâu...
This was a huge -- as you would expect -- a huge capital build out. All the streets had to be torn up. This is work going on down in lower Manhattan where they built some of the first electric power generating stations. And they're tearing up all the streets. The Edison Electric Company, which became Edison General Electric, which became General Electric, paid for all of this digging up of the streets. It was incredibly expensive. But that is not the -- and that's not the part that's really most similar to the Web. Because, remember, the Web got to stand on top of all this heavy infrastructure that had been put in place because of the long-distance phone network. So all of the cabling and all of the heavy infrastructure -- I'm going back now to, sort of, the explosive part of the Web in 1994, when it was growing 2,300 percent a year. How could it grow at 2,300 percent a year in 1994 when people weren't really investing in the Web? Well, it was because that heavy infrastructure had already been laid down.
Đây là một cú đầu tư cực kỳ lớn. Mọi con phố phải được đào lên. Đây là ảnh công trường ở Hạ Manhattan, ở đó họ đã xây những trạm phát điện đầu tiên, và họ đang đào hết đường lên. Công ty Edison Electric, sau này là Edison General Electric, rồi trở thành General Electric, đã trả tiền cho việc đào đường, đó là một khoảnchi phí khổng lồ. Và đó không hẳn là điều tương đồng nhất với mạng internet. Vì hãy nhớ rằng mạng đã được xây trên nền tảng hạ tầng có sẵn của mạng lưới điện thoại đường dài. Vậy nên mọi dây cáp, mọi cơ sở hạ tầng... Tôi đang nói đến thời điểm bùng nổ của mạng năm 1994 với tốc độ phát triển cỡ 2.300% mỗi năm. Sao nó phát triển được 2300% mỗi năm vào năm 1994 khi người ta không thực sự đầu tư vào mạng? Lý do vì cơ sở hạ tầng đã có sẵn rồi.
So the light bulb laid down the heavy infrastructure, and then home appliances started coming into being. And this was huge. The first one was the electric fan -- this was the 1890 electric fan. And the appliances, the golden age of appliances really lasted -- it depends how you want to measure it -- but it's anywhere from 40 to 60 years. It goes on a long time. It starts about 1890. And the electric fan was a big success. The electric iron, also very big. By the way, this is the beginning of the asbestos lawsuit.
Vậy, bóng đèn đã giúp xây dựng cơ sở hạ tầng, và rồi đồ gia dụng bắt đầu phát triển với tốc độ chóng mặt. Sản phẩm đầu tiên là quạt điện. Đây là quạt điện năm 1890. Thời kỳ hoàng kim của tăng trưởng đồ gia dụng đã kéo dài... tuỳ theo cách bạn tính, nhưng thường từ 40 đến 60 năm. Nó kéo dài rất lâu, bắt đầu từ khoảng những năm 1890. Quạt điện là một sản phẩm rất thành công. Bàn là điện cũng vậy. Nhân tiện, đây là khởi đầu của vụ kiện sợi a-mi-ăng.
(Laughter)
(Cười)
There's asbestos under that handle there. This is the first vacuum cleaner, the 1905 Skinner Vacuum, from the Hoover Company. And this one weighed 92 pounds and took two people to operate and cost a quarter of a car. So it wasn't a big seller. This was truly, truly an early-adopter product -- (Laughter) the 1905 Skinner Vacuum. But three years later, by 1908, it weighed 40 pounds. Now, not all these things were highly successful.
Cái tay cầm kia có thành phần chứa sợi a-mi-ăng. Đây là máy hút bụi đầu tiên, mẫu máy Skinner năm 1905 do Công ty Hoover sản xuất. Nó nặng 92 kg, cần hai người để dùng nó, và đắt bằng một phần tư chiếc ô tô. Công ty đã chẳng bán được nhiều hàng. Những người đã mua chiếc máy đó đúng là những khách hàng rất trung thành (Cười) của mẫu máy Skinner 1905 ấy. Nhưng ba năm sau, vào năm 1908, nó chỉ nặng 18 kg. Không phải mọi sản phẩm đó đều thành công vang dội.
(Laughter)
(Cười)
This is the electric tie press, which never really did catch on. People, I guess, decided that they would not wrinkle their ties. These never really caught on either: the electric shoe warmer and drier. Never a big seller. This came in, like, six different colors.
Đây là máy ép cà vạt chạy điện, nó chẳng được ưa chuộng lắm. Cà vạt khá khó nhàu, và người ta chẳng cần nó lắm. Những món này cũng không được ưa dùng: Máy sấy và làm ấm giày. Chưa bao giờ bán chạy. Nó có tận sáu màu liền.
(Laughter)
(Cười)
I don't know why. But I thought, you know, sometimes it's just not the right time for an invention; maybe it's time to give this one another shot. So I thought we could build a Super Bowl ad for this. We'd need the right partner. And I thought that really -- (Laughter) I thought that would really work, to give that another shot. Now, the toaster was huge because they used to make toast on open fires, and it took a lot of time and attention. I want to point out one thing. This is -- you guys know what this is. They hadn't invented the electric socket yet. So this was -- remember, they didn't wire the houses for electricity. They wired them for lighting. So your -- your appliances would plug in. They would -- each room typically had a light bulb socket at the top. And you'd plug it in there.
Tôi không biết tại sao nữa. Nhưng tôi nghĩ, đôi khi một sáng chế đã ra đời không đúng lúc, Có lẽ đã đến lúc cho nó thêm một cơ hội nữa. Nên tôi nghĩ ta có thể làm quảng cáo Super Bowl cho thứ này. Ta cần đối tác phù hợp. Tôi nghĩ nó thật... (Cười) Tôi nghĩ rất hợp lý khi cho sản phẩm này thêm một cơ hội nữa. Máy nướng bánh rất phổ biến vì trước kia, nó nướng bánh trực tiếp với lửa, điều đó rất tốn thời gian và công sức. Tôi muốn nói đến 1 thứ. Cái này... Các bạn biết đây là gì mà. Lúc đó họ chưa sáng chế ra ổ cắm điện. Nên đây là... Hãy nhớ họ không đi dây trong nhà để đấu điện. Họ đi dây chỉ để lắp đèn, thứ đồ gia dụng duy nhất sẽ cắm vào đó. Mỗi phòng thường có một đui đèn trên trần và họ cắm dây vào đó.
In fact, if you've seen the Carousel of Progress at Disney World, you've seen this. Here are the cables coming up into this light fixture. All the appliances plug in there. And you would just unscrew your light bulb if you wanted to plug in an appliance. The next thing that really was a big, big deal was the washing machine. Now, this was an object of much envy and lust. Everybody wanted one of these electric washing machines. On the left-hand side, this was the soapy water. And there's a rotor there -- that this motor is spinning. And it would clean your clothes. This is the clean rinse-water. So you'd take the clothes out of here, put them in here, and then you'd run the clothes through this electric wringer. And this was a big deal. You'd keep this on your porch. It was a little bit messy and kind of a pain. And you'd run a long cord into the house where you could screw it into your light socket.
Nếu bạn từng thấy "Vòng quay Tiến bộ" ở Công viên Disney, bạn sẽ thấy điều đó. Các dây điện sẽ đều cắm vào đó. Tương tự, đồ gia dụng sẽ cắm điện ở đó. Ta chỉ cần tháo bóng đèn nếu ta cần cắm điện cho đồ gia dụng. Sản phẩm nổi tiếng tiếp theo là máy giặt. Đây là sản phẩm nhiều người thèm muốn. ai cũng muốn có một chiếc máy giặt điện. Bên trái là ngăn để nước xà phòng. Có mô tơ quay ở đó, nó quay và làm sạch quần áo. Đây là chỗ để vắt. Ta lấy quần áo khỏi đó và để vào đây. Và rồi quần áo được cho vào máy vắt này. Món đồ đó bán rất chạy. Người ta hay để nó ngoài sân, việc bố trí đó khá mất công. Ta phải đi dây vào nhà và cắm nó vào chiếc đui đèn.
(Laughter)
(Cười)
And that's actually kind of an important point in my presentation, because they hadn't invented the off switch. That was to come much later -- the off switch on appliances -- because it didn't make any sense. I mean, you didn't want this thing clogging up a light socket. So you know, when you were done with it, you unscrewed it. That's what you did. You didn't turn it off. And as I said before, they hadn't invented the electric outlet either, so the washing machine was a particularly dangerous device. And there are -- when you research this, there are gruesome descriptions of people getting their hair and clothes caught in these devices. And they couldn't yank the cord out because it was screwed into a light socket inside the house.
Đó chính là điều quan trọng tôi muốn đề cập đến trong bài nói này, vì người ta chưa sáng chế ra nút tắt máy. Mãi về sau mới có nút tắt trên đồ gia dụng, vì người ta không muốn dây cắm điện cứ ở đó và chiếm chỗ chiếc đui đèn. Nên khi dùng xong là họ sẽ rút dây điện ra. Họ đã làm vậy chứ không phải tắt đi. Và như tôi vừa nói, người ta cũng chưa sáng chế ra ổ điện. Nên máy giặt là một sản phẩm khá nguy hiểm. Khi bạn tìm hiểu về nó, sẽ có rất nhiều bài mô tả kinh hoàng về tóc và quần áo bị mắc vào máy. Và họ không thể giật dây ra, vì nó cắm chặt vào đui đèn ở trong nhà.
(Laughter) And there was no off switch, so it wasn't very good. And you might think that that was incredibly stupid of our ancestors to be plugging things into a light socket like this. But, you know, before I get too far into condemning our ancestors, I thought I'd show you: this is my conference room. This is a total kludge, if you ask me. First of all, this got installed upside down. This light socket -- (Laughter) and so the cord keeps falling out, so I taped it in.
Và cũng không có công tắc, nên... ... thật không an toàn. Và bạn có thể nghĩ rằng tổ tiên ta thật ngu dốt khi cắm dây điện vào đui đèn như thế này. Nhưng, trước khi tôi phê phán tổ tiên quá nhiều, Tôi muốn cho các bạn xem, đây là phòng họp của tôi. Tôi thấy nó thật tạm bợ. Trước tiên, những chiếc đui đèn đã bị lắp ngược, nên dây cắm cứ bị tuột ra và tôi phải dán băng dính vào.
(Laughter)
Chưa là gì đâu, nó vẫn chưa phải điều tệ hại nhất.
This is supposed -- don't even get me started. But that's not the worst one. This is what it looks like under my desk. I took this picture just two days ago. So we really haven't progressed that much since 1908.
Dưới bàn tôi trông thế này này. Tôi chụp bức này hai hôm trước. Vậy là ta chưa tiến bộ nhiều lắm từ 1908,
(Laughter)
thực sự ta vẫn còn rất lộn xộn.
It's a total, total mess. And, you know, we think it's getting better, but have you tried to install 802.11 yourself?
Và ta nghĩ nó đã khá hơn rồi, nhưng bạn đã thử tự cài mạng theo chuẩn 802.11 bao giờ chưa?
(Laughter)
Tôi thách các bạn đấy. Khó lắm.
I challenge you to try. It's very hard. I know Ph.D.s in Computer Science -- this process has brought them to tears, absolute tears. (Laughter) And that's assuming you already have DSL in your house. Try to get DSL installed in your house. The engineers who do it everyday can't do it. They have to -- typically, they come three times. And one friend of mine was telling me a story: not only did they get there and have to wait, but then the engineers, when they finally did get there, for the third time, they had to call somebody. And they were really happy that the guy had a speakerphone because then they had to wait on hold for an hour to talk to somebody to give them an access code after they got there. So we're not -- we're pretty kludge-y ourselves.
Tôi quen vài tiến sĩ ngành Khoa học Máy tính... việc cài đặt nó làm họ phát khóc. Khóc sướt mướt luôn. Đó là giả sử bạn đã lắp mạng dây DSL ở nhà rồi. Hãy thử cài đặt DSL trong nhà. Các kĩ sư cài nó hằng ngày còn không làm nổi. Thường họ phải đến nhà ba lần. Một anh bạn tôi đã kể chuyện rằng, không những các kĩ sư đến rồi phải chờ, khi những kĩ sư đến nhà anh ấy lần thứ ba, họ còn phải gọi người khác, Họ rất vui vì điện thoại anh ấy có loa ngoài vì họ phải chờ máy tận một tiếng để nói chuyện với người khác để gửi họ mật khẩu mạng sau khi họ đến. Đó là một mớ rất vô tổ chức. Mà DSL cũng còn rất thô sơ.
By the way, DSL is a kludge. I mean, this is a twisted pair of copper that was never designed for the purpose it's being put to -- you know it's the whole thing -- we're very, very primitive. And that's kind of the point. Because, you know, resilience -- if you think of it in terms of the Gold Rush, then you'd be pretty depressed right now because the last nugget of gold would be gone. But the good thing is, with innovation, there isn't a last nugget. Every new thing creates two new questions and two new opportunities.
Sợi cáp đồng xoắn đôi này không được thiết kế để làm việc như vậy. Bạn biết đấy, chúng ta vẫn rất thô sơ. Và vấn đề là ở đó, vì... sự linh hoạt, nếu bạn nghĩ về nó như cơn sốt vàng thì giờ bạn sẽ rất chán nản. Vì miếng vàng cuối cùng đã mất rồi. Nhưng cái hay là, với công nghệ, không có miếng cuối nào cả, mọi điều mới mẻ đều tạo ra hai câu hỏi mới, và hai cơ hội mới.
And if you believe that, then you believe that where we are -- this is what I think -- I believe that where we are with the incredible kludge -- and I haven't even talked about user interfaces on the Web -- but there's so much kludge, so much terrible stuff -- we are at the 1908 Hurley washing machine stage with the Internet. That's where we are. We don't get our hair caught in it, but that's the level of primitiveness of where we are. We're in 1908.
Và nếu bạn tin vào điều đó, thì bạn sẽ tin rằng hiện giờ... Tôi nghĩ như thế này: tôi tin rằng ta vẫn còn rất tạm bợ và tôi còn chưa nói về giao diện người dùng trên mạng. Có rất nhiều thứ tạm bợ, rất nhiều thứ dở tệ. Ta đang ở giai đoạn Máy giặt Hurley năm 1908 của internet. Ta đang ở đó đấy. Dù ta không bị mắc tóc vào nó. Nhưng đó là mức độ thô sơ của ta hiện giờ. Ta đang ở thời 1908.
And if you believe that, then stuff like this doesn't bother you. This is 1996: "All the negatives add up to making the online experience not worth the trouble." 1998: "Amazon.toast." In 1999: "Amazon.bomb." My mom hates this picture.
Và nếu bạn tin điều đó thì những thứ như này sẽ không làm bạn khó chịu. Đây là hồi 1996: ... khiếm khuyết chồng chất - khiến trải nghiệm online rất tệ hại." 1998: "amazon. tiêuđời." Và 1998, "amazon.nổtung" Mẹ tôi ghét tấm ảnh này.
(Laughter)
She -- but you know, if you really do believe that it's the very, very beginning, if you believe it's the 1908 Hurley washing machine, then you're incredibly optimistic. And I do think that that's where we are. And I do think there's more innovation ahead of us than there is behind us. And in 1917, Sears -- I want to get this exactly right. This was the advertisement that they ran in 1917. It says: "Use your electricity for more than light." And I think that's where we are. We're very, very early. Thank you very much.
Nhưng, nếu bạn tin rằng đây mới chỉ là khởi đầu, nếu bạn tin đây mới chỉ là Máy giặt Harley năm 1908, thì bạn cực kì lạc quan. Và tôi nghĩ ta đang ở đó. Và tôi nghĩ phía trước ta còn nhiều cải tiến hơn là đằng sau ta. Và năm 1917, Công ti Sears... Tôi muốn trích cho đúng. Đây là quảng cáo họ đăng năm 1917. Nó nói : "Hãy dùng điện cho nhiều thứ hơn đèn". Và tôi nghĩ ta đang ở đó. Ta vẫn đang ở giai đoạn đầu. Xin cảm ơn.