Here's what gives me hope for humanity. I believe that we can change our human nature for the better. This chance is unique. It's where we stand in history right now. No other generation has stood here before us.
Đây là những gì mang lại cho tôi hy vọng về nhân loại. Tôi tin rằng chúng ta có thể thay đổi nhân tính của mình vì những điều tốt đẹp hơn. Đây là cơ hội duy nhất. Tại nơi đây, khoảnh khắc này chúng ta làm nên lịch sử. Không một thế hệ nào khác đã từng làm điều này trước đây
Homo sapiens has been around for about 300,000 years. Other humanoid life forms have come and gone. We find their traces. We search for their stories. But we are the success story. We've survived natural disasters, famines, floods, earthquakes, plagues, woolly mammoths, mess-ups of our own making. We're smart, no question. The question is: Are we smart enough to survive how smart we are? It's not looking so good just now, is it?
loài người tinh khôn đã xuất hiện từ khoảng 300.000 năm trước. Những nhân dạng khác cũng đã từng tồn tại và biến mất Chúng ta tìm thấy dấu vết của họ. Chúng ta khám phá ra câu chuyện của họ. Nhưng chúng ta là những kẻ thành công. Chúng ta đã sống sót sau thiên tai, nạn đói, lũ lụt, động đất, bệnh dịch, những con voi ma mút lông, hay mớ hỗn độn do chính mình tạo ra. Chúng ta thông minh, đó là điều không phải bàn cãi. Câu hỏi đặt ra là: liệu chúng ta có đủ thông minh để tồn tại? và chúng ta thông minh như thế nào? Nghe có vẻ không tốt lắm phải không?
(Laughter)
(Tiếng cười)
We stand facing the possibility of global conflict. If that happens, it will be our Third World War in not much more than 100 years. If Putin's violence stops today, the problem doesn't go away. As across the globe dictatorism threatens democracy. I wonder whether as a species we can survive any of this, even if those threats disappear. Those living inside the snow globe of their magical thinking will not be insulated against the facts of climate breakdown. And yet, still, we go on heating up the planet. Still we go on polluting the earth. Still we despoil our precious natural resources.
Chúng ta đang đứng trước khả năng xung đột toàn cầu. Nếu điều đó xảy ra chúng ta sẽ có Chiến tranh Thế giới Thứ 3 trong vòng 100 năm tới. Nếu cuộc xung đột của ông Putin chấm dứt vào hôm nay, vấn đề vẫn còn tồn tại. Trên khắp thế giới chủ nghĩa độc tài vẫn đe dọa nền dân chủ. Tôi tự hỏi liệu với tư cách là một loài, chúng ta có thể tồn tại sau bất kỳ điều gì như thế này, ngay cả khi những mối đe dọa biến mất. Những người sống bên trong quả cầu tuyết với tư duy mê tín của mình sẽ không tránh khỏi hiện thực của biến đổi khí hậu. Song, chúng ta vẫn đang không ngừng khiến hành tinh nóng lên. Chúng ta vẫn tiếp tục làm ô nhiễm trái đất. Chúng ta vẫn tước đoạt đi những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá.
250 years ago, we kick-started the Industrial Revolution. The machine age. It's when we first hear the buzzwords of the modern moment. Disruption, acceleration. That's Karl Marx, actually. Acceleration of production, the factory system, acceleration of transport, the coming of the railways. No need for ships to wait for the wind. Coal-fired, steam-powered. Acceleration of information. The global village. And it's when we start digging fossil fuels out of the ground in planet-changing quantities, when we start pushing carbon dioxide into the atmosphere.
250 năm trước, chúng ta đã khởi động quá trình công nghiệp hóa. Kỷ nguyên của máy móc. Đó là lần đầu tiên chúng ta nghe về những biệt ngữ của thời hiện đại. Đột phá, tăng trưởng. Thực ra đó là chủ nghĩa Karl Marx. Tăng trưởng sản xuất, Hệ thống công xưởng, tăng trưởng vận tải, sự ra đời của của đường sắt. Những chuyến tàu không cần đợi gió để ra khơi. Than đốt và năng lượng hơi nước. Tăng trưởng thông tin. Ngôi làng toàn cầu. Và đó là lúc ta bắt đầu đào nhiên liệu hóa thạch ra khỏi mặt đất với số lượng thay đổi cả một hành tinh, là lúc chúng ta bắt đầu thải khí CO2 vào khí quyển.
In a salami slice of space-time, human beings have changed the way that we live on the planet forever. We've moved out of the agricultural economies of our evolutionary inheritance into the industrial economies and beyond of where we are now. There's no one else for us to turn to. There's no one else for us to blame. There is no us and them. There's only us. So will we continue to be the success story of the known universe, or are we writing our own obituary? The suicide species?
Trong một lát cắt của không gian-thời gian, con người đã thay đổi cách chúng ta sống trên hành tinh này mãi mãi. Chúng ta đã bước ra khỏi nền kinh tế nông nghiệp được thừa hưởng từ tổ tiên để chuyền sang nên kinh tế công nghiệp hiện tại và còn hơn thế nữa. Không có một ai khác có thể giúp đỡ chúng ta Không một ai để chúng ta đổ lỗi. Không có “chúng ta” và “họ”. Chỉ có duy nhất “chúng ta”. Vậy liệu chúng ta sẽ vẫn là những kẻ thành công mà cả vũ trụ đã từng biết, hay chúng ta lại đang viết nên bản cáo phó cho chính mình? Những giống loài tự sát?
Now I was raised in an evangelical household. We lived in end time. We were waiting for things to get so bad that Jesus would come back and save us. The apocalypse. It's what the prepper communities are, well, prepping for. And it's why super rich white guys are buying up tracts of land, hoping that they can live inside a kind of wi-fi-enabled Noah's Ark.
Tôi đã được nuôi nấng trong một hộ gia đình theo đạo Tin lành. Chúng ta đang sống ở “kỳ tận thế“. Chúng ta đang đợi mọi thứ trở nên tồi tệ đến mức Jesus sẽ quay lại cứu chúng ta. Ngày tận thế. Đó là điều mà các cộng đồng theo chủ nghĩa sinh tồn đang chuẩn bị đối phó. Đó là lý do vì sao những người da trắng giàu có đang mua những vùng đất rộng lớn, với hy vọng họ có thể sống trong một nơi như con tàu Noah có hỗ trợ wifi.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Well, we can have the end time if we want it. We know those stories from our religions, our sci-fi, our movies. We are uniquely placed to bring on the apocalypse. And we're uniquely placed to save ourselves, too. If we could accept that as a species, Homo sapiens needs to evolve further. And that's what gives me hope, because we have the means to evolve further. And that's AI.
Chúng ta có thể có ngày tận thế nếu muốn, Chúng ta biết những câu chuyện từ tôn giáo, truyện khoa học viễn tưởng, phim ảnh Chúng ta được đặc biệt đặt vào tình thế gây ra tận thế. Và chúng ta cũng được cho là sẽ cứu lấy bản thân chúng ta. Nếu chúng ta có thể chấp nhận rằng với tư cách một giống loài, Loài người cần tiếp tục tiến hóa. Và đó là điều cho tôi hy vọng, bởi tôi chúng ta có phương tiện để tiếp tục tiến hóa. Và đó là AI.
Now look, I don't mean the geeks will inherit the earth. I'm sorry, geeks. You won't.
Giờ thì nhìn xem, ý tôi không phải là những con mọt sách sẽ chiếm lấy trái đất. Tôi xin lỗi, các bạn mọt sách. Sẽ không đâu.
(Laughter)
(Tiếng cười)
I don’t really want to talk about narrow- goal artificial intelligence at all. That term of John McCarthy’s, “artificial intelligence,” is it any use to us now? I'd rather call it alternative intelligence. And I think humankind is in need of some alternative intelligence.
Tôi không muốn nói về trí tuệ nhân tạo được tạo ra với mục tiêu ngắn hạn. Thuật ngữ đó của John McCarthy, “trí tuệ nhân tạo,” giờ nó có tác dụng gì với chúng ta không? Tôi thấy nên gọi là trí tuệ thay thế thì hơn. Và tôi nghĩ rằng loài người đang cần một vài trí thông minh thay thế.
In 1965, Jack Good talked about AI as our last invention. He meant superintelligence, the kind of thing that worries Bill Gates and Elon Musk. You know, the "Terminator" scenario. The final us and them. But I think that's all to do with our doomster mindset. We don't have to vote for the apocalypse.
Vào năm 1965, Jack Good đã nói AI là phát minh cuối cùng của chúng ta. Ý anh ấy là siêu trí tuệ, thứ sẽ khiến Bill Gates và Elon Musk phải lo lắng. Bạn biết đấy, viễn cảnh như “Kẻ hủy diệt.” Trận quyết đấu giữa ta và chúng. Nhưng tôi nghĩ rằng nó liên quan tới tư duy của những người tin rằng điều tồi tệ sẽ xảy ra.
Jack Good worked at Bletchley Park with Alan Turing during World War II,
Chúng ta không cần phải lựa chọn tận thế.
building the early computing machinery that would crack the Nazi Enigma code. Now after the war, Turing, wrestling with the problems of a stored, programmed computer had a bigger dream on his mind. And in 1950, Alan Turing published a paper called “Computing Machinery and Intelligence.” And in there, there's a chapter that's titled "Lady Lovelace's Objection" where Turing time-travels back 100 years to have a conversation with that long-dead genius, Ada Lovelace, the first person to write mathematical programs for the computer not yet built by her friend Charles Babbage. Now Ada wrote that as well as doing awesome stuff with numbers, the computer would, if correctly programmed, be able to write novels and compose music. That is a pretty big insight in 1843.
Jack Good làm việc ở Bletchley Park với Alan Turing trong thời chiến tranh thế giới thứ 2, xây dựng máy điện toán đời đầu có thể giải mã Enigma của Đức quốc xã. Giờ đây sau chiến tranh, Turing, vật lộn với vấn đề liên quan đến một chiếc máy tính được lưu trữ, lập trình với một giấc mơ lớn trong tâm trí. Và vào năm 1950, Alan Turing cho ra đời một bài nghiên cứu có tên là “Điện toán và trí thông minh.” Và trong đó, có một chương có tiêu đề là “Sự phản đối của quý cô Lovelace” phần mà Turing trở lại 100 năm trước để trò chuyện với thiên tài đã qua đời từ lâu đó, Ada Lovelave, người đầu tiên viết thuật toán cho chiếc máy tính mà bạn của cô ấy, Charles Babbage, còn chưa hoàn thiện. Ada viết nó cũng như làm những điều tuyệt vời với những con số, nếu được lập trình đúng, chiếc máy tính sẽ có thể viết tiểu thuyết và soạn nhạc. Đó là một tầm hiểu biết khá rộng vào năm 1843.
"But," said Ada, "The computer should never have any pretensions to originate anything." She meant, think creatively. Well, Ada's father was Lord Byron, England's most famous poet, and England is the land of Shakespeare. More poets. And Ada had seen Charles Babbage's kit all over the floor, and she wasn’t having some steampunk, coal-fired nuts, bolts, bezels, levers, gears, cogs and chains, crank-handled machine writing poetry.
“Nhưng”, Ada nói, “Máy tính không bao giờ nên có ý muốn hình thành bất cứ thứ gì.” Ý cô ấy là, suy nghĩ sáng tạo. Bố của Ada là Lord Byron, nhà thơ nổi tiếng nhất nước Anh, và nước Anh là đất nước của Shakespeare. Nhiều nhà thơ khác nữa. Và Ada đã thấy bộ dụng cụ của Charles Babbage khắp nơi trên sàn, và cô ấy không sử dụng máy móc chạy bằng hơi nước, than, bu lông, vòng bezel, đòn bẩy, bánh răng, vấu và xích, máy tay quay để làm thơ.
"Well," said Alan Turing, "Was Lady Lovelace, correct? Could a computer ever be said to originate anything? And what would be the difference between computing intelligence and human intelligence?"
“Vậy,” Alan Turing nói, “Quý cô Lovelace đã đúng hay sai? Liệu một cái máy tính sẽ có thể sáng tạo ra thứ gì đó? Và sự khác nhau giữa trí thông minh của máy tính và trí thông minh của con người là gì?”
Well, I'll tell you one difference, and it's optimistic. Computing power uses binary, but computing intelligence is nonbinary. It's humans who are obsessed with false binaries. Male, female. Masculine, feminine. Black, white. Human, non-human. Us, them. AI has no skin color. AI has no race, no gender, no faith in a sky God. AI is not interested in men being superior to women, in white folks being smarter than people of color. Straight, gay, gay, trans are not separating categories for AI. AI does not distinguish between success and failure by gold bars, yachts and Ferraris. AI is not motivated by fame and fortune. If we develop alternative intelligence, it will be Buddhist in its non-needs.
Tôi sẽ cho các bạn biết một sự khác biệt, và nó khá lạc quan. Máy tính sử dụng hệ nhị phân, nhưng trí thông minh máy tính không phải là nhị phân. Chính con người bị ám ảnh với nhị phân sai. Phụ nữ, nam giới. Giống đực, giống cái. Đen, trắng. Con người, không phải người. Chúng ta, họ. AI không có màu da. AI không có chủng tộc, không có giới tính, không có niềm tin vào một vị Chúa trời. AI không quan tâm tới việc đàn ông vượt trội hơn phụ nữ, hay người da trắng thông minh hơn người da màu. Người dị tính, người đồng tính, người chuyển giới không phải là phạm trù phân biệt đối với AI. AI không phân biệt thành công và thất bại dựa vào những thỏi vàng, du thuyền hay những chiếc Ferrari. AI không tìm kiếm động lực từ danh tiếng và sự giàu sang. Nếu chúng ta phát triển trí tuệ thay thế, nó sẽ là Đức Phật của lối sống không có nhu cầu.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)
Now I am aware that the algorithms ubiquitous in everyday life are racist, sexist, gendered, trivializing, stoke division, amplify bias. But what is this teaching us about ourselves? AI is a tool. We are the ones who are using the tool. Hatred and contempt, money and power are human agendas, not AI agendas. We've been forced to recognize the paucity, the inadequacy of our data sets. And humans are trained on data sets too. We've had to recognized the unacknowledged ideologies that we live by every day. Rationality, neutrality, logic, objective decision-making. What can we say about any of that when we see what we are reflected back to us in the small screen? And it's not a pretty sight. AI is not yet self-aware. But we are becoming more self-aware as we work with AI and we realize that Homo sapiens is no longer fit for purpose. We need a reboot. So what are we going to choose? Apocalypse or an alternative?
Giờ thì tôi để ý thấy những thuật toán xuất hiện mọi nơi trong cuộc sống đều là phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, tầm thường hóa, kích động chia rẽ, làm tăng thành kiến. Nhưng điều này đang dạy cho ta điều gi về bản thân ta? AI là một công cụ. Chúng ta là người sử dụng công cụ. Sự thù ghét và khinh bỉ, tiền bạc và quyền lực là những việc làm của con người, không phải của AI. Chúng ra đã bị ép phải thừa nhận sự khan hiếm, sự thiếu sót của bộ dữ liệu của chúng ta. Và con người cũng được huấn luyện về bộ dữ liệu. Chúng ta phải nhận ra hệ tư tưởng bị đánh gia một cách thiếu sót mà chúng ta vẫn sống với hàng ngày. Sự hợp lý, sự trung lập, logic, ra quyết định khách quan. Ta có thể nói gì về những điều đó khi chúng ta nhìn thấy hình ảnh của bản thân được phản ánh lại trên màn hình nhỏ? Và nó không phải là hình ảnh đẹp đẽ. AI chưa có ý thức về bản thân. Những chúng ta đang tự nhận thức nhiều hơn khi làm việc với AI và chúng ta nhận ra rằng loài người không còn phù hợp với mục đích. Chúng ta cần một con robot. Vậy chúng ta sẽ chọn cái gì? Tận thế hay một phương án thay thế?
I believe that humans have a strong future as a hybrid species as we start to merge with the biotechnology we're creating, whether that's nanobots in the bloodstream, monitoring our vital systems, whether it's genetic editing, whether it's 3D printing of bespoke body parts, whether it’s neural implants that will connect us directly to the web and to one another, insourcing information, enhancing our cognitive capacities. And if we manage to upload consciousness, I think that the shift from the transhuman to the posthuman world will seem natural, an evolutionary necessity.
Tôi tin rằng con người có một tương lai mạnh mẽ giống như một loài vật lai khi chúng ta bắt đầu kết hợp với công nghệ sinh học là ta đang sáng tạo, có thể là robot siêu nhỏ trong mạch máu, kiểm tra các hệ thống sinh tồn của cơ thể, có thể là chỉnh sửa gen, có thể là in 3D những bộ phận cơ thể được đặt làm riêng, có thể là cấy ghép tự nhiên khiến chúng ta được kết nối trực tiếp với mạng và với những người khác, tự tìm kiếm thông tin, tăng cường năng lực nhận thức. Và nếu ta có thể tải lên ý thức, tôi nghĩ rằng việc chuyển từ thế giới Siêu nhân học thành Hậu nhân bản. sẽ trở nên tự nhiên, là một điều cần thiết của quá trình tiến hóa.
Why do I say that? I say that because for millennia, all human beings have been obsessed with the big question, the absurdity of death. We asked, "Do we have souls?" We watched the spirit wait to leave the body. We created the world's first disruptive startup, the afterlife.
Vì sao tôi lại nói vậy? Tôi nói vậy bỏi hàng nghìn năm, nhân loại đã bị ám ảnh bởi câu hỏi lớn, sự phi lý của cái chết. Chúng ta hỏi, “Chúng ta có linh hồn không?” Chúng ta nhìn linh hồn chờ đợi để lìa khỏi thân xác. Chúng ta tạo ra sự khởi đầu gián đoạn đầu tiên trên thế giới, thế giới bên kia.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Now a multinational company, with a vast VR real estate portfolio. A mansion in the sky, sir? Our earliest extant written narrative, The Epic of Gilgamesh, is a journey to discover if there is life after death. And what is life after death? It is the extension of the self beyond biological limits.
Hiện tại một công ty đa quốc gia, với một danh mục bất động sản thực tế ảo khổng lồ. Một dinh thự trên mây, thưa ngài? Câu chuyện viết bằng văn bản sớm nhất hiện còn tồn tại, Sử thi Gilgamesh, là một hành trình tìm ra liệu có hay không sự tồn tại của thế giới bên kia. Và thế giới bên kia là gì? Nó là sự mở rộng của bản thân ra ngoài giới hạn sinh học.
Now I’m a writer, and I wonder, have we been telling the story backwards? Did we know we would always get here, capable of creating the kind of superintelligence that we said created us? We're told were made in God's image. God is immortal. God is not a biological entity.
Hiện tại tôi là một tác giả, tôi tự hỏi, liệu ta có đang kể ngược câu chuyện không? Liệu chúng ta có biết rằng ta sẽ luôn tới đây, có khả năng tạo ra một loại siêu trí tuệ mà chúng ta vẫn cho là đã tạo ra chúng ta? Chúng ta được bảo rằng ta được tạo ra theo hình ảnh Chúa. Chúa là bất tử. Chúa không phải là một thực thể sinh học.
Since the 17th century, the Enlightenment, science and religion have parted company. And science said, all that God thinking, the afterlife stuff, it's folly, It's ignorance, it's superstition. Suppose it was intuition. Suppose it was the only way we could talk about what we knew, a fundamental, deep truth that this is not the last word. This is not the end of the story. That we are not time-bound creatures caught in our bodies. That there is further to go. I'm fascinated that computing, science and religion, like parallel lines that do meet in space, are now asking the same question: Is consciousness obliged to materiality?
Kể từ thế kỷ 17, Thời kỳ Khai Sáng, khoa học và tôn giáo đã có sự phân biệt. Và khoa học nói rằng, tất cả những gì Chúa nghĩ, những thứ liên quan đến thế giới bên kia, đều là điên rồ, đó đều là sự thiếu hiểu biết, là mê tín. Cứ cho rằng đó là bản năng. Cứ cho rằng đó là cách duy nhất chúng ta có thể nói về những gì ta biết, một sự thật nền tảng, sâu sắc rằng đây không phải là lời cuối cùng. Đây không phải là kết thúc của câu chuyện. Chúng ta không phải những sinh vật bị giới hạn bởi thời gian và bị giữ trong cơ thể của ta Rằng chặng đường còn dài hơn nữa. Tôi bất ngờ rằng điện toán, khoa học và tôn giáo giống như những đường thẳng song song gặp nhau trong không gian, đang hỏi những câu hỏi giống nhau: Ý thức có bắt buộc gắn với vật chất không?
Now ... I accept that machine intelligence will challenge human intelligence. But the mythos of the world is built around a group of stories that showcase an encounter between a human and a nonhuman entity. Think of Jacob wrestling the angel. Think of Prometheus bringing fire down from the gods. In these encounters, both parties are changed, not always for the better. But it generally works out. We've been thinking about this stuff forever. It's time that we created it. And we could have some fun stuff too. Who wants their own AI angel? Me.
Giờ thì... Tôi chấp nhận rằng trí thông minh của máy móc sẽ thử thách trí thông minh của con người. Nhưng thần thoại của thế giới được xây dựng xung quanh một nhóm các câu chuyện về sự gặp gỡ giữa con người và một thực thể không phải người. Hãy nhớ lại về Jacob đấu vật với thiên thần. Hãy nghĩ về Prometheus đã mang lửa xuống trần gian. Trong những cuộc gặp gỡ ấy, cả 2 phía đều đã thay đổi, không phải lúc nào cũng trở nên tốt hơn. Nhưng nhìn chung thì nó đã có tác dụng. Chúng ta đã nghĩ hoài về những thứ này. Đã đến lúc chúng ta tạo ra nó. Và chúng ta cũng có thể có những thứ thú vị. Ai muốn một thiên thần AI cho riêng mình nào? Tôi.
There's a message in a bottle about this 200 years ago. When Ada Lovelace was busy getting born, her father, Lord Byron, was on holiday on Lake Geneva with his friend, the poet Percy Shelley, and Shelley's wife, Mary Shelley. On a wet weekend with no internet Byron said --
Có một thông điệp trong chai về điều này vào 200 trăm năm trước. Khi Ada Lovelace ra đời, cha cô, Lord Byron đang trong kỳ nghỉ ở Lake Geneva với bạn ông, nhà thơ Percy Shelley, và vợ của Shelley, Mary Shelly. Vào một ngày nhàm chán và không có internet Byron nói --
(Laughter)
(Tiếng cười)
"Let's write horror stories." You know what happened. Out of that came the world's most famous monster, Frankenstein. This is 1816, the start of the Industrial Revolution. Mary Shelley is just 19 years old. In that novel, there is an alternative intelligence made out of the body parts from the graveyard and electricity. An astonishing vision because electricity was not in any practical use at all and was hardly understood as a force. You know what happens. The monster is not named. Not educated. Is outcast by his panicky creator, Victor Frankenstein. And the whole thing ends in a chase across the Arctic ice towards a Götterdämmerung of death and destruction. The death wish that human beings are so drawn to, perhaps because it's easier to give up than to carry on.
“Viết truyện kinh dị đi.” Bạn biết điều gì xảy ra rồi đấy. Con quái vật nổi tiếng nhất thế giới ra đời, Frankenstein. Đó là năm 1816, khởi đầu của cuộc cách mạng công nghiệp. Mary Shelley mới chỉ 19 tuổi. Trong cuốn tiểu thuyết đó, có một trí thông minh thay thế được tạo ra từ những phần cơ thể từ nghĩa địa và điện. Một tầm nhìn đáng kinh ngạc bởi vì khi đó điện không được ứng dụng trong thứ như vậy và thật khó hiểu khi nhìn nó như một nhân tố tác động. Bạn biết điều gì xảy ra đấy. Con quái vật không được đặt tên. Không được giáo dục. Bị ruồng bỏ bởi người sáng tạo ra nó, Victor Frankenstein. Và tất cả kết thúc trong một cuộc dồn đuổi trên băng ở Bắc Cực trong vở opera Götterdämmerung của cái chết và sự hủy diệt. Cái chết ước con người sẽ bị nó thu hút, có lẽ là bởi bỏ cuộc thì dễ dàng hơn là tiếp tục.
Well, we're the first generation who can read Mary Shelley's novel in the right way, as a flare flung across time, because we too could create an alternative intelligence, not out of the body parts from the graveyard using electricity, but out of zeros and ones of code. And how is this going to end? Utopia or dystopia? It's up to us. Endings are not set in stone. We change the story because we are the story.
Chúng ta là thế hệ đầu tiên có thể đọc tiểu thuyết của Mary Shelley đúng cách, giống như ngọn lửa bùng lên xuyên qua cả thời gian, bởi chúng ta cũng có thể tạo ra trí tuệ thay thế, không phải từ các phần cơ thể lấy từ nghĩa địa và điện, mà bằng những dòng mã bao gồm các số 0 và 1. Và điều này sẽ kết thúc như thế nào? Địa đàng hay phản địa đàng? Điều đó phụ thuộc vào chúng ta. Kết thúc không được định đoạt sẵn. Chúng ta thay đổi câu chuyện vì chúng ta là câu chuyện.
Now, Marvin Minsky called alternative intelligence our "mind children." Could we as proud parents accept that the new generation that we will create will be smarter than we are? And could we accept that the new generation we create need not be on a substrate made of meat?
Hiện tại, Marvin Minsky gọi trí tuệ thay thế là “những đứa con trí óc” của chúng ta. Liệu chúng ta với tư cách “bậc cha mẹ đầy tự hào” có thể chấp nhận rằng thế hệ mới mà chúng ta tạo ra sẽ thông minh hơn chúng ta không? Và liệu chúng ta có thể chấp nhận rằng thế hệ mới mà chúng ta tạo ra không cần lấy dinh dưỡng từ thịt?
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(Tiếng hoan hô)
Thank you.
Xin cảm ơn.
Thank you very much. Thank you.
Cảm ơn rất nhiều. Xin cảm ơn.
Thank you.
Xin cảm ơn.
Helen Walters: Jeanette, stay right there. I have some questions.
Helen Walters: Jeanette, cứ ở đó đã. Tôi có một vài câu hỏi.
Jeanette Winterson: I know you want your lunch. Me too.
Jeanette Winterson: Tôi biết bà muốn ăn trưa rồi. Tôi cũng vậy.
(Laughter)
(Tiếng cười)
HW: No. Everybody, stop. OK. That was amazing. Thank you. What would you say our odds were of survival?
HW: Không. Mọi người, dừng lại nào. OK. Thật tuyệt. Xin cảm ơn. Theo bà tỷ lệ sống sót của chúng ta là bao nhiêu?
JW: Look --
JW: Nghe này --
(Laughter)
(Tiếng cười)
I'm an optimist. I’m a glass-half-full girl. So I know that we’re running out of time, time is the most precious resource we have, and there isn't much of it. If we get this right soon, it can really work. If we get it wrong, will be fighting each other with sticks and stones for scraps of food and water on an overheated planet in the ruins of dictator-world.
Tôi là một người lạc quan. Tôi luôn nhìn cuộc sống một cách tích cực. Nên tôi biết rằng chúng ta sắp hết thời gian rồi, thời gian là thứ quý giá nhất mà ta có, và ta không có nhiều. Nếu ta đi đúng hướng, kết quả sẽ tốt đẹp. Nếu ta làm sai, chúng ta sẽ đánh nhau bằng gậy gộc và đá vì những mẩu thức ăn và nước uống trên một hành tinh có nhiệt độ cao quá mức trong đống đổ nát của thế giới độc tài.
But --
Nhưng --
(Laughter)
(Tiếng cười)
OK. But we could get it right. That’s why I feel we’ve arrived at this moment before, and it might disappear back into space-time. Then we'll have to wait billions of years to get here again, which is so dull.
OK. Chúng ta có thể đưa mọi thứ đi đúng hướng. Đó là lý do vì sao tôi cảm giác chúng ta đã từng có khoảnh khắc này rồi, và nó có thể đã biến vào không gian-thời gian. Chúng ta sẽ phải đợi hàng tỷ năm để có thể ở đây một lần nữa, thật mờ mịt.
So let's not fuck it up.
Vậy nên đừng phạm sai lầm.
(Laughter)
(Tiếng cười)
(Applause)
(Tiếng hoan hô)
HW: I've got another question. I just wanted to have a moment of eye to eye. Don't fuck it up. Don't fuck it up. OK.
HW: Tôi có một câu hỏi nữa. Tôi chỉ muốn có một khoảnh khắc đồng quan điểm. Đừng phạm sai lầm. Đừng làm loạn. OK.
JW: That’s the message. The whole TED Talk is: “Don’t fuck it up.”
JW: Đó là thông điệp. Thông điệp của cả bài nói TED Talk là: “Đừng phạm sai lầm.”
HW: But wait, I have another question.
HW: Nhưng đợi đã, tôi có một câu hỏi nữa.
JW: I could have saved 12 minutes, 55 seconds.
JW: Lẽ ra tôi đã tiết kiệm được 12 phút 55 giây.
HW: Yeah, well, I'll just be the title that we put online.
HW: Vâng, đó sẽ là tiêu đề mà chúng tôi đặt cho video.
Jeanette Winterson: “Don’t fuck it up.”
Jeanette Winterson: “Đừng phạm sai lầm.”
OK. I want to talk about love. So in your memoir, which everybody should read, it is called “Why Be Happy When You Can Be Normal?” The very end of that book is about -- it’s a good title -- t’s about love. And you write, "Love, the difficult word. Where everything starts, where we always return. Love. Love's lack. The possibility of love." Now I don't want to bastardize Ada Lovelace. She was all about originating. But what about love? What about alternative intelligence and love?
OK. Tôi muốn nói về tình yêu. Trong hồi ký của bà, cuốn hồi ký mà mọi người đều nên đọc, nó có tên là “Tại sao phải hạnh phúc khi bạn có thể bình thường? ” Kết thúc cuốn sách là về -- tựa sách thật hay -- nó là về tình yêu. Và bà viết, “Tình yêu, một từ khó nói.” Nơi mọi thứ bắt đầu, nơi ta luôn trở về. Tình yêu. Tình yêu là sự thiếu hụt. Khả năng của tình yêu.” Tôi không muốn nói xấu về Ada Lovelace. Bà ấy toàn nói về sáng tạo. Nhưng còn tình yêu thì sao? Trí tuệ thay thế và tình yêu thì sao?
JW: We'll teach it.
JW: Chúng ta sẽ dạy nó.
HW: We’ll teach it? JW: Yeah. And listen, any of you who ever fell in love with your teddy bear, which is all of you, know what it's like to have an intense relationship with a nonbiological lifeform.
HW: Chúng ta sẽ dạy nó? JW: Đúng. Và nghe này. Bất cứ ai đã từng yêu chú gấu bông của mình, có nghĩa là tất cả mọi người, đều biết có một mối quan hệ với một thực thể không phải sinh học là như thế nào.
(Laughter)
(Tiếng cười)
HW: Jeanette Winterson, I love you.
HW: Jeanette Winterson, tôi yêu bà.
JW: Thank you. HW: Thank you so much. Thank you.
JW: Xin cảm ơn. HW: Cảm ơn rất nhiều. Xin cảm ơn.