I think all of us have been interested, at one time or another, in the romantic mysteries of all those societies that collapsed, such as the classic Maya in the Yucatan, the Easter Islanders, the Anasazi, Fertile Crescent society, Angor Wat, Great Zimbabwe and so on. And within the last decade or two, archaeologists have shown us that there were environmental problems underlying many of these past collapses. But there were also plenty of places in the world where societies have been developing for thousands of years without any sign of a major collapse, such as Japan, Java, Tonga and Tikopea. So evidently, societies in some areas are more fragile than in other areas. How can we understand what makes some societies more fragile than other societies? The problem is obviously relevant to our situation today, because today as well, there are some societies that have already collapsed, such as Somalia and Rwanda and the former Yugoslavia. There are also societies today that may be close to collapse, such as Nepal, Indonesia and Columbia.
Tôi nghĩ tất cả chúng ta, một đôi lúc nào đó, đều thấy hứng thú, với bí ẩn lãng mạn của các xã hội đã sụp đổ như Maya cổ xưa và người Yacatan, người dân đảo Phục Sinh, người Anasazi, vùng Lưỡi Liềm Trù Phú, Angor Wat, Đại Zimbabwe vân vân. và trong vòng một, hai thập kỷ gần đây, các nhà khảo cổ học đã chỉ cho chúng ta rằng có những vẫn đề môi trường ẩn dưới sự sụp độ của những xã hội này. Nhưng đồng thời có rất nhiều nơi khác trên thế giới các xã hội vẫn đang tiếp tục phát triển qua hàng nghìn năm mà không có dấu hiệu sụp đổ lớn nào, chẳng hạn như Nhật Bản, Java, Tonga và Tikopea. Do vậy, hiển nhiên, các xã hội ở một số nơi rõ ràng là mỏng manh hơn ở những nơi khác. Làm sao chúng ta có thể hiểu điều gì làm một số xã hội mỏng yếu hơn những xã hội khác? Vấn đề rõ ràng là liên quan tới hoàn cảnh của chúng ta ngày nay, bởi ngày nay cũng có những xã hội vừa mới sụp đổ, ví dụ Somali Rwanda và Yugoslavia cũ. Cũng có những xã hội hiện đại đang tiến gần tới sự sụp đổ, chẳng hạn Nepal, Indonesia và Columbia.
What about ourselves? What is there that we can learn from the past that would help us avoid declining or collapsing in the way that so many past societies have? Obviously the answer to this question is not going to be a single factor. If anyone tells you that there is a single-factor explanation for societal collapses, you know right away that they're an idiot. This is a complex subject. But how can we make sense out of the complexities of this subject? In analyzing societal collapses, I've arrived at a five-point framework -- a checklist of things that I go through to try and understand collapses. And I'll illustrate that five-point framework by the extinction of the Greenland Norse society. This is a European society with literate records, so we know a good deal about the people and their motivation. In AD 984 Vikings went out to Greenland, settled Greenland, and around 1450 they died out -- the society collapsed, and every one of them ended up dead.
Còn bản thân chúng ta thì sao? Chúng ta có thể học được gì từ quá khứ để giúp mình tránh được sự suy tàn hoặc sụp đổ như các xã hội đã mắc phải trong quá khứ? Hiển nhiên câu trả lời không hề đơn giản chỉ do một nguyên nhân. Nếu ai đó bảo bạn là chỉ do một nguyên nha giải thích cho sự sụp đổ của các xã hội, bạn sẽ thấy ngay là họ ngớ ngẩn. Đó là một đề tài rất phức tạp. Nhưng làm sao chungd ta hiểu được sự phức tạo của đề tài này? Trong việc phân tích sự sụp đổ của các xã hội, tôi đã đi đến một cơ sở gồm 5 luận điểm: một danh mục những thứ mà tôi phải nghiên cứu và tìm hiểu sự sụp đổ. Và tôi sẽ làm rõ cơ sở 5 luận điểm này bằng sự diệt vong của xã hội người Na Uy ở Greenland. Đây là một xã hội châu Âu với những bản chữ viết, từ đó chúng ta biết được khá nhiều về dân cư và động thái của họ. Vào năm 984 SCN, người Viking đặt chân đến Greenland và định cư tại đó và khoảng năm 1450 họ bị tuyệt diệt -- cả xã hội sụp đổ, và dân cư dần biến mất.
Why did they all end up dead? Well, in my five-point framework, the first item on the framework is to look for human impacts on the environment: people inadvertently destroying the resource base on which they depend. And in the case of the Viking Norse, the Vikings inadvertently caused soil erosion and deforestation, which was a particular problem for them because they required forests to make charcoal, to make iron. So they ended up an Iron Age European society, virtually unable to make their own iron. A second item on my checklist is climate change. Climate can get warmer or colder or dryer or wetter. In the case of the Vikings -- in Greenland, the climate got colder in the late 1300s, and especially in the 1400s. But a cold climate isn't necessarily fatal, because the Inuit -- the Eskimos inhabiting Greenland at the same time -- did better, rather than worse, with cold climates. So why didn't the Greenland Norse as well?
Tại sao họ bị tuyệt diệt? Trong cơ sở 5 luận điểm của tôi, luận điểm đầu tiên xem xét đến yếu tố ảnh hưởng của con người tới môi trường do sự vô tình phá hoại tài nguyên do cuộc sống lệ thuộc của họ. Trong trường hợp người Na Uy Viking, những người Viking đã vô tình làm xói mòn đất và phá rừng, đó là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng bởi vì họ cần rừng để làm than củi, luyện sắt. Vì thế gần như họ kết thúc Thời kỳ Đồ sắt Châu Âu do không thể làm ra sắt. Luận điểm thứ hai trong danh mục của tôi là sự biến đổi khí hậu. Khí hậu có thể trở nên nóng lên, lạnh hơn, ẩm hơn hoặc khô hơn. Trong trường hợp người Viking ở Greenland, khí hậu trở nên lạnh dần vào cuối những năm 1300, và đặc biệt trong những năm 1400. Nhưng khí hậu lạnh không nhất thiết gây nên sự hủy diệt, bởi người Inuit -- người Eskimos ở Greenland cũng chống chịu tốt hơn với khí hậu lạnh. Vậy tại sao người Na Uy ở Greenland lại không làm được như thế?
The third thing on my checklist is relations with neighboring friendly societies that may prop up a society. And if that friendly support is pulled away, that may make a society more likely to collapse. In the case of the Greenland Norse, they had trade with the mother country -- Norway -- and that trade dwindled: partly because Norway got weaker, partly because of sea ice between Greenland and Norway.
Luận điểm thứ 3 của tôi là quan hệ với các xã hội lân cận để cùng hợp tác. Và nếu sự hỗ trợ thân thiện bị mất đi, thì xã hội sẽ dễ dàng sụp đỏ. Trong trường hợp của người Na Uy ở Greenland họ có giao thường với nước mẹ, Na Uy và sự giao thương này tàn lụi dần một phần là do Na Uy dần suy vong, một phần nữa là do vùng biển băng giữa Greenland và Na Uy.
The fourth item on my checklist is relations with hostile societies. In the case of Norse Greenland, the hostiles were the Inuit -- the Eskimos sharing Greenland -- with whom the Norse got off to bad relationships. And we know that the Inuit killed the Norse and, probably of greater importance, may have blocked access to the outer fjords, on which the Norse depended for seals at a critical time of the year.
Luận điểm thứ 4 của tôi là mối quan hệ với các xã hội thù địch. Trong trường hợp người Na Uy ở Greenland, dân tộc thù địch là người Inuit, người Eskimos cùng chung sống trên Greenland và giữa hai bên có quan hệ xấu. Và chúng ta biết rằng người Inuit đã giết người Na Uy, và, có lẽ với tầm quan trọng to lớn hơn đã chặn lối vào vùng vịnh ngoài mà người Na Uy dùng để săn hải cẩu làm thực phẩm chính yếu.
And then finally, the fifth item on my checklist is the political, economic, social and cultural factors in the society that make it more or less likely that the society will perceive and solve its environmental problems. In the case of the Greenland Norse, cultural factors that made it difficult for them to solve their problems were: their commitments to a Christian society investing heavily in cathedrals; their being a competitive-ranked chiefly society; and their scorn for the Inuit, from whom they refused to learn. So that's how the five-part framework is relevant to the collapse and eventual extinction of the Greenland Norse.
Và rồi cuối cùng, luận điểm thứ 5 trong danh mục của tôi là các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa trong xã hội đó khiến cho xã hội nhận thức và giải quyết được các vấn đề môi trường. Trong trường hợp người Na Uy ở Greenland, nhân tố văn hóa khiến họ khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề là sự sùng bái Thiên Chúa giáo và nhà thờ, họ trở thành một xã hội tranh giành địa vị và luôn khinh miệt người Inuit, và luôn từ chối học hỏi họ. Vì thế đó là cách mà cơ sở 5 luận điểm của tôi liên quan tới sự sụp đổ và diệt vong của người Na Uy ở Greenland.
What about a society today? For the past five years, I've been taking my wife and kids to Southwestern Montana, where I worked as a teenager on the hay harvest. And Montana, at first sight, seems like the most pristine environment in the United States. But scratch the surface, and Montana suffers from serious problems. Going through the same checklist: human environmental impacts? Yes, acute in Montana. Toxic problems from mine waste have caused damage of billions of dollars. Problems from weeds, weed control, cost Montana nearly 200 million dollars a year. Montana has lost agricultural areas from salinization, problems of forest management, problems of forest fires. Second item on my checklist: climate change. Yes -- the climate in Montana is getting warmer and drier, but Montana agriculture depends especially on irrigation from the snow pack, and as the snow is melting -- for example, as the glaciers in Glacier National Park are disappearing -- that's bad news for Montana irrigation agriculture.
Vậy còn những xã hội ngày nay thì sao? Trong vòng 5 năm gần đây, tôi đã đưa vợ con tôi tới Tây Nam Montana, nơi tôi đã từng cắt cỏ khi còn trẻ. Và thoạt trông Montana giống như môi trường nguyên thủy của nước Mỹ. Nhưng sau khi đào xới bề mặt, Montana rõ ràng đã phải chịu những vấn đề nghiêm trọng. Nó đã trải qua những vấn đề tương tự: ảnh hưởng của con người tới môi trường. Ohair, một điều rất cấp bách ở Montana. Vấn đề độc tố từ chất thải khai thác mỏ đã gây nên thiệt hại tới hàng tỷ dollar. Khó khăn bắt nguồn từ các loài cỏ dại, gây thiệt hại cho Montana tới 200 triệu dollar mỗi năm. Montana mất hẳn vùng đất canh tác do bị nhiễm mặn, các vấn đề liên quan tới quản lý tài nguyên rừng, cháy rừng. Luận điểm thứ hai là sự biến đổi khí hậu. Vâng -- khí hậu ở Montana nóng dần lên và khô hơn, nhưng nền nông nghiệp ở Montana phụ thuộc vào việc tưới tiêu từ băng, và khi băng đã tan đi rồi, chẳng hạn như băng hà ở Công viên Băng hà Quốc gia biến mất, đó sẽ là tin xấu cho nông nghiệp tưới tiêu ở Montana.
Third thing on my checklist: relations with friendlies that can sustain the society. In Montana today, more than half of the income of Montana is not earned within Montana, but is derived from out of state: transfer payments from social security, investments and so on -- which makes Montana vulnerable to the rest of the United States.
Luận điểm thứ 3 liên quan tới sự thân thiện để duy trì xã hội bền vững. Ở Montana ngày nay, hơn 1/2 thu nhập của Montana không phải kiếm được trong phạm vi Montana, mà đến từ ngoại bang: tiền thuế từ an ninh xã hội, đầu tư và vân vân, khiến cho Montana yếu kém hơn so với các bang khác ở Hoa Kỳ.
Fourth: relations with hostiles. Montanans have the same problems as do all Americans, in being sensitive to problems created by hostiles overseas affecting our oil supplies, and terrorist attacks. And finally, last item on my checklist: question of how political, economic, social, cultural attitudes play into this. Montanans have long-held values, which today seem to be getting in the way of their solving their own problems. Long-held devotion to logging and to mines and to agriculture, and to no government regulation; values that worked well in the past, but they don't seem to be working well today.
Thứ tư: quan hệ với các thế lực thù địch. Montana có cùng vấn đề như vấn đề nhạy cảm của mọi người dân Mỹ gây ra do các thế lực thù địch nước ngoài, anh hưởng tới nguồn cung dầu mỏ, và xâm chiếm lãnh thổ. Và cuối cùng, luận điểm sau cùng trong danh mục của tôi: câu hỏi về quan điểm chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa đóng vai trò như thế nào. Người Montana có những giá trị lâu đời mà ngày nay dường như thể hiện trong cách họ giải quyết vấn đề riêng. Sự tận tụy truyền thống đối với việc đốn gỗ, khai mỏ và với nông nghiệp và phi luật pháp. Các giá trị đã từng áp dụng tốt trong quá khứ, nhưng ngày nay có vẻ không còn đúng nữa.
So, I'm looking at these issues of collapses for a lot of past societies and for many present societies. Are there any general conclusions that arise? In a way, just like Tolstoy's statement about every unhappy marriage being different, every collapsed or endangered society is different -- they all have different details. But nevertheless, there are certain common threads that emerge from these comparisons of past societies that did or did not collapse and threatened societies today. One interesting common thread has to do with, in many cases, the rapidity of collapse after a society reaches its peak. There are many societies that don't wind down gradually, but they build up -- get richer and more powerful -- and then within a short time, within a few decades after their peak, they collapse. For example, the classic lowland Maya of the Yucatan began to collapse in the early 800s -- literally a few decades after the Maya were building their biggest monuments, and Maya population was greatest.
Bởi vậy, tôi đang tìm kiếm những vấn đề về sự sụp đổ của rất nhiều xã hội trong quá khứ và nhiều xã hội ngày nay. Từ đó có thể rút ra kết luận chung gì không? Theo cách nào đó, cũng giống như tuyên bố của Tolstoy về mọi cuộc hôn nhân không hạnh phúc là điều khác biệt, thì mỗi xã hội sụp đổ hoặc suy tàn là khác biệt -- chúng có những đặc điểm khác. Tuy vậy, cũng có một số mối đe dọa chung xuất hiện khi chúng ta làm phép so sánh giữa các xã hội sụp đổ và không sụp đổ trong quá khứ và các xã hội đang bị đe dọa ngày nay. Một mối đe dọa chung khá lý thú trong nhiều trường hợp, sự nhanh chóng sụp đổ sau khi xã hội cạm đáy. Có nhiều xã hội không suy tàn dần dần, mà chúng vươn lên, giàu mạnh thêm và ngày càng hùng mạnh, và rồi trong một thời gian ngắn, chỉ trong một vài thập kỷ sau khi chạm đáy, chúng sụp đổ. Chẳng hạn, xã hội Maya vùng trũng của bán đảo Yucatan bắt đầu sụp đổ trong nửa đầu thập niên 800, đúng một vài thập kỷ sau khi người Maya xây dựng những tượng đài lớn nhất, và dân số Maya phát triển đông đúc nhất.
Or again, the collapse of the Soviet Union took place within a couple of decades, maybe within a decade, of the time when the Soviet Union was at its greatest power. An analogue would be the growth of bacteria in a petri dish. These rapid collapses are especially likely where there's a mismatch between available resources and resource consumption, or a mismatch between economic outlays and economic potential. In a petri dish, bacteria grow. Say they double every generation, and five generations before the end the petri dish is 15/16ths empty, and then the next generation's 3/4ths empty, and the next generation half empty. Within one generation after the petri dish still being half empty, it is full. There's no more food and the bacteria have collapsed. So, this is a frequent theme: societies collapse very soon after reaching their peak in power.
Hay ví dụ như sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết diễn ra trong một vài thập kỷ, có thể chỉ một thập kỷ, ngay lúc Liên bang Xô Viết đang đứng trên đỉnh cao quyền lực. Một ví dụ tương tự là những con vi khuẩn đang sinh trưởng trong một đĩa cấy. Những vụ sụp đổ nhanh chóng này đặc biêt giống với sự không tương xứng giữa những tài nguyên sẵn có và tài nguyên tiêu thụ, hay bất tương xứng giữa phí tổn kinh tế và tiềm năng kinh tế. Trong đĩa cấy, vi khuẩn lớn lên. Hãy xem rằng cứ sau mỗi thế hệ, chúng lại tăng gấp đôi, và sinh trưởng được 5 thế hệ trước khi đãi cấy bị khưr sạch 15/16, và rồi 3/4 thế hệ kế tiếp bị xóa sạch và thế hệ sau nữa làm sạch 1/2. Trong vòng một thế hệ sau khi đĩa vi khuẩn bị khử 1/2, nó lại đầ. Không còn thức ăn và cả đám vi khuẩn chết hết. Đó là khuynh hướng chung rằng các xã hội sụp đổ ngay sau khi họ đạt tới đỉnh cao quyền lực.
What it means to put it mathematically is that, if you're concerned about a society today, you should be looking not at the value of the mathematical function -- the wealth itself -- but you should be looking at the first derivative and the second derivatives of the function. That's one general theme. A second general theme is that there are many, often subtle environmental factors that make some societies more fragile than others. Many of those factors are not well understood. For example, why is it that in the Pacific, of those hundreds of Pacific islands, why did Easter Island end up as the most devastating case of complete deforestation? It turns out that there were about nine different environmental factors -- some, rather subtle ones -- that were working against the Easter Islanders, and they involve fallout of volcanic tephra, latitude, rainfall. Perhaps the most subtle of them is that it turns out that a major input of nutrients which protects island environments in the Pacific is from the fallout of continental dust from central Asia. Easter, of all Pacific islands, has the least input of dust from Asia restoring the fertility of its soils. But that's a factor that we didn't even appreciate until 1999.
Theo khía cạnh toán học, nếu bạn quan tâm về các xã hội ngày nay, bạn nên tìm kiếm không chỉ các giá trị về các chức năng toán học, sự tích lũy của cải, mà bạn nên quan tâm cả những vấn đề nguyên sinh và thứ sinh của các chức năng đó. Đó là khuynh hướng chung. Còn khuynh hướng thứ hai là có nhiều, thường các nhân tố môi trường nhạy cảm khiến cho một số xã hội yếu hơn các xã hội khác, và nhiều nhân tố như thế vẫn chưa được hiểu cặn kẽ. Chẳng hạn, tại sao trên Thái Bình Dương, có hàng trăm hòn đảo, mà chỉ đảo Phục Sinh sụp đổ và là trường hợp sụp đổ nặng nề nhất hoàn toàn do nạn phá rừng? Hóa ra có khoảng 9 nhân tố môi trường khác nhau, một số khá nhạy cảm, không giữ được trên đảo Phục Sinh, và chúng là kết của sự phun trào núi lửa, vĩ độ và lượng mưa. Có lẽ thứ nhạy cảm nhát trong đó hóa ra là nguồn dinh dưỡng chính bảo vệ cho môi trường của hòn đảo trên Thái Bình Dương này khỏi hậu quả của bụi lục địa từ Trung Á. Đảo Phục Sinh, trong số các hòn đảo trên Thái Bình Dương, có ít bụi nhất từ châu Á để khôi phục độ màu mỡ của đất đai. Nhưng đó là một nhân tố mà chúng ta không hề dự liệu trước cho tới năm 1999.
So, some societies, for subtle environmental reasons, are more fragile than others. And then finally, another generalization. I'm now teaching a course at UCLA, to UCLA undergraduates, on these collapses of societies. What really bugs my UCLA undergraduate students is, how on earth did these societies not see what they were doing? How could the Easter Islanders have deforested their environment? What did they say when they were cutting down the last palm tree? Didn't they see what they were doing? How could societies not perceive their impacts on the environments and stop in time? And I would expect that, if our human civilization carries on, then maybe in the next century people will be asking, why on earth did these people today in the year 2003 not see the obvious things that they were doing and take corrective action? It seems incredible in the past. In the future, it'll seem incredible what we are doing today. And so I've been trying to develop a hierarchical set of considerations about why societies fail to solve their problems -- why they fail to perceive the problems or, if they perceive them, why they fail to tackle them. Or, if they tackle them, why do they fail to succeed in solving them?
Do vậy, một số xã hội, do một vài lý do môi trường nhạy cảm, đã yếu hơn các xã hội khác. Và rồi cuối cùng, một kết luận khái quát khác. Bởi tôi đang dạy một môn ở Đại học California ở Los Angeles (UCLA) cho sinh viên bậc ĐH, về sự sụp đổ của các xã hội. Điều khiến các sinh viên ĐH của tôi ở UCLA lúng túng là, làm sao các xã hội này có thể không nhìn nhận được những gì họ đã làm? Làm sao những người dân đảo Phục Sinh lại tàn phá môi trường của họ? Họ đã nói gì khi chặt cây cọ cuối cùng? Liệu họ không nhận thấy mình đang làm gì sao? Làm sao những xã hội này không hiểu được những ảnh hưởng của mình tới môi trường và biết ngừng lại đúng lúc? và tôi sẽ trông đợi rằng nếu nền văn minh nhân loại cứ tiếp tục như thế, thì có lẽ chỉ trong thế kỉ tới thôi, loài người sẽ hỏi tại sao những con người chúng ta ngày nay, sống vào năm 2003, không nhìn thấy những điều rõ ràng họ đang làm và sớm khắc phục nó? Có vẻ điều đó rất khó tin trong quá khứ. Trong tương lai, có vẻ như thật khó tin về những gì chúng ta đang làm ngày nay. Và vì thế tôi đã cố phát triển một bộ thứ bậc về lý do tại sao các xã hội thất bại trong việc giải quyết các vấn đề của họ. Tại sao họ không nhận ra vấn đề, hoặc nếu họ nhận ra, tại sao họ không khắc phục được? Hoặc nếu họ không khắc phục được, thì tại sao họ không thể giải quyết được chúng?
I'll just mention two generalizations in this area. One blueprint for trouble, making collapse likely, is where there is a conflict of interest between the short-term interest of the decision-making elites and the long-term interest of the society as a whole, especially if the elites are able to insulate themselves from the consequences of their actions. Where what's good in the short run for the elite is bad for the society as a whole, there's a real risk of the elite doing things that would bring the society down in the long run. For example, among the Greenland Norse -- a competitive rank society -- what the chiefs really wanted is more followers and more sheep and more resources to outcompete the neighboring chiefs. And that led the chiefs to do what's called flogging the land: overstocking the land, forcing tenant farmers into dependency. And that made the chiefs powerful in the short run, but led to the society's collapse in the long run.
Tôi sẽ chỉ đề cập tới hai kết luận trong mảng này. Một kế hoạch gây ra sự khó khăn, sụp đổ là đâu là sự mâu thuẫn giữa lợi ích ngắn hạn của tầng lớp trên ra quyết định và lợi ích dài hạn của toàn bộ xã hội, đặc biệt là nếu tầng lớp trên có thể bảo vệ bản thân họ khỏi hậu quả của những hành động của mình. Đâu là điều tốt ngắn hạn cho tầng lớp trên đồng thời là điều xấu cho toàn thể xã hội, thì sẽ là một hiểm họa thực sự của tầng lớp trên làm những thứ khiến cho xã hội đi xuống trong tương lai. Chẳng hạn, giữa những người Na Uy Greenland -- một xã hội cạnh tranh về vị thế -- điều mà những lãnh chúa muốn là có thêm nhiều thuộc hạ, cừu và nhiều tài nguyên hơn để cượt lên những lãnh chúa hàng xóm. Chính điều này khiến các lãnh chúa bán đất: tích trữ đất, buộc các nông nô phải chịu lệ thuộc. Và điều này khiến cho các lãnh chúa giàu lên trong thời gian ngắn, nhưng về lâu dài, nó khiến xã hội sụp đổ.
Those same issues of conflicts of interest are acute in the United States today. Especially because the decision makers in the United States are frequently able to insulate themselves from consequences by living in gated compounds, by drinking bottled water and so on. And within the last couple of years, it's been obvious that the elite in the business world correctly perceive that they can advance their short-term interest by doing things that are good for them but bad for society as a whole, such as draining a few billion dollars out of Enron and other businesses. They are quite correct that these things are good for them in the short term, although bad for society in the long term. So, that's one general conclusion about why societies make bad decisions: conflicts of interest.
Các vấn đề tương tự về mâu thuẫn sâu sắc giữa các nhóm lợi ích cũng xảy ra ở nước Mỹ ngày nay. Đặc biệt bởi các nhà hoạch định chính sách ở Mỹ thường có thể tách bản thân họ khỏi hậu quả bằng cách sống trong biệt ốc, uống nước đóng chai vân vân. Và trong vài năm gần đây, rõ ràng là giới thượng lưu trong giới kinh doanh đã nhận thức đúng đắn rằng họ có thể tăng lợi ích trước mắt của họ bằng cách làm những việc có lợi cho bản thân họ nhưng có hại cho toàn thể xã hội, chảng hạn như rút vài tỷ dollar khỏi Enron và những việc khác. Họ đã khá đúng khi cho rằng những việc như thế có lợi trước mắt cho họ mặc dù chúng có hại cho cả xã hội về lâu dài. Bởi thế, kết luận chung về sự sụp đổ của các xã hội khi ra những quyết định xấu: sự mâu thuẫn về lợi ích.
And the other generalization that I want to mention is that it's particularly hard for a society to make quote-unquote good decisions when there is a conflict involving strongly held values that are good in many circumstances but are poor in other circumstances. For example, the Greenland Norse, in this difficult environment, were held together for four-and-a-half centuries by their shared commitment to religion, and by their strong social cohesion. But those two things -- commitment to religion and strong social cohesion -- also made it difficult for them to change at the end and to learn from the Inuit. Or today -- Australia. One of the things that enabled Australia to survive in this remote outpost of European civilization for 250 years has been their British identity. But today, their commitment to a British identity is serving Australians poorly in their need to adapt to their situation in Asia. So it's particularly difficult to change course when the things that get you in trouble are the things that are also the source of your strength.
Và một kết luận khác mà tôi muốn đề cập là rất khó để một xã hội có thể ra quyết định đúng đắn khi xảy ra mâu thuẫn giữa những giá trị lâu đời tốt đẹp trong nhiều trường hợp nhưng lại xấu trong một số trường hợp khác. Chẳng hạn, trong người Na Uy ở Greenland, trong môi trường khó khăn như thế, đã sống với nhau 4.5 thế kỷ dưới tư tưởng chung về tôn giáo và tính cộng đồng bền chặt. Những 2 thứ đó -- gắn bó về tôn giáo và gắn bó về xã hội -- cũng gây nên những khó khăn cho họ trong việc thay đổi vào phút chót từ chối học hỏi từ người Inuit. Hay ngày nay, Australia. Một trong những điều khiến Australia sống sót được trong hoàn cảnh xa xôi với nền văn mình Châu Âu trong suốt 250 năm đồng hóa với người Anh. Nhưng ngày nay, sự gắn bó của họ với người Anh đã giúp người Australia kém thích nghi hơn mức cần thiết với hoàn cảnh của họ ở châu Á. Vì thế họ đặc biệt khó khăn khi thay đổi hoàn cảnh khi những thứ gây rắc rối cho bạn lại đồng thời là những thứ tạo nên sức mạnh của bạn.
What's going to be the outcome today? Well, all of us know the dozen sorts of ticking time bombs going on in the modern world, time bombs that have fuses of a few decades to -- all of them, not more than 50 years, and any one of which can do us in; the time bombs of water, of soil, of climate change, invasive species, the photosynthetic ceiling, population problems, toxics, etc., etc. -- listing about 12 of them. And while these time bombs -- none of them has a fuse beyond 50 years, and most of them have fuses of a few decades -- some of them, in some places, have much shorter fuses. At the rate at which we're going now, the Philippines will lose all its accessible loggable forest within five years. And the Solomon Islands are only one year away from losing their loggable forest, which is their major export. And that's going to be spectacular for the economy of the Solomons. People often ask me, Jared, what's the most important thing that we need to do about the world's environmental problems? And my answer is, the most important thing we need to do is to forget about there being any single thing that is the most important thing we need to do. Instead, there are a dozen things, any one of which could do us in. And we've got to get them all right, because if we solve 11, we fail to solve the 12th -- we're in trouble. For example, if we solve our problems of water and soil and population, but don't solve our problems of toxics, then we are in trouble.
Vậy kết quả ngày nay sẽ như thế nào? Tất cả chúng ta biết hàng chục loại bom hẹn giờ trong thế giới hiện đại. Bom hẹn giờ đã được kích hoạt cách đây vài thập kỷ -- mọi loại, chưa đầy 50 năm, và chúng đều có thể đe dọa chúng ta. Quả bom của nước của đất, của biến đổi khí hậu, chiến tranh chủng tộc, trần quang hợp, vấn nạn về dân số, độc tố, vân vân và vân vân -- có 12 yếu tố như thế. Và trong khi những quả bom hẹn giờ này -- không có quả bom nào kích hoạt cách đây quá 50 năm, và phần lớn chúng mới bắt đầu cách đây vài thập kỷ -- một số chúng được kích hoạt muộn hơn nhiều. Với tốc độ phát triển như chúng ta hiện nay, người Phillipines sẽ mất tất cả rừng trong 5 năm. Và đảo Solomon mất tất cả rừng chỉ trong vòng 1 năm, và gỗ là hàng xuất khẩu chính của họ. Đó sẽ là một cảnh tượng ngoạn mục cho nền kinh tế của Solomon. Mọi người hỏi tôi, Jared, điều quan trọng nhất chúng ta phải làm về vấn đề môi trường thế giới là gì? Và câu trả lời của tôi là, điều quan trọng nhất chúng ta phải làm là quên những điều đơn lẻ được coi là thứ quan trọng nhất chúng ta cần phải làm đi. Thay vào đó có cả tá thứ mà chúng ta phải làm. Và chúng ta phải giải quyết triệt để, bởi nếu chúng ta chỉ giải quyết được 11 vấn đề, mà không giải quyết được vấn đề thứ 12, thì cũng ta vẫn kẹt. Ví dụ, nếu chúng ta giải quyết được vấn đề nước sạch, đất đai và dân số, nhưng không giải quyết được vấn đề nhiễm độc, thì vẫn rắc rối như thường.
The fact is that our present course is a non-sustainable course, which means, by definition, that it cannot be maintained. And the outcome is going to get resolved within a few decades. That means that those of us in this room who are less than 50 or 60 years old will see how these paradoxes are resolved, and those of us who are over the age of 60 may not see the resolution, but our children and grandchildren certainly will. The resolution is going to achieve either of two forms: either we will resolve these non-sustainable time-fuses in pleasant ways of our own choice by taking remedial action, or else these conflicts are going to get settled in unpleasant ways not of our choice -- namely, by war, disease or starvation. But what's for sure is that our non-sustainable course will get resolved in one way or another in a few decades. In other words, since the theme of this session is choices, we have a choice. Does that mean that we should get pessimistic and overwhelmed? I draw the reverse conclusion.
Thực tế là tình trạng hiện tại của chúng ta rất không bền vững, nghĩa là không thể duy trì như thế được. Và hậu quả phải được giải quyết trong vòng vài thập niên. Nghĩa là những bạn đang ngồi trong phòng này có độ tuổi dưới 50, 60 sẽ thấy nghịch lý đã được giải quyết, và những người trên 60 tuổi có thể không thấy giải pháp nhưng con cháu chúng ta chắc chắn sẽ thấy. Giải pháp sẽ đạt hiệu quả theo hai cách: hoặc chúng ta giải quyết những vấn đề bất bền vững theo cách tự chọn lạc quan bằng cách sửa chữa nó hoặc thu xếp những mâu thuẫn theo cách bi quan hơn và ko được lựa chọn -- bằng chiến tranh, dịch bệnh hoặc đói kém. Nhưng một điều chắc chắn là tình trạng bất bền vững của chúng ta sẽ được giải quyết không theo cách này thì cách khác trong một vài thập kỷ. Nói cách khác, nếu có lựa chọn chúng ta sẽ lựa chọn. Liệu điều đó có nghĩa là chúng ta nên bi quan? Tôi rút ra một kết luận ngược lại.
The big problems facing the world today are not at all things beyond our control. Our biggest threat is not an asteroid about to crash into us, something we can do nothing about. Instead, all the major threats facing us today are problems entirely of our own making. And since we made the problems, we can also solve the problems. That then means that it's entirely in our power to deal with these problems. In particular, what can all of us do? For those of you who are interested in these choices, there are lots of things you can do. There's a lot that we don't understand, and that we need to understand. And there's a lot that we already do understand, but aren't doing, and that we need to be doing. Thank you. (Applause)
Những vấn đề lớn mà chúng ta phải đối mặt ngày nay không phải hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát. Mối đe dọa lớn nhất không phải là thiên thạch sắp va phải Trái đất, hay một thứ gì đó mà chúng ta không thể can thiệp được. Thay vào đó, những mối đe dọa chính mà chúng ta phải đối mặt là nhưng vấn đề hoàn toàn do chúng ta tạo ra. Và vì chúng ta tạo nên chúng, nên chúng ta cũng có thể giải quyết được. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải dốc toàn bộ sức mạnh để đối phó với vấn đề. Cụ thể, chúng ta phải làm gì? Với những bạn yêu thích lựa chọn này thì có rất nhiều thứ bạn có thể làm được Còn rất nhiều thứ chúng ta chưa hiểu hết, và chúng ta cần phải hiểu. Và có nhiều thứ chúng ta đã hiểu, nhưng không làm gì cả, và chúng ta phải hành đồng. Xin cảm ơn. (Vỗ tay)