To give me an idea of how many of you here may find what I'm about to tell you of practical value, let me ask you please to raise your hands: Who here is either over 65 years old or hopes to live past age 65 or has parents or grandparents who did live or have lived past 65, raise your hands please. (Laughter)
Để biết được có bao nhiêu bạn ở đây có thể tìm thấy trong những gì tôi sắp nói với các bạn về giá trị thực tế, khi tôi hỏi mọi người vui lòng giơ tay: Ở đây ai trên 65 tuổi hoặc hy vọng sống qua tuổi 65 hay có cha mẹ hoặc ông bà đã sống hoặc đã qua tuổi 65, vui lòng giơ tay. (Tiếng cười)
Okay. You are the people to whom my talk will be of practical value. (Laughter) The rest of you won't find my talk personally relevant, but I think that you will still find the subject fascinating.
Okay. Các bạn là người khiến những điều tôi nói có giá trị thực tế. Những người còn lại sẽ không thấy điều tôi nói liên quan gì đến mình, nhưng tôi nghĩ bạn vẫn thấy chủ đề này hấp dẫn.
I'm going to talk about growing older in traditional societies. This subject constitutes just one chapter of my latest book, which compares traditional, small, tribal societies with our large, modern societies, with respect to many topics such as bringing up children, growing older, health, dealing with danger, settling disputes, religion and speaking more than one language.
Tôi sẽ nói về sự già đi trong xã hội truyền thống. Chủ đề này chỉ gồm một chương trong cuốn sách mới nhất của tôi, so sánh giữa xã hội kiểu bộ lạc nhỏ, truyền thống với xã hội lớn hiện đại của chúng ta, liên quan tới nhiều phương diện như là nuôi dưỡng con cái, trưởng thành, sức khỏe, đối phó với nguy hiểm, giải quyết tranh chấp, tôn giáo và sử dụng nhiều hơn một ngôn ngữ.
Those tribal societies, which constituted all human societies for most of human history, are far more diverse than are our modern, recent, big societies. All big societies that have governments, and where most people are strangers to each other, are inevitably similar to each other and different from tribal societies. Tribes constitute thousands of natural experiments in how to run a human society. They constitute experiments from which we ourselves may be able to learn. Tribal societies shouldn't be scorned as primitive and miserable, but also they shouldn't be romanticized as happy and peaceful. When we learn of tribal practices, some of them will horrify us, but there are other tribal practices which, when we hear about them, we may admire and envy and wonder whether we could adopt those practices ourselves.
Những xã hội bộ lạc đã tạo nên tất cả xã hội loài người trong hầu hết lịch sử nhân loại, biến đổi đa dạng hơn xã hội hiện tại, ngày càng lớn của chúng ta. Tất cả những xã hội lớn đều có chính phủ, nơi mà hầu hết mọi người đều xa lạ nhau, hoặc hẳn là đã biết rõ nhau khác với xã hội bộ lạc. Các bộ lạc tạo nên hàng ngàn cuộc thử nghiệm để làm sao vận hành được bộ máy xã hội một cách tự nhiên. Họ tạo nên các thử nghiệm mà chúng ta có thể học hỏi từ đó. Không nên chê bai xã hội bộ lạc là thô sơ và đói khổ, nhưng cũng không nên ca ngợi nó là hạnh phúc và bình yên. Khi chúng ta tìm hiểu về những tục lệ của họ, có vài thứ sẽ khiến chúng ta phải sợ, nhưng có những tục lệ mà, khi nghe đến, sẽ khiến chúng ta cảm thấy ghen tị và ngưỡng mộ và tự hỏi rằng chúng ta có thể làm theo những tục lệ đó hay không.
Most old people in the U.S. end up living separately from their children and from most of their friends of their earlier years, and often they live in separate retirements homes for the elderly, whereas in traditional societies, older people instead live out their lives among their children, their other relatives, and their lifelong friends. Nevertheless, the treatment of the elderly varies enormously among traditional societies, from much worse to much better than in our modern societies.
Hầu hết người cao tuổi ở Mỹ sống cuối đời tách biệt với con cháu họ với hầu hết bạn bè thời niên thiếu của họ, và thường sống riêng biệt trong những khu nhà cho người già. trái ngược với xã hội truyền thống, người già không sống ngoài cuộc sống của họ họ sống với con cháu, họ hàng, và những người bạn lâu năm của họ. Tuy vậy, đối xử với người già có sự khác nhau rất lớn giữa các xã hội truyền thống, từ rất tệ tới tốt hơn cả xã hội hiện đại của chúng ta.
At the worst extreme, many traditional societies get rid of their elderly in one of four increasingly direct ways: by neglecting their elderly and not feeding or cleaning them until they die, or by abandoning them when the group moves, or by encouraging older people to commit suicide, or by killing older people. In which tribal societies do children abandon or kill their parents? It happens mainly under two conditions. One is in nomadic, hunter-gather societies that often shift camp and that are physically incapable of transporting old people who can't walk when the able-bodied younger people already have to carry their young children and all their physical possessions. The other condition is in societies living in marginal or fluctuating environments, such as the Arctic or deserts, where there are periodic food shortages, and occasionally there just isn't enough food to keep everyone alive. Whatever food is available has to be reserved for able-bodied adults and for children. To us Americans, it sounds horrible to think of abandoning or killing your own sick wife or husband or elderly mother or father, but what could those traditional societies do differently? They face a cruel situation of no choice. Their old people had to do it to their own parents, and the old people know what now is going to happen to them.
Ở mức tệ nhất, nhiều xã hội truyền thống xua đuổi những người già bằng một trong bốn cách với mức độ tăng dần như sau: bằng bỏ mặc người già và không cho ăn uống, tắm rửa cho tới khi họ chết, hoặc bỏ lại họ khi mọi người chuyển đi, hoặc kích lệ họ tự tử, hoặc bằng cách giết chết họ. Trong những bộ lạc đó liệu con cháu có bỏ mặc hoặc ghết bố mẹ mình ? Nó xảy ra với hai điều kiện chính. Một là trong điều kiện sống du mục, xã hội săn bắn hái lượm thường xuyên thay đổi chổ ở và không có khà năng mang theo những người già không đi lại được khi những người trẻ khoẻ mạnh đã phải mang theo con cái và các tài sản của họ. Điều kiện thứ hai là trong những xã hội có điều kiện sống bấp bênh hoặc thiếu thốn, như ở Bắc cực hoặc sa mạc, nơi có những chu kỳ khan hiếm thức ăn, và thỉnh thoảng chỉ là không có đủ thức ăn để nuôi sống tất cả mọi người. Dù cho thực phẩm có được tích trữ chỉ dành cho những người khỏe mạnh và trẻ nhỏ. Với người Mỹ chúng ta, điều này nghe thật kinh khủng khi nghĩ đến việc bỏ mặc hoặc giết chết người vợ, chồng bị ốm của mình hoặc bố mẹ mình. nhưng cái gì khiến những xã hội đó làm những điều khác biệt như vậy? Họ phải đối mặt với điều kiện khắc nghiệt không còn lựa chọn. Những người trường thành đó phải làm điều đó với chính cha mẹ họ, và những người đó biết rằng điều gì sẽ xảy ra với cha mẹ họ.
At the opposite extreme in treatment of the elderly, the happy extreme, are the New Guinea farming societies where I've been doing my fieldwork for the past 50 years, and most other sedentary traditional societies around the world. In those societies, older people are cared for. They are fed. They remain valuable. And they continue to live in the same hut or else in a nearby hut near their children, relatives and lifelong friends.
Ở trạng thái ngược lại việc đối xử với người già cực tốt đó là những xã hội nông nghiệp ở New Guinea nơi tôi đã làm công việc đồng áng suốt 50 năm qua, và ở hầu hết những xã hội sống định cư trên khắp thê giới. Trong những xã hội đó, những người già được chăm sóc. Được cho ăn uống, gìn giữ giá trị của họ. Họ tiếp tục sống trong mái nhà của mình hoặc ai đó ngay gần nhà con cháu mình, hoặc nhà họ hàng và bạn bè thân thiết.
There are two main sets of reasons for this variation among societies in their treatment of old people. The variation depends especially on the usefulness of old people and on the society's values.
Có hai lý do chính cho sự khác biệt giữa những xã hội trong cách đối xử của họ với người già. Sự khác biệt đặc biệt phụ thuộc vào sự hữu dụng của người già và giá trị của họ với xã hội.
First, as regards usefulness, older people continue to perform useful services. One use of older people in traditional societies is that they often are still effective at producing food. Another traditional usefulness of older people is that they are capable of babysitting their grandchildren, thereby freeing up their own adult children, the parents of those grandchildren, to go hunting and gathering food for the grandchildren. Still another traditional value of older people is in making tools, weapons, baskets, pots and textiles. In fact, they're usually the people who are best at it. Older people usually are the leaders of traditional societies, and the people most knowledgeable about politics, medicine, religion, songs and dances.
Thứ nhất, là sự hữu dụng người già tiếp tục thực hiện những công việc quan trọng. Những xã hội truyền thống sử dụng người già thường khi họ tiếp tục hiệu quả trong việc tạo ra thực phẩm. Một sự hữu ích truyền thống của người già là họ có khả năng chăm sóc trẻ em cháu chắt họ, do đó giúp đỡ những đứa con đã trưởng thành của họ bố mẹ những đứa cháu của họ, để chúng đi săn bắn hái lượm, kiếm thức ăn cho cháu họ. Còn những giá trị truyền thống khác của người già là chế tạo công cụ, vũ khí, rổ giá, ấm chén và dệt vải. Thực ra, họ thường là người giỏi nhất những việc đó. Người già thường là lãnh đạo trong những xã hội truyền thống, và là những người có nhiều kiến thức nhất về chính trị, y dược, tôn giáo , âm nhạc và các điệu múa.
Finally, older people in traditional societies have a huge significance that would never occur to us in our modern, literate societies, where our sources of information are books and the Internet. In contrast, in traditional societies without writing, older people are the repositories of information. It's their knowledge that spells the difference between survival and death for their whole society in a time of crisis caused by rare events for which only the oldest people alive have had experience. Those, then, are the ways in which older people are useful in traditional societies. Their usefulness varies and contributes to variation in the society's treatment of the elderly.
Cuối cùng, là những người già của những xã hội truyền thống có vị trí cực kỳ quan trọng mà sẽ không bao xảy ra trong xã hội hiện đại được giáo dục tốt của chúng ta, nơi mà tất cả nguồn thông tin của chúng ta là sách vở và Internet Ngược lại, trong xã hội không có chữ viết, những người già là kho chứa kiến thức. Kiến thức của họ tạo ra sự khác biệt giữa sự sống và cái chết đối với cả xã hội trong giai đoạn khủng hoảng do những sự kiện hiếm khi xảy ra mà chỉ những người già nhất còn sống mới được trải nghiệm. Đó là những cách người già trở lên hữu dụng trong xã hội truyền thống. Giá trị và đóng góp của họ là sự khác biệt trong cách đối xử của xã hội với họ.
The other set of reasons for variation in the treatment of the elderly is the society's cultural values. For example, there's particular emphasis on respect for the elderly in East Asia, associated with Confucius' doctrine of filial piety, which means obedience, respect and support for elderly parents. Cultural values that emphasize respect for older people contrast with the low status of the elderly in the U.S. Older Americans are at a big disadvantage in job applications. They're at a big disadvantage in hospitals. Our hospitals have an explicit policy called age-based allocation of healthcare resources. That sinister expression means that if hospital resources are limited, for example if only one donor heart becomes available for transplant, or if a surgeon has time to operate on only a certain number of patients, American hospitals have an explicit policy of giving preference to younger patients over older patients on the grounds that younger patients are considered more valuable to society because they have more years of life ahead of them, even though the younger patients have fewer years of valuable life experience behind them. There are several reasons for this low status of the elderly in the U.S. One is our Protestant work ethic which places high value on work, so older people who are no longer working aren't respected. Another reason is our American emphasis on the virtues of self-reliance and independence, so we instinctively look down on older people who are no longer self-reliant and independent. Still a third reason is our American cult of youth, which shows up even in our advertisements. Ads for Coca-Cola and beer always depict smiling young people, even though old as well as young people buy and drink Coca-Cola and beer. Just think, what's the last time you saw a Coke or beer ad depicting smiling people 85 years old? Never. Instead, the only American ads featuring white-haired old people are ads for retirement homes and pension planning.
Những lý do khác đặt ra cho sự khác biệt trong cách đối xử với người già là do văn hoá xã hội. Ví dụ, có sự đặc biệt tôn trọng đối với người già ở các quốc gia Đông Á, do ảnh hưởng của đạo Khổng Tử về đạo làm con hiếu thảo, có nghĩa là vâng lời, tôn trọng và giúp đỡ cha mẹ già. Quan điểm văn hoá ở đó quan tâm đến sự tôn trọng người già trái ngược với địa vị thấp của người già ở Mỹ. Những người cao tuổi ở Mỹ chịu thiệt thòi lớn trong xin việc. Chịu thiệt thòi lớn trong việc khám chữa bệnh. Các bệnh viện của chúng ta có một chính sách rất rõ ràng gọi là phân phối nguồn lực chăm sóc sưc khoẻ theo độ tuổi. Chính sách tàn nhẫn đó nói rằng nếu nguồn lực của bệnh viện có giới hạn, ví dụ chỉ có một quả tim được hiến dành cho cấy ghép, hoặc nếu chỉ tiến hành phẫu thuật được cho một số lượng bệnh nhân có hạn, các bệnh viện Mỹ có chính sách dứt khoát rằng nhường sự ưu tiên cho bệnh nhân tuổi trẻ hơn là bệnh nhân nhiều tuổi hơn căn cứ vào đó bệnh nhân trẻ tuổi được xem như có giá trị hơn đối với xã hội vì họ có nhiều năm để sống hơn, mặc dù những bệnh nhân ít tuổi hơn có ít số năm kinh nghiệm sống hơn. Có vài lý do cho sự thiếu tốn trọng với người già ở Mỹ . Một là do quan điểm coi trọng công việc của chúng ta luôn đầu tư nhiều cho công việc, nên những người già không còn làm việc nữa không được tôn trọng. Một lý do khác là người Mỹ chúng ta coi trọng đức tính tự lực và độc lập, nên chúng ta nhìn vào những người già một cách bản năng thấy họ không còn tự lực và độc lập nữa. Còn một lý do nữa là nước Mỹ tôn sùng giới trẻ, điều này thể hiện ngay trong những quảng cáo của chúng ta. Quảng cáo của Coca-Cola và bia luôn miêu tả nụ cười của người trẻ tuổi, cho dù cả người già lẫn người trẻ đều uống Coca-Cola và bia. Nghĩ xem, có bao giờ bạn thấy một quảng cáo Coca hay bia sử dụng nụ cười của ông già 85 tuổi? Không bao giờ. Thay vào đó, quảng cáo của Mỹ chỉ dùng hình ảnh người già tóc bạc cho các quảng cáo nhà dưỡng già và lập kế hoạch chi tiêu lương hưu.
Well, what has changed in the status of the elderly today compared to their status in traditional societies? There have been a few changes for the better and more changes for the worse. Big changes for the better include the fact that today we enjoy much longer lives, much better health in our old age, and much better recreational opportunities. Another change for the better is that we now have specialized retirement facilities and programs to take care of old people. Changes for the worse begin with the cruel reality that we now have more old people and fewer young people than at any time in the past. That means that all those old people are more of a burden on the few young people, and that each old person has less individual value. Another big change for the worse in the status of the elderly is the breaking of social ties with age, because older people, their children, and their friends, all move and scatter independently of each other many times during their lives. We Americans move on the average every five years. Hence our older people are likely to end up living distant from their children and the friends of their youth. Yet another change for the worse in the status of the elderly is formal retirement from the workforce, carrying with it a loss of work friendships and a loss of the self-esteem associated with work. Perhaps the biggest change for the worse is that our elderly are objectively less useful than in traditional societies. Widespread literacy means that they are no longer useful as repositories of knowledge. When we want some information, we look it up in a book or we Google it instead of finding some old person to ask. The slow pace of technological change in traditional societies means that what someone learns there as a child is still useful when that person is old, but the rapid pace of technological change today means that what we learn as children is no longer useful 60 years later. And conversely, we older people are not fluent in the technologies essential for surviving in modern society. For example, as a 15-year-old, I was considered outstandingly good at multiplying numbers because I had memorized the multiplication tables and I know how to use logarithms and I'm quick at manipulating a slide rule. Today, though, those skills are utterly useless because any idiot can now multiply eight-digit numbers accurately and instantly with a pocket calculator. Conversely, I at age 75 am incompetent at skills essential for everyday life. My family's first TV set in 1948 had only three knobs that I quickly mastered: an on-off switch, a volume knob, and a channel selector knob. Today, just to watch a program on the TV set in my own house, I have to operate a 41-button TV remote that utterly defeats me. I have to telephone my 25-year-old sons and ask them to talk me through it while I try to push those wretched 41 buttons.
Vậy, điều gì đã làm thay đổi địa vị của người già ngày nay so với địa vị của họ trong xã hội truyền thống trước kia? Có một ít thay đổi mang lại điều tốt hơn và nhiều thay đổi mang lại điều tệ hơn. Thay đổi lớn tốt hơn gồm có sự thực là ngày nay chúng ta hưởng thụ cuộc sống lâu hơn, sức khoẻ tốt hơn nhiều khi về già, nhiều cơ hội giải trí tốt hơn. Một thay đổi khác tốt hơn là điều kiện nghỉ ngơi thuận lợi hơn và các chương trình chăm sóc sức khoẻ cho người già. Những thay đổi xấu bắt nguồn từ thực tế khắc nghiệt rằng giờ đây chúng ta có nhiều người già hơn người trẻ nhất từ trước tới nay. Có nghĩa là những người già đó trở thành gánh nặng cho những người trẻ, và khiến mỗi người già có ít giá trị hơn. Một thay đổi lớn khác làm giảm địa vị người già là sự phá vỡ liên kết tuổi tác xã hội, bởi vì người già, con cháu họ, và bạn bè họ, đều rời đi khắp nơi sống độc lập với nhau nhiều lần trong suốt cuộc đời họ. Người Mỹ chuyển nhà trung bình sau 5 năm. Do dó người già có khả năng phải sống xa con cái mình và những người bạn thời trẻ. Vẫn còn một lý do nữa dẫn đến tình trạng này cho người già là sự nghỉ hưu khỏi lực lượng lao động, mang đến sự chia tay với đồng nghiệp và mất đi công việc họ đã gắn bó, trân trọng. Có lẽ thay đổi lớn nhất gây ra tình trạng này là người già của chúng ta nói khách quan, ít hữu dựng hơn so với họ trong xã hội truyền thống. Phổ biến khả năng đọc viết có nghĩa là họ không còn hữu ích cho việc lưu trữ kiến thức. Khi chúng ta cần thông tin nào đó, chúng ta tìm nó qua sách vở hoặc dùng Google thay vì tìm một ông già để hỏi. Tốc độ thay đổi công nghệ chậm trong xã hội truyền thống có nghĩa là những điều ai đó học được khi còn bé vẫn hữu dụng khi người đó già đi nhưng với tốc độ thay đổi chóng mặt của công nghệ như ngày nay thì những thứ chúng ta học khi còn bé sẽ không sử dụng được 60 năm sau. Và ngược lại, những người già như chúng ta không nhanh nhạy với những công nghệ thiết yếu để tồn tại trong xã hội hiện đại. Ví dụ, hồi 15 tuổi Tôi được xem là đặc biệt giỏi trong tính nhân nhiều số vì tôi nhớ tốt các bảng tính nhân và biết tính Logarít sử dụng nhanh thước trượt. Ngày nay, những kỹ năng đó hoàn toàn vô dụng bởi vì bất kỳ tên ngốc nào cũng có thể tính được phép nhân với tám chữ số một cách chính xác và ngay lập tức với máy tính bỏ túi. Ngược lại, ở tuổi 75 Tôi không có những ký năng cơ bản cho cuộc sống hàng ngày. Nhà tôi có chiếc TV đầu tiên năm 1948 chỉ có 3 núm mà tôi nhanh chóng dùng được: 1 núm bật tắt,1 núm âm lượng và núm chọn kênh. Ngày nay, chỉ để xem một chương trình trên TV ở nhà, Tôi phải điều khiển 41 nút và nó hoàn toàn đánh bại tôi Tôi phải gọi đứa con trai 25 tuổi để nó hướng dẫn trong khi tôi vất vả bấm 41 cái nút đó.
What can we do to improve the lives of the elderly in the U.S., and to make better use of their value? That's a huge problem. In my remaining four minutes today, I can offer just a few suggestions. One value of older people is that they are increasingly useful as grandparents for offering high-quality childcare to their grandchildren, if they choose to do it, as more young women enter the workforce and as fewer young parents of either gender stay home as full-time caretakers of their children. Compared to the usual alternatives of paid babysitters and day care centers, grandparents offer superior, motivated, experienced child care. They've already gained experience from raising their own children. They usually love their grandchildren, and are eager to spend time with them. Unlike other caregivers, grandparents don't quit their job because they found another job with higher pay looking after another baby. A second value of older people is paradoxically related to their loss of value as a result of changing world conditions and technology. At the same time, older people have gained in value today precisely because of their unique experience of living conditions that have now become rare because of rapid change, but that could come back. For example, only Americans now in their 70s or older today can remember the experience of living through a great depression, the experience of living through a world war, and agonizing whether or not dropping atomic bombs would be more horrible than the likely consequences of not dropping atomic bombs. Most of our current voters and politicians have no personal experience of any of those things, but millions of older Americans do. Unfortunately, all of those terrible situations could come back. Even if they don't come back, we have to be able to plan for them on the basis of the experience of what they were like. Older people have that experience. Younger people don't.
Chúng ta có thể làm gì để cải thiện cuộc sống của những người già ở Mỹ, và tận dụng được giá trị của họ? Đó là một vấn đề lớn. Trong bốn phút còn lại của tôi hôm nay, Tôi có thể đưa ra một vài đề xuất. Một trong những giá trị của người già là họ ngày càng trở thành những ông bà tốt mang lại khả năng chăm sóc tốt cho những đứa cháu của mình, nếu họ chọn là việc này, khi ngày càng nhiều phụ nữ trẻ tham gia vào lực lượng lao động và cũng có ít hơn những bố mẹ trẻ ở nhà toàn thời gian chăm sóc con cái họ. So với những lựa chọn thông thường là thuê người trông trẻ và trung tâm trông giữ trẻ ông bà mang lại cho trẻ những điều tốt hơn, họ có động lực và kinh nghiệm trông trẻ hơn. Họ đã có sẵn kinh nghiệm khi nuôi con của mình. Họ thường yêu thương cháu mình, và luôn muốn dành thời gian cho chúng. Không như những người trông trẻ thuê, ông bà không nghỉ bỏ việc vị họ kiếm được công việc khác với mức lương cao hơn để chăm sóc đứa trẻ khác. Giá trị thứ hai của người già ngược với những giá trị họ mất đi do kết quả của những điều kiện và công nghệ trên thế giới thay đổi. Cùng lúc đó, những người già được tăng giá trị bởi chính khinh nghiệm quý báu của họ khi sống trong những điều kiện mà giờ đây hiếm khi xảy ra cũng bởi tốc độ thay đổi lớn lên điều đó có thể lại xảy ra. Ví dụ như, chỉ những người Mỹ giờ ở tuổi 70 hoặc già hơn mới có thể nhớ được những trải nghiệm sống qua cuộc đại suy thoái, trải nghiệm cuộc sống qua chiến tranh thế giới, đã từng vật lộn với việc thả bom nguyên tử có thể tệ hơn hậu quả của việc không thả bom. Hầu hết những người bỏ phiếu và chính trị gia hiện nay không có bất cứ những trải nghiệm cá nhân nào đối với những việc đó nhưng hàng triệu người Mỹ có. Thật không may nếu những trường hợp xấu đó lại xảy ra. Nhưng kể cả nếu nó không xảy ra, chúng ta vẫn có thể chuẩn bị cho nó dựa trên những kinh nghiệm họ đã trải qua như thế nào. Những người già có những kinh nghiệm đó. Người trẻ không.
The remaining value of older people that I'll mention involves recognizing that while there are many things that older people can no longer do, there are other things that they can do better than younger people. A challenge for society is to make use of those things that older people are better at doing. Some abilities, of course, decrease with age. Those include abilities at tasks requiring physical strength and stamina, ambition, and the power of novel reasoning in a circumscribed situation, such as figuring out the structure of DNA, best left to scientists under the age of 30. Conversely, valuable attributes that increase with age include experience, understanding of people and human relationships, ability to help other people without your own ego getting in the way, and interdisciplinary thinking about large databases, such as economics and comparative history, best left to scholars over the age of 60. Hence older people are much better than younger people at supervising, administering, advising, strategizing, teaching, synthesizing, and devising long-term plans. I've seen this value of older people with so many of my friends in their 60s, 70s, 80s and 90s, who are still active as investment managers, farmers, lawyers and doctors. In short, many traditional societies make better use of their elderly and give their elderly more satisfying lives than we do in modern, big societies.
Giá trị còn lại của người già mà tôi sẽ nói đến cũng phải thừa nhận rằng có nhiều việc mà người già không còn làm được nữa nhưng còn có những việc khác mà họ vẫn có thể làm tốt hơn những người trẻ. Một thách thức cho xã hội là tạo cơ hội sử dụng những điều mà người già làm tốt hơn. Một vài khả năng dĩ nhiên giảm sút khi về già. Bao gồm các công việc đòi hỏi sức khoẻ và sức chịu đựng, khát vọng và sức mạnh của sự tò mò trong nhiều trường hợp bị giới hạn, như tìm hiểu cấu trúc DNA, tốt nhất là để cho những nhà khoa học dưới 30 tuổi. Ngược lại, những giá trị đặc trưng mà sẽ tăng thêm cùng tuổi tác gồm kinh nghiệm, hiểu biết về những mối quan hệ giữa con người, có khả năng giúp đỡ người khác mà không để cái tôi xen vào, sự am hiểu nhiều lĩnh vực làm việc với khối lượng dữ liệu lớn, như kinh tế và so sánh tương quan lịch sử, tốt nhất là dành cho các học giả trên 60 tuổi. Vì người già có khả năng làm tốt hơn người trẻ trong giám sát, quản lý, khuyên răn, chiến lược, dạy học, kỹ năng tổng hợp, và đặt ra các kế hoạch dài hạn. Tôi đã thấy những khả năng này của người già ở nhiều người bạn của mình tuổi 60, 70, 80 và 90 tuổi, những người vẫn năng động trong quản lý đầu tư, làm nông, luật sư và bác sĩ. Tóm lại, nhiều xã hội truyền thống tạo điều kiện sử dựng những người già trong cộng đồng và làm thoả mãn cuộc sống của họ hơn trong xã hội lớn hiện đại của chúng ta.
Paradoxically nowadays, when we have more elderly people than ever before, living healthier lives and with better medical care than ever before, old age is in some respects more miserable than ever before. The lives of the elderly are widely recognized as constituting a disaster area of modern American society. We can surely do better by learning from the lives of the elderly in traditional societies. But what's true of the lives of the elderly in traditional societies is true of many other features of traditional societies as well. Of course, I'm not advocating that we all give up agriculture and metal tools and return to a hunter-gatherer lifestyle. There are many obvious respects in which our lives today are far happier than those in small, traditional societies. To mention just a few examples, our lives are longer, materially much richer, and less plagued by violence than are the lives of people in traditional societies. But there are also things to be admired about people in traditional societies, and perhaps to be learned from them. Their lives are usually socially much richer than our lives, although materially poorer. Their children are more self-confident, more independent, and more socially skilled than are our children. They think more realistically about dangers than we do. They almost never die of diabetes, heart disease, stroke, and the other noncommunicable diseases that will be the causes of death of almost all of us in this room today. Features of the modern lifestyle predispose us to those diseases, and features of the traditional lifestyle protect us against them.
Có một nghịch lý thời nay là, khi chúng ta có nhiều người già hơn bao giờ hết, cuộc sống tốt hơn, được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn trước rất nhiều, nhưng người già trong nhiều trường hợp đang chịu nhiều khổ đau hơn bao giờ hết. Cuộc sống của người già ngày càng được thừa nhận là tạo nên một mảng bất hạnh trong xã hội Mỹ. Chúng ta chắc chắn có thể làm tốt hơn nhờ học hỏi từ cuộc sống của những người già ở các xã hội truyền thống. Nhưng cái gì là đúng với cuộc sống người già của xã hội bộ lạc thì cũng đúng với những tập tục khác trong xã hội đó. Dĩ nhiên, Tôi không nói rằng chúng ta phải từ bỏ nền nông nghiệp và công cụ hiện đại và quay về săn bắn-hái lượm kiếm sống. Có nhiều điều quá rõ để thấy là cuộc sống của chúng ta ngày nay hạnh phúc hơn nhiều so với các bộ lạc truyền thống nhỏ lẻ. Vài ví dụ như là, chúng ta sống lâu hơn, giàu có hơn, và ít bị bạo lực hơn những người sống trong xã hội truyền thống. Nhưng vẫn có những điều mà chúng ta phải ngưỡng mộ những người trong xã hội truyền thống, và cần học theo họ. Cuộc sống của họ thường giàu tính cộng đồng hơn chúng ta, mặc dù thiếu thốn vật chất hơn. Con cháu họ tự tin hơn, độc lập hơn và nhiều kỹ năng xã hội hơn con cháu chúng ta. Họ suy nghĩ thực tế hơn đến những mối nguy hiểm hơn chúng ta. Họ dường như không bao giờ chết vì những bệnh đái đường, bệnh tim, đột quỵ và những bệnh không lây nhiễm khác đó là những bệnh có thể giết chết hầu hết tất cả những người ngồi đây ngày hôm nay. Lối sống hiện đại dẫn chúng ta đến những bệnh tật đó, còn lối sống của xã hội truyền thống bảo vệ chúng ta khỏi chúng.
Those are just some examples of what we can learn from traditional societies. I hope that you will find it as fascinating to read about traditional societies as I found it to live in those societies.
Đó chỉ là vài ví dụ về cái mà chúng ta có thể học từ xã hội truyền thống. Tôi mong các bạn cảm thấy hứng thú để tìm hiểu về những xã hội truyền thống đó như tôi đã thấy, để sống trong những xã hội đó.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(tiếng vỗ tay)