It was April, last year. I was on an evening out with friends to celebrate one of their birthdays. We hadn't been all together for a couple of weeks; it was a perfect evening, as we were all reunited.
Đó là vào tháng 4 năm ngoái khi tôi đang đi chơi tối với bạn chúc mừng sinh nhật một người bạn. Chúng tôi chưa gặp nhau khoảng một vài tuần; đó là một buổi tối hoàn hảo, khi chúng tôi tụ tập lại với nhau.
At the end of the evening, I caught the last underground train back to the other side of London. The journey was smooth. I got back to my local station and I began the 10-minute walk home. As I turned the corner onto my street, my house in sight up ahead, I heard footsteps behind me that seemed to have approached out of nowhere and were picking up pace. Before I had time to process what was happening, a hand was clapped around my mouth so that I could not breathe, and the young man behind me dragged me to the ground, beat my head repeatedly against the pavement until my face began to bleed, kicking me in the back and neck while he began to assault me, ripping off my clothes and telling me to "shut up," as I struggled to cry for help. With each smack of my head to the concrete ground, a question echoed through my mind that still haunts me today: "Is this going to be how it all ends?"
Vào cuối buổi tối, tôi bắt chuyến tàu ngầm cuối cùng trở lại về phía bên kia thành phố London. Chuyến đi diễn ra suôn sẻ. Tôi trở lại nhà ga nơi tôi ở và bắt đầu đi bộ 10 phút về nhà. Khi đi đến khúc rẽ vào đường nhà tôi, nhà ở ngay trước mắt tôi, tôi nghe tiếng bước chân ngay sau lưng và chúng đến từ nơi nào đó và tiếng đó trở nên dồn dập. Trước khi tôi kịp nhận ra điều gì, một bàn tay đã bịt miệng tôi lại để tôi không thể thở được, và một thanh niên trẻ ngay sau tôi kéo tôi xuống mặt đất, đập đầu tôi nhiều lần xuống vỉa hè cho đến khi mặt tôi bắt đầu chảy máu, đá vào lưng, cổ và hắn bắt đầu cưỡng hiếp tôi, xé nát quần áo của tôi và quát tôi "Im mồm," khi tôi đang cố khóc cầu cứu. Với mỗi cái đập đầu vào nền bê tông, một câu hỏi vang lên trong đầu tôi mà tôi nhớ cho đến tận hôm nay: "Đây sẽ cách tất cả sẽ kết thúc ư?"
Little could I have realized, I'd been followed the whole way from the moment I left the station. And hours later, I was standing topless and barelegged in front of the police, having the cuts and bruises on my naked body photographed for forensic evidence.
Tôi đã không nhận ra rằng mình bị theo dõi trên cả quãng đường kể từ giây phút tôi rời nhà ga. Và vài tiếng đồng hồ sau, tôi đứng trước cửa đồn cảnh sát không mặc áo và đi chân trần, họ chụp ảnh tất cả những vết thương và vết cắt trên cơ thể tôi để làm chứng cứ trên tòa.
Now, there are few words to describe the all-consuming feelings of vulnerability, shame, upset and injustice that I was ridden with in that moment and for the weeks to come. But wanting to find a way to condense these feelings into something ordered that I could work through, I decided to do what felt most natural to me: I wrote about it.
Hiện tại, tôi chỉ có vài từ để miêu tả cảm giác bất lực, xấu hổ, buồn bã và bất công mà tôi đã trải qua vào giây phút ấy và những tuần tiếp theo. Nhưng rất muốn tìm được cách kiềm chế những cảm xúc này vào một cái gì đó để giúp tôi vượt qua, tôi quyết định làm điều mà tôi thấy thoải mái nhất: tôi viết về nó.
It started out as a cathartic exercise. I wrote a letter to my assaulter, humanizing him as "you," to identify him as part of the very community that he had so violently abused that night.
Nó bắt đầu như một bài tập tẩy rửa. Tôi viết thư cho người cưỡng bức tôi, nhân cách hóa hắn ta là "bạn," để xác nhận hắn là một thành phần của cộng đồng mà hắn đã cưỡng bức hung bạo đêm đó.
Stressing the tidal-wave effect of his actions, I wrote: "Did you ever think of the people in your life? I don't know who the people in your life are. I don't know anything about you. But I do know this: you did not just attack me that night. I'm a daughter, I'm a friend, I'm a sister, I'm a pupil, I'm a cousin, I'm a niece, I'm a neighbor; I'm the employee who served everyone coffee in the café under the railway. And all the people who form these relations to me make up my community. And you assaulted every single one of them. You violated the truth that I will never cease to fight for, and which all of these people represent: that there are infinitely more good people in the world than bad."
Nhấn mạnh sự ảnh hưởng lớn từ hành động của hắn, tôi viết: "Đã bao giờ bạn nghĩ về những người trong cuộc đời bạn?" Tôi không biết họ là ai. Tôi cũng không biết gì về bạn. Nhưng tôi chỉ biết điều này: bạn không chỉ tấn công tôi vào đêm đó. Tôi là con gái, là người bạn. Tôi là người chị, là người học trò. Tôi là chị họ, là cháu, Tôi là một hàng xóm; Tôi là một nhân viên phục vụ trong một quán cà phê tại trạm tàu. Và tất cả những người có quan hệ với tôi tạo nên cộng đồng của tôi. Và bạn đã cưỡng bức từng người trong họ. Bạn đã xúc phạm sự thật rằng tôi sẽ không bao giờ ngừng đấu cho và vì tất cả những người đại diện: rằng thế giới này có nhiều người tốt hơn kẻ xấu."
But, determined not to let this one incident make me lose faith in the solidarity in my community or humanity as a whole, I recalled the 7/7 terrorist bombings in July 2005 on London transport, and how the mayor of London at the time, and indeed my own parents, had insisted that we all get back on the tubes the next day, so we wouldn't be defined or changed by those that had made us feel unsafe.
Nhưng, để sự cố này không làm tôi mất niềm tin vào sự đoàn kết của cộng đồng tôi và toàn thể nhân loại, tôi nhớ lại sự kiện đánh bom khủng bố 7/7 vào tháng 7 năm 2005 tại giao thông London và cách những lãnh đạo của London thời điểm đó và cả bố mẹ tôi nữa, đã khăng khăng rằng chúng tôi sẽ trở lại đường ngầm hôm sau chúng tôi nhất định không bị thay đổi bởi những người làm ta thấy nguy hiểm.
I told my attacker, "You've carried out your attack, but now I'm getting back on my tube. My community will not feel we are unsafe walking home after dark. We will get on the last tubes home, and we will walk up our streets alone, because we will not ingrain or submit to the idea that we are putting ourselves in danger in doing so. We will continue to come together, like an army, when any member of our community is threatened. And this is a fight you will not win."
Tôi bảo với kẻ tấn công mình, "Bạn đã tấn công được tôi, nhưng hiện tại tôi vẫn trở lại là mình. Cộng đồng của tôi sẽ không cảm thấy nguy hiểm đi bộ về nhà lúc tối. Chúng tôi sẽ về nhà với tàu cuối, và chúng tôi sẽ đi bộ một mình, bởi vì chúng tôi sẽ không bị cái ý tưởng chúng tôi tự đặt mình vào nguy hiểm nếu làm thế. Chúng tôi sẽ tiếp tục sát cánh, như quân đội, khi mà một thành viên trong cộng đồng gặp nguy hiểm. Và đây là cuộc chiến bạn sẽ không thắng."
At the time of writing this letter --
Vào thời điểm viết lá thư này--
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you.
Cảm ơn mọi người!
(Applause)
(Vỗ tay)
At the time of writing this letter, I was studying for my exams in Oxford, and I was working on the local student paper there. Despite being lucky enough to have friends and family supporting me, it was an isolating time. I didn't know anyone who'd been through this before; at least I didn't think I did. I'd read news reports, statistics, and knew how common sexual assault was, yet I couldn't actually name a single person that I'd heard speak out about an experience of this kind before.
Vào thời điểm viết lá thư này, tôi đang học chuẩn bị thi tại Oxford, và tôi đang làm cho một tờ báo sinh viên ở đó. Thay vì có đủ may mắn khi có bạn bè và gia đình ủng hộ, tôi vẫn thấy bị cô lập. Tôi không hề biết ai đã trải qua việc này trước đây; ít nhất tôi không nghĩ tôi có. Tôi đọc tin tức, thống kê và biết việc cưỡng bức thường xuyên xảy ra, nhưng tôi không thể nói tên được một người mà nói ra được việc này trước đây.
So in a somewhat spontaneous decision, I decided that I would publish my letter in the student paper, hoping to reach out to others in Oxford that might have had a similar experience and be feeling the same way. At the end of the letter, I asked others to write in with their experiences under the hashtag, "#NotGuilty," to emphasize that survivors of assault could express themselves without feeling shame or guilt about what happened to them -- to show that we could all stand up to sexual assault.
Nên trong một quyết định khá tự phát, tôi quyết định đăng bức thư của mình lên tờ báo sinh viên, với hy vọng tới những người ở Oxford đã trải qua chuyện tương tự và đồng cảm với tôi. Ở cuối lá thư, tôi có yêu cầu họ viết về chuyện của họ với cái tag, "#KhôngCóTội," để nhấn mạnh rằng nạn nhân của những vụ cưỡng bức có thể giải bày mà không cảm thấy xấu hổ hoặc tội lỗi vì những gì xảy ra với mình và chứng minh rằng chúng tôi có thể đứng lên.
What I never anticipated is that almost overnight, this published letter would go viral. Soon, we were receiving hundreds of stories from men and women across the world, which we began to publish on a website I set up. And the hashtag became a campaign.
Điều tôi không ngờ tới rằng hầu như chỉ qua một đêm bức thư được đăng đó lan truyền như virus. Ngay sau đó, chúng tôi nhận được hàng trăm câu chuyện từ nam nữ trên khắp thế giới, và chúng tôi bắt đầu đăng trên một trang web do tôi lập. Và cái tag đã trở thành một chiến dịch.
There was an Australian mother in her 40s who described how on an evening out, she was followed to the bathroom by a man who went to repeatedly grab her crotch. There was a man in the Netherlands who described how he was date-raped on a visit to London and wasn't taken seriously by anyone he reported his case to. I had personal Facebook messages from people in India and South America, saying, how can we bring the message of the campaign there? One of the first contributions we had was from a woman called Nikki, who described growing up, being molested my her own father. And I had friends open up to me about experiences ranging from those that happened last week to those that happened years ago, that I'd had no idea about.
Có một bà mẹ người Úc trong độ tuổi 40 đã miêu tả vào một buổi tối bên ngoài, bà đã bị đi theo tới nhà vệ sinh bởi một người đàn ông liên tục chạm vào mông bà. Có một người đàn ông ở Hà Lan đã tả về việc anh bị người quen cưỡng hiếp trong lần đi London và đã không được ai coi trọng khi anh trình báo vụ việc. Tôi nhận được tin nhắn riêng trên facebook từ nạn nhân ở Ấn Độ và Nam Mỹ, rằng, làm thế nào để mang thông điệp của chiến dịch tới đó? Một trong những sự cống hiến đầu tiên từ một người phụ nữ tên Nikki người bị chính cha mình quấy rầy lúc trưởng thành. Và những người bạn đã mở lòng về những trải nghiệm đã xảy ra từ tuần trước tới những gì xảy ra mấy năm trước, mà tôi chưa từng biết đến.
And the more we started to receive these messages, the more we also started to receive messages of hope -- people feeling empowered by this community of voices standing up to sexual assault and victim-blaming. One woman called Olivia, after describing how she was attacked by someone she had trusted and cared about for a long time, said, "I've read many of the stories posted here, and I feel hopeful that if so many women can move forward, then I can, too. I've been inspired by many, and I hope I can be as strong as them someday. I'm sure I will."
Và càng nhiều những tin nhắn chúng tôi nhận được, càng nhiều những thông điệp niềm tin đi theo đó -- mọi người cảm thấy mạnh mẽ bởi lời nói của cộng đồng đứng lên đấu lại cưỡng bức và sự đổ lỗi cho nạn nhân. Một phụ nữ tên Olivia, sau khi kể câu chuyện bị tấn công, bởi một người mà chị tin và chăm sóc trong thời gian dài, nói, "tôi đã đọc rất nhiều câu chuyện đăng ở đây, và tôi cảm thấy hy vọng rằng nhiều phụ nữ đã tiếp tục sống, thì tôi cũng có thể. Được truyền cảm hứng, tôi hy vọng một ngày tôi có thể mạnh mẽ như họ. Tôi chắc chắn tôi sẽ."
People around the world began tweeting under this hashtag, and the letter was republished and covered by the national press, as well as being translated into several other languages worldwide.
Mọi người trên thế giới bắt đầu tweet cái hashtag này và bức thư được đăng bởi báo chí quốc gia, cũng như được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
But something struck me about the media attention that this letter was attracting. For something to be front-page news, given the word "news" itself, we can assume it must be something new or something surprising. And yet sexual assault is not something new. Sexual assault, along with other kinds of injustices, is reported in the media all the time. But through the campaign, these injustices were framed as not just news stories, they were firsthand experiences that had affected real people, who were creating, with the solidarity of others, what they needed and had previously lacked: a platform to speak out, the reassurance they weren't alone or to blame for what happened to them and open discussions that would help to reduce stigma around the issue. The voices of those directly affected were at the forefront of the story -- not the voices of journalists or commentators on social media. And that's why the story was news.
Nhưng một điều tôi lo về sự chú ý của truyền thông rằng lá thư này rất thu hút. Để điều gì đó trở thành tin tức trang đầu, như cái tên "tin tức" của nó, chúng ta có thể coi đó là điều gì mới hoặc điều bất ngờ. Nhưng bạo lực tình dục không là điều mới nữa. Bạo lực tình dục, cùng với những bất công khác, luôn được đăng trên truyền thông. Nhưng qua chiến dịch này, những bất công không chỉ là câu chuyện tin tức, chúng là những trải nghiệm đầu tiên đã ảnh hưởng tới người thực, người đã tạo ra, với sự ủng hộ của người khác, điều họ cần mà trước đây họ chưa có: một nơi để bày tỏ, để chắc chắn họ không cô đơn hoặc để đổ lỗi cho những gì xảy ra với họ và mở lòng giúp giảm sự kỳ thị xung quanh vấn đề này. Tiếng nói của những người bị ảnh hưởng trực tiếp ở ngay đầu câu chuyện -- không phải là lời nói của nhà báo hoặc bình luận trên mạng xã hội. Và đó là lý do câu chuyện là một tin tức.
We live in an incredibly interconnected world with the proliferation of social media, which is of course a fantastic resource for igniting social change. But it's also made us increasingly reactive, from the smallest annoyances of, "Oh, my train's been delayed," to the greatest injustices of war, genocides, terrorist attacks. Our default response has become to leap to react to any kind of grievance by tweeting, Facebooking, hastagging -- anything to show others that we, too, have reacted.
Ta sống trong một thế giới cực kỳ liên kết với sự gia tăng của mạng xã hội, đó chính là một nguồn tài nguyên tuyệt vời cho thúc đẩy sự thay đổi xã hội. Nhưng nó cũng giúp chúng ta tăng cường phản ứng lại, từ những phiền toái nhỏ nhất như "Oh, tàu tôi bị chậm rồi," tới những bất công lớn của chiến tranh, nạn diệt chủng, tấn công khủng bố. Phản ứng mặc định của chúng ta đã trở thành phản ứng với bất kỳ bất công bằng cách tweet, lên facebook, hashtag -- bất cứ cách nào cho thấy chúng ta cũng phản ứng lại.
The problem with reacting in this manner en masse is it can sometimes mean that we don't actually react at all, not in the sense of actually doing anything, anyway. It might make ourselves feel better, like we've contributed to a group mourning or outrage, but it doesn't actually change anything. And what's more, it can sometimes drown out the voices of those directly affected by the injustice, whose needs must be heard.
Vấn đề với việc phản ứng theo cách đại chúng này là có thể đôi khi chúng ta không thực sự phản ứng lại, không theo nghĩa là thực sự làm gì, làm cách nào đó. Nó có thể làm chúng ta cảm thấy tốt hơn, như chúng ta đã đóng góp cho cộng đồng, nhưng thực sự nó chẳng thay đổi điều gì. Và một điều nữa, đôi khi nó còn át đi tiếng nói của người bị ảnh hưởng trực tiếp bởi bất công người cần được lắng nghe nhất.
Worrying, too, is the tendency for some reactions to injustice to build even more walls, being quick to point fingers with the hope of providing easy solutions to complex problems. One British tabloid, on the publication of my letter, branded a headline stating, "Oxford Student Launches Online Campaign to Shame Attacker." But the campaign never meant to shame anyone. It meant to let people speak and to make others listen. Divisive Twitter trolls were quick to create even more injustice, commenting on my attacker's ethnicity or class to push their own prejudiced agendas. And some even accused me of feigning the whole thing to push, and I quote, my "feminist agenda of man-hating."
Lo lắng cũng là một xu hướng phản ứng lại những bất công để xây nên nhiều bức tường hơn, nhanh chóng chỉ tay với hy vọng đưa ra được lời giải dễ dàng cho vấn đề phức tạp. Một tờ báo lá cải của Anh, có đăng bức thư của tôi, với một tiêu đề rằng "Sinh viên Oxford lập chiến dịch online để làm xấu mặt kẻ tấn công." nhưng nó chưa thực sự bao giờ để làm xấu mặt ai. Nó để làm cho mọi người lên tiếng và để làm người khác nghe. Những lời đùa chia rẽ trên Twitter đã nhanh chóng tạo ra nhiều bất công, bình luận về sắc tộc và tầng lớp của kể tấn công tôi để thúc đẩy chính kiến của hộ. Và một số thậm chí buộc tội tôi đã bịa ra mọi chuyện để thúc đẩy, và tôi trích nguyên văn, "chương trình nữ quyền ghét đàn ông."
(Laughter)
(Tiếng cười)
I know, right? As if I'm going to be like, "Hey guys! Sorry I can't make it, I'm busy trying to hate the entire male population by the time I'm 30."
Tôi biết, đúng thế? Như thể là tôi sẽ "Này mọi người! Xin lỗi tôi không thể làm, tôi đang bận cố ghét toàn bộ đàn ông vào lúc tôi 30 tuổi."
(Laughter)
(tiếng cười)
Now, I'm almost sure that these people wouldn't say the things they say in person. But it's as if because they might be behind a screen, in the comfort in their own home when on social media, people forget that what they're doing is a public act -- that other people will be reading it and be affected by it.
Bây giờ, tôi gần như chắc chắn rằng những người này không hề nói điều mà họ nghĩ. Nhưng nó như thể là họ là người đứng sau ngồi thoải mái trong căn nhà họ khi trên mạng xã hội, mọi người quên rằng họ đang làm là một hành vi công khai mà những người khác đọc và bị ảnh hưởng.
Returning to my analogy of getting back on our trains, another main concern I have about this noise that escalates from our online responses to injustice is that it can very easily slip into portraying us as the affected party, which can lead to a sense of defeatism, a kind of mental barrier to seeing any opportunity for positivity or change after a negative situation.
Trở lại câu chuyện của tôi về việc trở lại cuộc sống, một điều mà tôi quan tâm khác về vấn đề nổi lên từ phản ứng trực tuyến với bất công là nó dễ tạo cho chúng ta hình ảnh như bên bị ảnh hưởng, dẫn đến cảm giác bị đánh bại, một loại rào cản tâm lý với việc nhìn thấy cơ hội tích cực hoặc để thay đổi sau một tình huống tiêu cực.
A couple of months before the campaign started or any of this happened to me, I went to a TEDx event in Oxford, and I saw Zelda la Grange speak, the former private secretary to Nelson Mandela. One of the stories she told really struck me. She spoke of when Mandela was taken to court by the South African Rugby Union after he commissioned an inquiry into sports affairs. In the courtroom, he went up to the South African Rugby Union's lawyers, shook them by the hand and conversed with them, each in their own language. And Zelda wanted to protest, saying they had no right to his respect after this injustice they had caused him.
Một vài tháng trước khi chiến dịch bắt đầu hoặc điều này xảy ra với tôi, tôi đã đến một sự kiện TEDx ở Oxford và tôi thấy Zelda la Grange phát biểu, từng là thư ký riêng của Nelson Mandela. Một chuyện cô ấy kể thực sự làm tôi ấn tượng. Cô ấy kể về khi Mandela bị đưa đến tòa án bởi Hiệp hội Bóng bầu dục Nam Phi sau khi ông ấy ra lệnh điều tra các vấn đề thể thao. Trên tòa, ông ấy lên gặp luật sư của Hiệp hội Bóng bầu dục Nam Phi, bắt tay với họ và nói chuyện với từng người bằng tiếng của họ. Và Zelda muốn phản đối rằng họ không xứng với sự tôn trọng của ông ấy sau bất công này mà họ gây ra cho ông ấy.
He turned to her and said, "You must never allow the enemy to determine the grounds for battle."
Ông ấy đã quay sang cô này và nói, "Mình không bao giờ được để đối thủ xác định căn cớ cho trận đấu."
At the time of hearing these words, I didn't really know why they were so important, but I felt they were, and I wrote them down in a notebook I had on me. But I've thought about this line a lot ever since.
Thời điểm mà nghe được những lời này, tôi thực không biết vì sao chúng quan trọng nhưng tôi cảm thấy chúng có, và tôi đã viết lại vào quyển vở của mình. Nhưng tôi đã nghĩ về lời này rất nhiều lần kể từ đó.
Revenge, or the expression of hatred towards those who have done us injustice may feel like a human instinct in the face of wrong, but we need to break out of these cycles if we are to hope to transform negative events of injustice into positive social change. To do otherwise continues to let the enemy determine the grounds for battle, creates a binary, where we who have suffered become the affected, pitted against them, the perpetrators. And just like we got back on our tubes, we can't let our platforms for interconnectivity and community be the places that we settle for defeat.
Trả thù, hay biểu hiện của sự thù hận hướng tới những kẻ đã bất công với ta có thể giống như bản năng của con người khi đối mặt với sai trái nhưng ta cần phá vỡ những quy luật này nếu chúng ta hy vọng biến những điều tiêu cực của sự bất công thành thay đổi tích cực của xã hội. Làm ngược lại tiếp tục để kẻ thù xác định căn cớ cho trận chiến, tạo ra hai thế cực, mà ta người đã chịu đựng trở thành người bị ảnh hưởng đối đầu với họ, các thủ phạm. Và như chúng ta đã trở lại lối cũ, chúng ta không thể để nền tảng của sự liên kết và cộng đồng thành nơi chúng ta giải quyết sự thất bại.
But I don't want to discourage a social media response, because I owe the development of the #NotGuilty campaign almost entirely to social media. But I do want to encourage a more considered approach to the way we use it to respond to injustice.
Nhưng tôi không muốn ngăn cản những phản ứng trên mạng xã hội, bởi sự phát triển của chiến dịch #KhôngCóTội gần như toàn bộ với mạng xã hội. Nhưng tôi muốn cổ vũ cách tiếp cận quan tâm hơn tới cách chúng ta phản ứng với sự bất công.
The start, I think, is to ask ourselves two things. Firstly: Why do I feel this injustice? In my case, there were several answers to this. Someone had hurt me and those who I loved, under the assumption they wouldn't have to be held to account or recognize the damage they had caused. Not only that, but thousands of men and women suffer every day from sexual abuse, often in silence, yet it's still a problem we don't give the same airtime to as other issues. It's still an issue many people blame victims for.
Tôi nghĩ bắt đầu chúng ta nên tự hỏi hai điều Đầu tiên: Tại sao ta lại cảm thấy bất công này? Trong trường hợp của tôi, có vài câu trả lời. Người nào đó đã tổn thương tôi và người tôi yêu, với giả thuyết rằng hắn không phải chịu tránh nhiệm hoặc nhận ra tổn thương hắn đã gây ra. Không chỉ vậy, ngàn người đàn ông và phụ nữ chịu khổ mỗi ngày từ bạo lực tình dục, trong im lặng, nhưng vấn đề là chúng ta không chú ý đến như những vấn đề khác. Nó vẫn là một vấn đề nhiều người đổ lỗi cho nạn nhân.
Next, ask yourself: How, in recognizing these reasons, could I go about reversing them? With us, this was holding my attacker to account -- and many others. It was calling them out on the effect they had caused. It was giving airtime to the issue of sexual assault, opening up discussions amongst friends, amongst families, in the media that had been closed for too long, and stressing that victims shouldn't feel to blame for what happened to them. We might still have a long way to go in solving this problem entirely. But in this way, we can begin to use social media as an active tool for social justice, as a tool to educate, to stimulate dialogues, to make those in positions of authority aware of an issue by listening to those directly affected by it.
Tiếp theo, hãy tự hỏi: Nhận ra những lý do này làm thế nào ta có thể hoán đổi? Với tôi, đó là bắt kẻ tấn công tôi chịu tránh nhiệm -- và nhiều người khác. Đó là bắt họ chịu tránh nhiệm hậu quả họ đã gây ra. Đó là đem sự chú ý tới vấn nạn bạo lực tình dục, trao đổi thoải mái giữa bạn bè, gia đình, trên truyền thông mà đã bị lơ là quá lâu và nhấn mạnh rằng nạn nhân không nên thấy có tội vì những gì đã xảy ra với họ. Ta vẫn còn một chặng đường dài để giải quyết triệt để vấn đề này. Nhưng bằng cách này, Ta có thể sử dụng mạng xã hội như công cụ tích cực vì công bằng xã hội như công cụ để giáo dục, để khuyến khích trò chuyện, để cho những nhà chức trách nhận thức được vấn đề bằng cách lắng nghe những người bị ảnh hưởng.
Because sometimes these questions don't have easy answers. In fact, they rarely do. But this doesn't mean we still can't give them a considered response. In situations where you can't go about thinking how you'd reverse this feeling of injustice, you can still think, maybe not what you can do, but what you can not do. You can not build further walls by fighting injustice with more prejudice, more hatred. You can not speak over those directly affected by an injustice. And you can not react to injustice, only to forget about it the next day, just because the rest of Twitter has moved on.
Bởi vì đôi khi những câu hỏi này không có câu trả lời dễ dàng. Trên thực tế, chúng hiếm khi có. Nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể cho chúng phản hồi. Trong những trường hợp bạn không thể nghĩ ra làm thế nào để đảo ngược cảm giác bất công bạn vẫn có thể nghĩ, có thể đó không là điều bạn có thể, nhưng là điều bạn không thể. Bạn không thể xây thêm bức tường bằng cách đấu lại bất công với thành kiến hơn thù hằn hơn. Bạn không thể nói với những người bị ảnh hưởng trực tiếp bằng sự bất công. Và bạn không thể đáp trả với sự bất công, chỉ với cách quên nó đi vào ngày hôm sau, chỉ bởi vì Twitter đang chạy tiếp.
Sometimes not reacting instantly is, ironically, the best immediate course of action we can take. Because we might be angry, upset and energized by injustice, but let's consider our responses. Let us hold people to account, without descending into a culture that thrives off shaming and injustice ourselves. Let us remember that distinction, so often forgotten by internet users, between criticism and insult. Let us not forget to think before we speak, just because we might have a screen in front of us. And when we create noise on social media, let it not drown out the needs of those affected, but instead let it amplify their voices, so the internet becomes a place where you're not the exception if you speak out about something that has actually happened to you.
Đôi khi, không phản ứng ngay, trớ trêu thay, lại là hành động ngay lập tức tốt nhất mà ta có thể làm. Bởi vì chúng ta có thể tức giận, buồn bã, và thúc đẩy bởi sự bất công, nhưng hãy suy nghĩ đến những phản ứng của ta. Hãy để ta bắt họ chịu tránh nhiệm, mà không giảm giá trị văn hóa mà phát triển từ chính sự xấu hổ và bất công của ta. Hãy để ta nhớ rằng sự khác biệt, đôi khi đã bị lãng quên bởi người dùng mạng, giữa chỉ trích và xúc phạm. Hãy để ta không quên nghĩ trước khi nói, chỉ bởi vì ta có màn hình trước mặt. Và khi ta tạo tin nhiễu trên mạng xã hội. đừng làm át những điều mà người bị ảnh hưởng cần mà thay vào đó hãy làm tăng âm lượng giọng nói họ, để mạng trở thành nơi bạn không phải là cá biệt nếu bạn nói về điều gì đã thực sự xảy ra với bạn.
All these considered approaches to injustice evoke the very keystones on which the internet was built: to network, to have signal, to connect -- all these terms that imply bringing people together, not pushing people apart.
Tất cả những cách quan tâm này tới bất công gợi lên yếu tố chủ chốt mà mạng được xây dựng nên: để tạo mạng lưới, để có tín hiệu, để kết nối -- tất cả những điều này ám chỉ đem mọi người gần nhau không phải đẩy họ ra xa.
Because if you look up the word "justice" in the dictionary, before punishment, before administration of law or judicial authority, you get: "The maintenance of what is right." And I think there are few things more "right" in this world than bringing people together, than unions. And if we allow social media to deliver that, then it can deliver a very powerful form of justice, indeed.
Bởi vì nếu bạn tìm kiếm từ "công bằng" trong từ điển, trước sự trừng phạt, trước sự thi hành pháp luật hoặc cơ quan tư pháp, bạn thấy: "Sự duy trì điêu đúng đắn." Và tôi nghĩ có ít thứ "đúng" hơn trong thế giới này hơn là đem con người lại gần nhau, hơn là những sự hợp nhất. Và nếu ta để mạng xã hội truyền tải điều này, và để nó truyền tải thực sự một dạng công bằng mạnh mẽ.
Thank you very much.
Xin cảm ơn rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)