Looking deeply inside nature, through the magnifying glass of science, designers extract principles, processes and materials that are forming the very basis of design methodology. From synthetic constructs that resemble biological materials, to computational methods that emulate neural processes, nature is driving design. Design is also driving nature. In realms of genetics, regenerative medicine and synthetic biology, designers are growing novel technologies, not foreseen or anticipated by nature.
Nhìn sâu vào bên trong thế giới tự nhiên qua ống kính phóng đại của khoa học, các nhà thiết kế đúc kết được những nguyên tắc, quy trình và vật liệu để hình thành nền tảng cơ bản nhất của các phương pháp thiết kế. Từ những cấu trúc tổng hợp tương đồng với những vật liệu sinh học, đến những phương thức điện toán mô phỏng quy trình thần kinh, thiên nhiên dẫn lối cho ngành thiết kế. Thiết kế cũng đang dẫn dắt tự nhiên. Trong các lĩnh vực di truyền học, dược phẩm tái tạo và sinh học tổng hợp, các nhà thiết kế đang phát triển những công nghệ đột phá, chưa hề được tìm thấy hoặc dự đoán trong thiên nhiên.
Bionics explores the interplay between biology and design. As you can see, my legs are bionic. Today, I will tell human stories of bionic integration; how electromechanics attached to the body, and implanted inside the body are beginning to bridge the gap between disability and ability, between human limitation and human potential.
Ngành sinh kỹ thuật tìm tương đồng giữa sinh học và thiết kế. Như các bạn thấy, đôi chân của tôi là sản phẩm sinh kỹ thuật. Hôm nay, tôi sẽ kể câu chuyện về sự hợp nhất người và máy sinh kỹ thuật, về cách máy điện cơ được gắn vào cơ thể, và được cấy ghép trong cơ thể chúng bắt đầu xóa khoảng cách giữa cái không thể và điều có thể, giữa giới hạn và tiềm năng của con người.
Bionics has defined my physicality. In 1982, both of my legs were amputated due to tissue damage from frostbite, incurred during a mountain-climbing accident. At that time, I didn't view my body as broken. I reasoned that a human being can never be "broken." Technology is broken. Technology is inadequate. This simple but powerful idea was a call to arms, to advance technology for the elimination of my own disability, and ultimately, the disability of others. I began by developing specialized limbs that allowed me to return to the vertical world of rock and ice climbing. I quickly realized that the artificial part of my body is malleable; able to take on any form, any function -- a blank slate for which to create, perhaps, structures that could extend beyond biological capability. I made my height adjustable. I could be as short as five feet or as tall as I'd like.
Ngành sinh kỹ thuật cho tôi thể trạng hiện tại. Vào năm 1982, hai chân của tôi bị cắt bỏ do bị phỏng lạnh, trong một tai nạn leo núi. Vào lúc đó, tôi không nghĩ cơ thể tôi bị tàn phế. Tôi lý luận rằng con người có thể không bao giờ bị "tàn phế." Mà chỉ vì công nghệ còn bị trục trặc, công nghệ chưa hoàn thiện. Ý tưởng đơn giản nhưng mạnh mẽ này như là lời kêu gọi tổng động viên, để phát triển công nghệ nhằm loại bỏ tình trạng tàn tật của tôi, và sự khuyết tật của những người khác. Tôi bắt đầu thiết kế đôi chân chuyên biệt này cho phép tôi trở lại thế giới của môn leo núi đá và núi băng. Tôi nhanh chóng nhận ra phần nhân tạo của cơ thể rất uyển chuyển; có thể mang bất kỳ hình dạng nào, và có bất kỳ chức năng nào, như một tờ giấy trắng để tôi tha hồ vẽ những cấu trúc có thể còn vượt xa khả năng sinh học. Tôi tự đổi được chiều cao. Tôi có thể lùn xuống còn mét rưỡi hay cao lên nếu thích.
(Laughter)
(cười)
So when I was feeling bad about myself, insecure, I would jack my height up.
Khi tôi cảm thấy tự ti, bị lép vế, tôi lại đẩy mình cao lên,
(Laughter)
(Cười)
But when I was feeling confident and suave, I would knock my height down a notch, just to give the competition a chance.
nhưng khi tôi cảm thấy tự tin và dễ chịu, Tôi sẽ giảm chiều cao xuống một nấc, để cho đối thủ có hy vọng.
(Laughter)
(Cười)
(Applause)
(Vỗ tay)
Narrow-edged feet allowed me to climb steep rock fissures, where the human foot cannot penetrate, and spiked feet enabled me to climb vertical ice walls, without ever experiencing muscle leg fatigue. Through technological innovation, I returned to my sport, stronger and better. Technology had eliminated my disability, and allowed me a new climbing prowess. As a young man, I imagined a future world where technology so advanced could rid the world of disability, a world in which neural implants would allow the visually impaired to see. A world in which the paralyzed could walk, via body exoskeletons.
Bàn chân nhỏ, mảnh cho phép tôi leo theo những khe nứt của đá dốc, mà chân người không thể lèn vào được, và bàn chân có mấu nhọn cho phép tôi leo lên những vách băng dựng đứng, mà không hề thấy mỏi ở cơ chân. Nhờ tiến bộ công nghệ, tôi trở lại với môn thể thao của tôi, mạnh hơn và tốt hơn. Công nghệ đã loại bỏ tình trạng tàn tật của tôi, và cho tôi năng lực leo núi mới. Khi còn trẻ, tôi đã mơ về một thế giới tương lai ở đó công nghệ tiến bộ có thể loại bỏ mọi khuyết tật, một thế giới mà việc cấy ghép thần kinh làm người mù được sáng mắt. Một thế giới mà người bại liệt có thể đi lại, nhờ khung máy nâng cơ thể.
Sadly, because of deficiencies in technology, disability is rampant in the world. This gentleman is missing three limbs. As a testimony to current technology, he is out of the wheelchair, but we need to do a better job in bionics, to allow, one day, full rehabilitation for a person with this level of injury. At the MIT Media Lab, we've established the Center for Extreme Bionics. The mission of the center is to put forth fundamental science and technological capability that will allow the biomechatronic and regenerative repair of humans, across a broad range of brain and body disabilities.
Buồn thay, vì công nghệ chưa hoàn thiện, nên người tàn tật vẫn còn khắp nơi. Người đàn ông này bị mất ba chi. Như là một minh chứng cho công nghệ hiện nay, ông ấy bước ra khỏi xe lăn, nhưng ta cần làm máy sinh kỹ thuật tốt hơn để ngày kia khôi phục hoàn toàn một người có mức thương tật đến mức này. Tại phòng thí nghiệm MIT Media, chúng tôi lập Trung tâm kỹ sinh siêu cấp. Nhiệm vụ của trung tâm là phát triển khoa học nền tảng và khả năng công nghệ để hoàn thiện máy sinh kỹ thuật, mô phỏng tái tạo khả năng bị thươg tổn của não và cơ thể người trên phạm vi rộng.
Today, I'm going to tell you how my legs function, how they work, as a case in point for this center. Now, I made sure to shave my legs last night, because I knew I'd be showing them off.
Hôm nay, tôi cho bạn biết chân tôi vận hành thế nào, chúng làm việc ra sao, như là một minh họa thuyết phục cho thành công của trung tâm. Tối hôm qua, tôi đã cạo lông chân rồi, vì tôi biết hôm nay sẽ phải khoe chúng ra.
(Laughter)
(Cười)
Bionics entails the engineering of extreme interfaces. There's three extreme interfaces in my bionic limbs: mechanical, how my limbs are attached to my biological body; dynamic, how they move like flesh and bone; and electrical, how they communicate with my nervous system.
Thiết bị mô phỏng sinh học kế thừa kỹ thuật tương tác siêu cấp. Có 3 tương tác siêu cấu trong đôi chân mô phỏng của tôi: tương tác cơ khí, giúp các chi gắn nối với phần cơ thể; tương tác động học, giúp chúng chuyển động được như cơ và xương; và tương tác điện tử, giúp chúng kết nối với hệ thần kinh.
I'll begin with mechanical interface. In the area of design, we still do not understand how to attach devices to the body mechanically. It's extraordinary to me that in this day and age, one of the most mature, oldest technologies in the human timeline, the shoe, still gives us blisters. How can this be? We have no idea how to attach things to our bodies. This is the beautifully lyrical design work of Professor Neri Oxman at the MIT Media Lab, showing spatially varying exoskeletal impedances, shown here by color variation in this 3D-printed model. Imagine a future where clothing is stiff and soft where you need it, when you need it, for optimal support and flexibility, without ever causing discomfort.
Tôi sẽ bắt đầu với giao diện cơ khí. Trong phần thiết kế, chúng tôi vẫn không biết làm sao để gắn kết thiết bị với cơ thể. Thật lạ, ngày nay, một trong những công nghệ lâu đời và thuần thục nhất là kỹ thuật làm giày, thế mà ta vẫn bị giộp chân. Sao lại thế? Ta thật sự không biết cách kết nối một đồ vật vào cơ thể. Đây là thiết kế đẹp như thơ của giáo sư Neri Oxman tại MIT Media Lap, cho thấy thay đổi không gian của trở kháng trong khung đỡ, được thể hiện bằng màu khác nhau trong mẫu in 3D này. Hãy tưởng tượng trong tương lai quần áo sẽ cứng hoặc mềm mại đúng ý để tăng hỗ trợ bảo vệ và độ linh hoạt, và không tạo cảm giác khó chịu.
My bionic limbs are attached to my biological body via synthetic skins with stiffness variations, that mirror my underlying tissue biomechanics. To achieve that mirroring, we first developed a mathematical model of my biological limb. To that end, we used imaging tools such as MRI, to look inside my body, to figure out the geometries and locations of various tissues. We also took robotic tools -- here's a 14-actuator circle that goes around the biological limb. The actuators come in, find the surface of the limb, measure its unloaded shape, and then they push on the tissues to measure tissue compliances at each anatomical point.
Hai chân sinh kỹ thuật của tôi được gắn với phần cơ thể thông qua lớp da tổng hợp có độ cứng thay đổi, tạo thành lớp đệm mô phỏng các động lực sinh học dưới da. Để tạo được lớp đệm này, chúng tôi trước hết làm mô hình toán của đôi chân sinh học của tôi. Để hoàn thiện, chúng tôi đã dùng công cụ hình ảnh như máy MRI, để quan sát bên trong cơ thể, để hình dung ra hình dạng và vị trí của những mô khác nhau. Chúng tôi cũng dùng công cụ robot, ở đây là một vòng dẫn động 14 nhánh quay quanh chi sinh học. Đầu dẫn động đọc bề mặt của chi, đo hình dạng của nó lúc không co, rồi ấn vào các mô để đo khả năng thích ứng tại mỗi điểm của mô.
We combine these imaging and robotic data to build a mathematical description of my biological limb, shown on the left. You see a bunch of points, or nodes? At each node, there's a color that represents tissue compliance. We then do a mathematical transformation to the design of the synthetic skin, shown on the right. And we've discovered optimality is: where the body is stiff, the synthetic skin should be soft, where the body is soft, the synthetic skin is stiff, and this mirroring occurs across all tissue compliances. With this framework, we've produced bionic limbs that are the most comfortable limbs I've ever worn. Clearly, in the future, our clothing, our shoes, our braces, our prostheses, will no longer be designed and manufactured using artisan strategies, but rather, data-driven quantitative frameworks. In that future, our shoes will no longer give us blisters.
Chúng tôi kết hợp hình ảnh với dữ liệu nhận được để xây dựng một mô phỏng toán học của chi sinh học của tôi, hình bên trái. Bạn có thấy nhiều điểm và nút? Ở mỗi nút, có một màu để diễn tả mức phản ứng của mô. Rồi chúng tôi chuyển mô hình toán học thành mẫu thiết kế da tổng hợp, như hình bên phải. Và chúng tôi tìm được trường hợp tối ưu: nơi mà phần cơ thể cứng thì da tổng hợp phải mềm, nơi mà phần cơ thể mềm thì da tổng hợp cứng, và sự đối ứng này được áp dụng cho tất cả bề mặt thích ứng của mô. Với hình mẫu này, chúng tôi đã sản xuất những chi thoải mái nhất mà tôi từng được mang. Rõ ràng trong tương lai, quần áo, giày dép, dụng cụ nâng, các bộ phận giả, sẽ không còn được thiết kế và sản xuất thủ công, mà được sản xuất từ hệ thống dây chuyền điều khiển bằng dữ liệu. Lúc đó, giày của chúng ta sẽ không còn làm phồng chân.
We're also embedding sensing and smart materials into the synthetic skins. This is a material developed by SRI International, California. Under electrostatic effect, it changes stiffness. So under zero voltage, the material is compliant, it's floppy like paper. Then the button's pushed, a voltage is applied, and it becomes stiff as a board.
Chúng tôi cũng đang đưa vật liệu cảm ứng và thông minh vào trong da tổng hợp. Vật liệu này được chế tạo bởi Viện nghiên cứu SRI, California. Dưới hiệu ứng tĩnh điện, da này thay đổi độ cứng. Khi điện áp bằng 0, da sẽ mềm lại, nó mềm như giấy. Nhưng khi nhấn nút, nối điện, nó trở nên cứng như một tấm bảng.
(Tapping sounds)
(Tiếng gõ)
We embed this material into the synthetic skin that attaches my bionic limb to my biological body. When I walk here, it's no voltage. My interface is soft and compliant. The button's pushed, voltage is applied, and it stiffens, offering me a greater maneuverability over the bionic limb.
Chúng tôi đưa chất liệu này vào lớp da tổng hợp chỗ gắn kết phần chân giả với phần cơ thể sống của tôi. Khi tôi bước, nó không nối điện. Mặt tiếp nối mềm và nới lỏng. Nhưng khi nhấn nút, nối điện, nói trở nên cứng, nó cho phép tôi điều khiển được chân sinh kỹ thuật.
We're also building exoskeletons. This exoskeleton becomes stiff and soft in just the right areas of the running cycle, to protect the biological joints from high impacts and degradation. In the future, we'll all be wearing exoskeletons in common activities, such as running.
Chúng tôi cũng làm khung đỡ ngoài. Khung này có thể trở nên cứng hoặc mềm vừa đúng cho vùng cần thiết của quá trình chạy bộ, để bảo vệ khớp xương khỏi bị tác động mạnh và thoái hóa. Trong tương lai, chúng ta có thể sẽ mang khung xương ngoài trong những hoạt động phổ biến như chạy bộ.
Next, dynamic interface. How do my bionic limbs move like flesh and bone? At my MIT lab, we study how humans with normal physiologies stand, walk and run. What are the muscles doing, and how are they controlled by the spinal cord? This basic science motivates what we build. We're building bionic ankles, knees and hips. We're building body parts from the ground up. The bionic limbs that I'm wearing are called BiOMs. They've been fitted to nearly 1,000 patients, 400 of which have been wounded U.S. soldiers.
Tiếp đến là tương tác động học. Làm thế nào chân của tôi cử động được như thật? Ở MIT Lab, chúng tôi nghiên cứu cách người bình thường đứng, đi và chạy. Các cơ đang làm gì, và được điều khiển bởi tủy sống thế nào? Kiến thức cơ bản này là nền cho chúng tôi chế tạo. Mắt cá, đầu gối và khớp hông đang được thiết kế. Chúng tôi xây dựng những bộ phận cơ thể từ số không. Chi sinh kỹ thuật tôi đang mang được gọi là BiOMs. Chúng được làm riêng cho gần 1.000 bệnh nhân, 400 trong số đó là thương binh Mỹ.
How does it work?
Nó hoạt động thế nào?
At heel strike, under computer control, the system controls stiffness, to attenuate the shock of the limb hitting the ground. Then at mid-stance, the bionic limb outputs high torques and powers to lift the person into the walking stride, comparable to how muscles work in the calf region. This bionic propulsion is very important clinically to patients. So on the left, you see the bionic device worn by a lady, on the right, a passive device worn by the same lady, that fails to emulate normal muscle function, enabling her to do something everyone should be able to do: go up and down their steps at home. Bionics also allows for extraordinary athletic feats. Here's a gentleman running up a rocky pathway. This is Steve Martin -- not the comedian -- who lost his legs in a bomb blast in Afghanistan.
Khi chạm gót, với điều khiển của máy tính, hệ thống điều chỉnh độ cứng, để làm giảm độ sốc của chi trên mặt đất. Khi cả bàn chân chạm đất, chi sẽ tạo mô men xoắn và lực đẩy để nâng người vào thế bước tới, giống cách hoạt động của cơ ở bắp chân. Lực đẩy mô phỏng sinh kỹ thuật này rất quan trọng đối với bệnh nhân. Bên trái, bạn thấy thiết bị sinh kỹ thuật được một quý bà mang, bên phải, một thiết bị thường cũng được chính quý bà này mang, thiết bị thụ động này không mô phỏng được chức năng của cơ, không có chức năng này bà ta không làm được việc mà người thường làm được: đi lên xuống cầu thang trong nhà. Sinh kỹ thuật cũng tạo động tác điền kinh khéo léo lạ thường. Đây là một quý ông đang chạy trên một đường đá. Đó là Steve Martin... Không phải anh Steve diễn viên đầu, người bị mất đôi chân trong một vụ nổ bom ở Afghanistan.
We're also building exoskeletal structures using these same principles, that wrap around the biological limb. This gentleman does not have any leg condition, any disability. He has a normal physiology, so these exoskeletons are applying muscle-like torques and powers, so that his own muscles need not apply those torques and powers. This is the first exoskeleton in history that actually augments human walking. It significantly reduces metabolic cost. It's so profound in its augmentation, that when a normal, healthy person wears the device for 40 minutes and then takes it off, their own biological legs feel ridiculously heavy and awkward. We're beginning the age in which machines attached to our bodies will make us stronger and faster and more efficient.
Chúng tôi cũng thiết kế cấu trúc khung đỡ theo cùng nguyên tắc để tạo nên chi sinh kỹ thuật này. Người đàn ông này không có thương tật ở chân, cũng không có khuyết tật gì. Ông ấy có thể trạng bình thường, những khung đỡ đang hỗ trợ cơ - tạo những mô men và nguồn truyền động, nên cơ bắp của người này không cần tạo mô-men lực nữa. Đây là khung trợ lực đầu tiên trong lịch sử có thể giúp con người bước đi. Nó hạn chế đáng kể năng lượng từ quá trình trao đổi chất. Nó rất hiệu quả trong việc trợ lực, khi một người mạnh khỏe mang máy này trong 40 phút rồi lấy ra, thì đôi chân sinh học của anh ta cảm thấy nặng nề và vụng về một cách buồn cười. Chúng ta đang bắt đầu thời kỳ máy hỗ trợ gắn vào người nó sẽ làm ta mạnh mẽ hơn nhanh hơn và hiệu quả hơn.
Moving on to electrical interface: How do my bionic limbs communicate with my nervous system? Across my residual limb are electrodes that measure the electrical pulse of my muscles. That's communicated to the bionic limb, so when I think about moving my phantom limb, the robot tracks those movement desires. This diagram shows fundamentally how the bionic limb is controlled. So we model the missing biological limb, and we've discovered what reflexes occurred, how the reflexes of the spinal cord are controlling the muscles. And that capability is embedded in the chips of the bionic limb. What we've done, then, is we modulate the sensitivity of the reflex, the modeled spinal reflex, with the neural signal, so when I relax my muscles in my residual limb, I get very little torque and power, but the more I fire my muscles, the more torque I get, and I can even run. And that was the first demonstration of a running gait under neural command. Feels great.
Về tương tác điện tử : Làm thế nào các chi giả của tôi liên lạc với hệ thần kinh? Điện cực được gắn ở chi bị cụt của tôi để đo xung điện của các cơ. Xung điện này truyền đến chi ghép, nên khi tôi tưởng tượng lệnh để cử động chi đã mất, thì chi rô bốt sẽ theo những lệnh này để cử động. Sơ đồ này chỉ ra cách thức cơ bản chi sinh kỹ thuật được điều khiển. Vậy chúng tôi mô phỏng chi bị mất, và ghi nhận những phản xạ, những cách thức các phản xạ của tủy sống đang điều khiển các cơ. Các thông tin này được nhúng vào các con chíp của chi sinh kỹ thuật. Rồi chúng tôi điều chỉnh độ nhạy của các phản ứng, độ nhạy của phản xạ tủy sống với tín hiệu thần kinh, nên khi tôi thả lỏng các cơ trong phần chi bị cụt, tôi sẽ có rất ít mô men lực, nhưng khi căng cơ càng mạnh thì các mô men càng lớn, và thậm chí tôi chạy được. Đó là minh họa đầu tiên của quy trình chạy theo lệnh của nơ ron. Thật tuyệt vời.
(Applause)
(Vỗ tay)
We want to go a step further. We want to actually close the loop between the human and the bionic external limb. We're doing experiments where we're growing nerves, transected nerves, through channels, or micro-channel arrays. On the other side of the channel, the nerve then attaches to cells, skin cells and muscle cells. In the motor channels, we can sense how the person wishes to move. That can be sent out wirelessly to the bionic limb, then [sensory information] on the bionic limb can be converted to stimulations in adjacent channels, sensory channels. So when this is fully developed and for human use, persons like myself will not only have synthetic limbs that move like flesh and bone, but actually feel like flesh and bone.
Chúng tôi muốn tiến xa hơn. Chúng tôi muốn xóa khoảng cách giữa con người và các chi sinh kỹ thuật. Chúng tôi thử nghiệm để nối dài mạng thần kinh, các dây thần kinh bị cụt, thông qua mạng các kênh hoặc vi kênh. Ở phía kia của kênh, dây thần kinh nối với các tế bào, tế bào da và tế bào cơ. Trên các kênh vận động, ta có thể cảm nhận cách thức người này muốn di chuyển. Thông tin này có thể được gửi qua mạng không dây đến chi sinh kỹ thuật, rồi đến [thông tin cảm giác] trên chi sinh kỹ thuật có thể được biến đổi thành những kích thích trong kênh liền kề, tức kênh cảm giác. Vậy khi hệ thống này được phát triển đầy đủ và cài đặt cho con người dùng, thì những người này cũng như tôi sẽ có không chỉ chân giả tổng hợp có thể di chuyển như chân bằng da thịt, mà còn có được cảm giác như da và xương.
This video shows Lisa Mallette, shortly after being fitted with two bionic limbs. Indeed, bionics is making a profound difference in people's lives.
Video này cho thấy Lisa Mallette, không lâu sau khi được gắn 2 chân sinh kỹ thuật. Thật sự, sinh kỹ thuật làm nên những khác biệt lớn trong đời của con người.
(Video) Lisa Mallette: Oh my God. LM: Oh my God, I can't believe it!
(Video) Lisa Mallette: Ôi trời ơi. LM : Trời ơi, tôi không thể tin được!
(Video) (Laughter)
(Video) (Cười)
LM: It's just like I've got a real leg!
LM: Giống y như là tôi có ại cái chân thật ấy!
Woman: Now, don't start running.
Giọng nữ : Giờ đừng chạy nhé.
Man: Now turn around, and do the same thing walking up, but get on your heel to toe, like you would normally just walk on level ground. Try to walk right up the hill.
Giọng nam: giờ hãy quay lại, và làm như đang đi bộ lên dốc, nhưng hãy nâng từ gót đến ngón, như là bạn muốn bước lên mặt sàn cao hơn. Hãy cố bước thẳng lên đồi.
LM: Oh my God.
LM: Ôi trời ơi.
Man: Is it pushing you up?
Giọng nam: Nó đẩy bạn nhỉ?
LM: Yes! I'm not even -- I can't even describe it.
LM: Vâng, tôi thậm chí.. tôi không diễn tả được.
Man: It's pushing you right up.
Nam: Nó đang đẩy bạn lên.
Hugh Herr: Next week, I'm visiting the Center --
Hugh Herr: Tuần tới, tôi sẽ đến thăm trung tâm...
Thank you. Thank you.
Xin cảm ơn, cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you.
Xin cảm ơn.
Next week I'm visiting the Center for Medicare and Medicaid Services, and I'm going to try to convince CMS to grant appropriate code language and pricing, so this technology can be made available to the patients that need it.
Tuần tới tôi sẽ đến thăm Trung tâm Chăm sóc và Dịch vụ Hỗ trợ y tế, CMS Và tôi sẽ cố gắng thuyết phục CMS tài trợ cho chương trình ngôn ngữ lập trình và giá cả, để các bệnh nhân có thể tiếp cận công nghệ này.
(Applause)
(vỗ tay)
Thank you.
Cám ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)
It's not well appreciated, but over half of the world's population suffers from some form of cognitive, emotional, sensory or motor condition, and because of poor technology, too often, conditions result in disability and a poorer quality of life. Basic levels of physiological function should be a part of our human rights. Every person should have the right to live life without disability if they so choose -- the right to live life without severe depression; the right to see a loved one, in the case of seeing-impaired; or the right to walk or to dance, in the case of limb paralysis or limb amputation. As a society, we can achieve these human rights, if we accept the proposition that humans are not disabled. A person can never be broken. Our built environment, our technologies, are broken and disabled. We the people need not accept our limitations, but can transcend disability through technological innovation. Indeed, through fundamental advances in bionics in this century, we will set the technological foundation for an enhanced human experience, and we will end disability.
Mặc dù chưa có số liệu cụ thể, nhưng hơn một nửa dân số thế giới phải chịu một số tình trạng kém về trí tuệ, cảm xúc, cảm giác hay vận động, bởi vì công nghệ còn kém, nên thường là cái khó bó cái khôn làm chất lượng cuộc sống thấp hơn. Mức độ cơ bản của chức năng sinh lý nên được ghi nhận trong quyền con người. Mỗi người nên có quyền được sống một cuộc sống không tàn tật nếu họ có nguyện vọng, họ có quyền sống cuộc sống không bị trầm cảm nặng; quyền được nhìn được thấy người thân yêu, trong trường hợp họ bị mù; hoặc quyền được đi lại và nhảy múa, trong trường hợp họ bị bại liệt hay bị cụt. Trong xã hội, chúng ta có thể đạt được những quyền con người này, nếu chúng ta chấp nhận đề xuất rằng con người không bị tàn tật. Một người không bao giờ bị tàn phế. Chỉ có môi trường, công nghệ của chúng ta bị hỏng và kém cỏi. Con người không nên chấp nhận giới hạn nhưng phải vượt qua khuyết tật thông qua tiến bộ công nghệ. Thật vậy, với những tiến bộ cơ bản của ngành sinh kỹ thuật trong thế kỷ này, chúng ta sẽ thiết lập nền tảng công nghệ để nâng cao tầm với cảm nhận con người, và chúng ta sẽ chữa lành sự tàn tật.
I'd like to finish up with one more story, a beautiful story. The story of Adrianne Haslet-Davis. Adrianne lost her left leg in the Boston terrorist attack. I met Adrianne when this photo was taken, at Spaulding Rehabilitation Hospital. Adrianne is a dancer, a ballroom dancer.
Tôi xin phép được kết thúc bằng một câu chuyện, một câu chuyện đẹp. Câu chuyện về Adrianne Haslet-Davis. Adrianne bị mất chân trái trong vụ đánh bom khủng bố Boston. Tôi gặp Adrianne trong bức ảnh tại Bệnh viện Phục hồi chức năng Spaulding. Adrianne là một vũ công khiêu vũ cổ điển.
Adrianne breathes and lives dance. It is her expression. It is her art form. Naturally, when she lost her limb in the Boston terrorist attack, she wanted to return to the dance floor.
Adrianne thở và sống với khiêu vũ. Đó là cách cô ấy thể hiện bản thân, là hình thức nghệ thuật của cô. Cô ấy bị mất chân tại vụ khủng bố ở Boston, cô ấy muốn trở lại sàn khiêu vũ.
After meeting her and driving home in my car, I thought, I'm an MIT professor. I have resources. Let's build her a bionic limb, to enable her to go back to her life of dance. I brought in MIT scientists with expertise in prosthetics, robotics, machine learning and biomechanics, and over a 200-day research period, we studied dance. We brought in dancers with biological limbs, and we studied how they move, what forces they apply on the dance floor, and we took those data, and we put forth fundamental principles of dance, reflexive dance capability, and we embedded that intelligence into the bionic limb. Bionics is not only about making people stronger and faster. Our expression, our humanity can be embedded into electromechanics.
Sau khi gặp cô ấy và lái xe về nhà, Tôi nghĩ, tôi là giáo sư tại MIT. Tôi có kiến thức và khả năng. Hãy làm cho cô ấy một chân, để cô ấy quay trở lại sống cuộc sống khiêu vũ. Tôi tập hợp những nhà khoa học và chuyên gia ở MIT về chi giả, về robot, về trí tuệ nhân tạo và sinh kỹ thuật, qua hơn 200 ngày làm việc, chúng tôi đã nghiên cứu khiêu vũ. Chúng tôi mời các vũ công có đôi chân bình thường, và nghiên cứu cách họ chuyển động, nghiên cứu lực họ tác động lên sàn nhảy, chúng tôi thu thập dữ liệu đó, và đưa ra nguyên lý cơ bản của khiêu vũ, khả năng phản xạ khi khiêu vũ, và chúng tôi đưa công nghệ thông minh đó vào chi sinh kỹ thuật. Nghành sinh kỹ thuật không chỉ làm cho con người mạnh hơn và nhanh hơn. Cảm xúc, tính nhân bản của ta còn được hàm chứa trong các thiết bị điện cơ.
It was 3.5 seconds between the bomb blasts in the Boston terrorist attack. In 3.5 seconds, the criminals and cowards took Adrianne off the dance floor. In 200 days, we put her back. We will not be intimidated, brought down, diminished, conquered or stopped by acts of violence.
Vụ nổ bom khủng bố ở Boston kéo dài 3,5 giây. Trong 3,5 giây, bọn tội phạm hèn hạ đã đẩy Adrianne ra khỏi sàn khiêu vũ. Trong 200 ngày, chúng tôi đưa cô ấy trở lại. Chúng ta sẽ không khiếp sợ, đầu hàng, không bị chinh phục, đè bẹp hay cúi đầu trước hành vi bạo lực.
(Applause)
(Vỗ tay)
Ladies and gentlemen, please allow me to introduce Adrianne Haslet-Davis, her first performance since the attack. She's dancing with Christian Lightner.
Quý vị thân mến, cho phép tôi được giới thiệu Adrianne Haslet-Davis, biểu diễn đầu tiên của cô ấy sau vụ tấn công. Cô ấy sẽ khiêu vũ cùng Christian Lightner.
(Applause)
(Vỗ tay)
(Music: "Ring My Bell" performed by Enrique Iglesias)
(Nhạc: "Ring my bell", Enrique Iglesias trình diễn)
(Applause)
(Vỗ tay)
Ladies and gentlemen, members of the research team: Elliott Rouse and Nathan Villagaray-Carski.
Xin giới thiệu với quý vị thành viên của nhóm nghiên cứu, Elliott Rouse và Nathan Villagaray-Carski.
Elliott and Nathan.
xin mời Elliott và Nathan.
(Applause)
(vỗ tay)