This technology made a very important impact on us. It changed the way our history developed. But it's a technology so pervasive, so invisible, that we, for a long time, forgot to take it into account when we talked about human evolution. But we see the results of this technology, still. So let's make a little test. So everyone of you turns to their neighbor please. Turn and face your neighbors. Please, also on the balcony. Smile. Smile. Open the mouths. Smile, friendly. (Laughter) Do you -- Do you see any Canine teeth? (Laughter) Count Dracula teeth in the mouths of your neighbors? Of course not. Because our dental anatomy is actually made, not for tearing down raw meat from bones or chewing fibrous leaves for hours. It is made for a diet which is soft, mushy, which is reduced in fibers, which is very easily chewable and digestible. Sounds like fast food, doesn't it.
Công nghệ này đã có một ảnh hưởng to lớn lên chúng ta. Nó đã thay đổi cách mà lịch sử phát triển. Nhưng nó là một công nghệ quá đỗi thịnh hành, quá đỗi vượt bậc, mà chúng ta, sau một thời gian dài, đã quên nhắc tới khi chúng ta bàn về sự tiến hóa của con người. Nhưng ta vẫn thấy được kết quả của công nghệ này. Nên hãy cùng nhau kiểm tra một tí nhé. Tất cả các bạn hãy quay qua người bên cạnh mình nào. Đối mặt với họ. Trên ban công cũng làm theo luôn nha. Hãy cười nào. Cười. Mở miệng ra. Hãy cười một cách thân thiện. (Tiếng cười) Bạn có --- Bạn có thấy cái ranh năng nào không? (Tiếng cười) Hãy đếm những chiếc răng Dracula hiện diện trên nụ cười của họ nào. Đương nhiên là ta không đếm được rồi. Bởi vì cấu trúc răng hàm mặt chúng ta thực chất được tạo nên, không dành cho cấu xé thịt sống từ xương hay nhai lá cây đầy chất xơ hàng giờ liền. Nó đuợc dành cho một chế độ ăn uống mà dễ nuốt, mềm, xốp, ít chất xơ, rất dễ nhai và dễ tiêu hóa. Khá giống đồ ăn nhanh phải không.
(Laughter)
(Tiếng cuời)
It's for cooked food. We carry in our face the proof that cooking, food transformation, made us what we are. So I would suggest that we change how we classify ourselves. We talk about ourselves as omnivores. I would say, we should call ourselves coctivors -- (Laughter) from coquere, to cook. We are the animals who eat cooked food. No, no, no, no. Better -- to live of cooked food. So cooking is a very important technology. It's technology. I don't know how you feel, but I like to cook for entertainment. And you need some design to be successful. So, cooking is a very important technology, because it allowed us to acquire what brought you all here: the big brain, this wonderful cerebral cortex we have. Because brains are expensive. Those have to pay tuition fees know. (Laughter) But it's also, metabolically speaking, expensive. You now, our brain is two to three percent of the body mass, but actually it uses 25 percent of the total energy we use. It's very expensive. Where does the energy come from. Of course, from food. If we eat raw food, we cannot release really the energy. So this ingenuity of our ancestors, to invent this most marvelous technology. Invisible -- everyone of us does it every day, so to speak. Cooking made it possible that mutations, natural selections, our environment, could develop us.
Nó dành cho đồ ăn đã được chế biến. Chúng ta mang trên mình minh chứng là việc nấu ăn, việc chế biến đồ ăn, làm nên con người ta. Và tôi nghĩ ta nên thay đổi cách ta nhìn nhận bản thân. Ta nhìn ta như là loại động vật ăn thịt. Nhưng tôi nghĩ ta nên gọi mình loài ăn đồ nấu (coctivor) thì đúng hơn -- (Tiếng cười) phát triển từ "coquere" (tiếng Ý cổ) rồi đến "cook". Chúng ta là loài vật mà ăn đồ nấu chín. À không, đúng hơn là -- sống nhờ bằng đồ nấu chín. Nên nấu ăn là một công nghệ rất quan trọng. Nó là công nghệ. Tôi không biết bạn thấy sao, chứ nấu ăn đối với tôi như là giải trí vậy. Và bạn cần vài thiết kế để thành công nữa. Nên nấu ăn là một công nghệ rất quan trọng, bởi vì nó cho phép ta đạt được những thứ tạo nên bạn ngày hôm nay: bộ não to lớn, và bộ thần kinh tuyệt vời đính kèm. Bởi vì não rất là mắc tiền. Chúng cần phải trả tiền học nữa đó. (Tiếng cười) Nhưng nó cũng rất tốn kém trong sự trao đổi năng lượng. Bộ não ta chiếm khoảng 2 tới 3% toàn bộ cơ thể, nhưng nó lại xài tới 25% năng lượng trong tổng số ta dùng. Nó rất là tốn kém. Nhưng năng lượng từ đâu ra? Đương nhiên là từ thức ăn rồi. Nếu ta ăn đồ sống, ta không thể giải phóng số năng lượng đó được. Nên sự sáng suốt của tổ tiên ta, là tạo nên thứ công nghệ đáng quý này. Vô hình chung -- ta làm nó mỗi ngày, khỏi phải nói. Nấu ăn giúp tăng cường khả năng để sự đột biến, sự chọn lọc tự nhiên, và môi trường có thể phát triển ta.
So if we think about this unleashing human potential, which was possible by cooking and food, why do we talk so badly about food? Why is it always do and don'ts and it's good for you, it's not good for you? I think the good news for me would be if we could go back and talk about the unleashing, the continuation of the unleashing of human potential. Now, cooking allowed also that we became a migrant species. We walked out of Africa two times. We populated all the ecologies. If you can cook, nothing can happen to you, because whatever you find, you will try to transform it. It keeps also your brain working. Now the very easy and simple technology which was developed actually runs after this formula. Take something which looks like food, transform it, and it gives you a good, very easy, accessible energy.
Nên nếu ta nghĩ về việc giải phóng tiềm năng con người này, thông qua việc nấu ăn và thức ăn, thế tại sao ta lại xem thường thức ăn? Tại sao lại có những cái được hay không, tốt và xấu cho bạn? Và một mẩu tin tốt cho tôi sẽ là nếu ta quay lại và nói về việc giải phóng, việc duy trì sự giải phóng tiềm năng con người. Nấu ăn cũng cho phép chúng ta trở thành một một chủng di cư. Chúng ta đã ra khỏi Châu Phi hai lần. Ta sinh sôi khắp hệ sinh thái. Nếu bạn biết nấu ăn, bạn sẽ không sao cả vì bất kể bạn có gì, bạn sẽ cố biến đổi nó. Điều đó sẽ giúp não bạn vận động nữa. Giờ đây chính công nghệ đơn giản, dễ dàng đã và đang được phát triển rồi vận hành dựa trên công thức này. Lấy một thứ giống đồ ăn, biến đổi nó, và nó sẽ mang đến cho bạn dạng năng lượng vừa đủ xài.
This technology affected two organs, the brain and the gut, which it actually affected. The brain could grow, but the gut actually shrunk. Okay, it's not obvious to be honest. (Laughter) But it shrunk to 60 percent of primate gut of my body mass. So because of having cooked food, it's easier to digest. Now having a large brain, as you know, is a big advantage, because you can actually influence your environment. You can influence your own technologies you have invented. You can continue to innovate and invent. Now the big brain did this also with cooking. But how did it actually run this show? How did it actually interfere? What kind of criteria did it use? And this is actually taste reward and energy. You know we have up to five tastes, three of them sustain us. Sweet -- energy. Umami -- this is a meaty taste. You need proteins for muscles, recovery. Salty, because you need salt, otherwise your electric body will not work. And two tastes which protect you -- bitter and sour, which are against poisonous and rotten material. But of course, they are hard-wired but we use them still in a sophisticated way. Think about bittersweet chocolate; or think about the acidity of yogurt -- wonderful -- mixed with strawberry fruits.
Công nghệ này ảnh hưởng tới hai bộ phận, bộ não và ruột của chúng ta. Bộ não có thể phát triển, nhưng bộ ruột lại tiêu biến đi. Chà, nói vậy thì không rõ ràng lắm. (Tiếng cười). Nhưng nó lại co rút lại tới 60% của toàn bộ hệ thống ruột nguyên thủy trong cơ thể ta. Thế nên, nhờ vào thức ăn nấu chín, ta có thể dễ dàng tiêu hóa hơn. Và sở hữu một bộ não khỏe mạnh, các bạn biết đấy, là một lợi thế lớn, bởi vì bạn có thể ảnh hưởng tới môi truờng xung quanh. Bạn có thể thay đổi những công nghệ bạn tạo nên. Bạn có thể tiếp tục sáng tạo và đột phá. Và bộ não cũng làm như vậy với việc nấu ăn. Nhưng bằng cách nào nó có thể làm như vậy? Nó can thiệp vào bằng cách nào? Dựa trên tiêu chí nào? Và điều này mang đến giá trị mùi vị và năng lượng. Chúng ta có 5 mùi vị khác nhau, và 3 trong số đó nuôi sống ta. Vị ngọt - đầy năng lượng. Vị umami - vị ngọt thịt. Bạn cần proteins cho cơ bắp và sự phục hồi. Vị mặn, bởi vì bạn cần muối, nếu không thì cơ điện sẽ không hoạt động. Và 2 mùi vị còn lại bảo vệ ta -- vị đắng và vị chua, chúng chống lại những thứ độc hại và đã hư thối. Tuy chúng được ghi sẵn vào bộ não ta nhưng ta vẫn dùng chúng phức tạp hơn. Hãy nghĩ về sô-cô-la vừa ngọt vừa đắng; hoặc là về độ chua của sữa chua -- tuyệt vời -- pha trộn với dâu tây.
So we can make mixtures of all this kind of thing because we know that, in cooking, we can transform it to the form. Reward: this is a more complex and especially integrative form of our brain with various different elements -- the external states, our internal states, how do we feel, and so on are put together. And something which maybe you don't like but you are so hungry that you really will be satisfied to eat. So satisfaction was a very important part. And as I say, energy was necessary.
Ta có thể trộn lẫn những thứ này với nhau bởi vì ta biết rằng, trong nấu ăn, ta có thể biến đổi nó thành bất cứ hình dạng nào. Phần thường là: đây chính là một khía cạnh phức tạp và đặc biệt tích hợp của bộ não ta với nhiều yếu tố khác nhau -- trạng thái bên ngoài lẫn bên trong, cảm giác của ta, và nhiều thứ nữa được đưa lại với nhau. Và một thứ có thể bạn không thích nhưng khi đói thì ăn gì cũng thấy ngon. Bởi vậy sự thỏa mãn là một yếu tố rất quan trọng.
Now how did the gut actually participate in this development? And the gut is a silent voice -- it's going more for feelings. I use the euphemism digestive comfort -- actually -- it's a digestive discomfort, which the gut is concerned with. If you get a stomach ache, if you get a little bit bloated, was not the right food, was not the right cooking manipulation or maybe other things went wrong. So my story is a tale of two brains, because it might surprise you, our gut has a full-fledged brain. All the managers in the room say, "You don't tell me something new, because we know, gut feeling. This is what we are using." (Laughter) And actually you use it and it's actually useful. Because our gut is connected to our emotional limbic system, they do speak with each other and make decisions. But what it means to have a brain there is that, not only the big brain has to talk with the food, the food has to talk with the brain, because we have to learn actually how to talk to the brains.
Và như tôi đã nói, năng lượng là cần thiết. Nhưng làm thế nào mà ruột tham gia vào quá trình phát triển này? Bộ ruột có một tiếng nói thầm lặng -- và nó phụ trách về cảm giác hơn. Tôi dùng từ giảm nghĩa cho sự nhẹ nhõm trong tiêu hóa -- đúng hơn là -- sự khó chịu trong tiêu hóa, mà bộ ruột của ta phải chịu trách nhiệm. Nếu bạn bị đau bụng, nếu bạn cảm thấy hơi chướng bụng, bạn sẽ nghĩ là dị ứng đồ ăn, hoặc là nấu chưa tới, hoặc là có cái gì đó bất ổn. Câu chuyện của tôi là một câu chuyện về hai bộ não, bởi vì bạn sẽ bị bất ngờ, ruột của chúng ta có một bộ não hoàn chỉnh. Mọi quan chức cấp cao trong phòng sẽ phán, "Có cái gì mới đâu, tui biết rồi, chính là "linh tính" đó. Trước giờ toàn xài nó ấy mà." (Tiếng cười). Và thực chất bạn sử dụng nó bởi nó rất hữu dụng. Bởi vì bộ ruột ta kết nối với hệ thống viền cảm xúc trong bộ não, chúng giao tiếp với nhau và đưa ra quyết định. Nhưng đúng nghĩa hơn khi nói có một bộ não ở bụng ta chính là, không chỉ bộ não chính thức phải làm việc với đồ ăn, đồ ăn cũng phải trả lời lại với bộ não, bởi vì dù gì cuối cùng ta cũng phải học cách giao tiếp với những bộ não này.
Now if there's a gut brain, we should also learn to talk with this brain. Now 150 years ago, anatomists described very, very carefully -- here is a model of a wall of a gut. I took the three elements -- stomach, small intestine and colon. And within this structure, you see these two pinkish layers, which are actually the muscle. And between this muscle, they found nervous tissues, a lot of nervous tissues, which penetrate actually the muscle -- penetrate the submucosa, where you have all the elements for the immune system. The gut is actually the largest immune system, defending your body. It penetrates the mucosa. This is the layer which actually touches the food you are swallowing and you digest, which is actually the lumen. Now if you think about the gut, the gut is -- if you could stretch it -- 40 meters long, the length of a tennis court. If we could unroll it, get out all the folds and so on, it would have 400 sq. meters of surface.
Nếu có một bộ não ruột như vậy, ta cũng nên học cách quan tâm tới chúng. 150 năm về trước, các nhà giải phẫu học đã mô tả rất cẩn thận và chi tiết -- đây là một mô hình của một phía thành ruột. Tôi gộp 3 yếu tố lại -- dạ dày, đại tràng và kết tràng. Trong cấu trúc này, bạn sẽ thấy 2 lớp ngả màu hồng, và chúng chính là cơ ruột. Chính giữa phần cơ, họ tìm ra các mô thần kinh, rất nhiều mô thần kinh, chúng đâm xuyên suốt qua bộ cơ ruột -- qua luôn bộ hạ niêm, nơi có các thành phần của miễn dịch. Bộ ruột thực chất chính là hệ thống miễn dịch lớn nhất, bảo vệ cơ thể bạn. Nó xuyên qua cả niêm mạc. Đây chính là lớp mà sẽ tiếp xúc với thức ăn bạn nuốt vào và bạn tiêu hóa, gọi là không gian đường ruột. Nếu bạn nghĩ về ruột, -- nếu bạn trải dài nó ra -- thì nó sẽ dài tới 40m, bằng độ dài của một sân banh tennis. Nếu chúng ta rạch ngang nó, trải thẳng tắp ra, thì sẽ chiếm khoảng 40m vuông diện tích.
And now this brain takes care over this, to move it with the muscles and to do defend the surface and, of course, digest our food we cook. So if we give you a specification, this brain, which is autonomous, have 500 million nerve cells, 100 million neurons -- so around the size of a cat brain, so there sleeps a little cat -- thinks for itself, optimizes whatever it digests. It has 20 different neuron types. It's got the same diversity you find actually in a pig brain, where you have 100 billion neurons. It has autonomous organized microcircuits, has these programs which run. It senses the food; it knows exactly what to do. It senses it by chemical means and very importantly by mechanical means, because it has to move the food -- it has to mix all the various elements which we need for digestion. This control of muscle is very, very important, because, you know, there can be reflexes. If you don't like a food, especially if you're a child, you gag. It's this brain which makes this reflex. And then finally, it controls also the secretion of this molecular machinery, which actually digests the food we cook.
Quay lại, bộ não ruột này sẽ tiếp quản, sẽ dịch chuyển nó với bộ cơ, bảo vệ bề mặt và đương nhiên, tiêu hóa thức ăn đã nấu chín. Nếu chúng tôi đưa bạn một bản đặc tả đặc điểm, bộ não này, nó rất là độc lập, có tới 500 triệu tế bào thần kinh, 100 triệu nơ ron -- xấp xỉ so với bộ não của loài mèo, thế nên, nó chính là một chú mèo con ngủ ngon trong bụng -- có những suy nghĩ riêng của nó, và tối ưu hóa bất cứ thứ gì mà nó tiêu thụ. Nó có 20 loại dây thần kinh khác nhau. Nó có độ đa dạng bằng với bộ não của loài heo, nơi chứa hơn 100 tỉ nơ-ron. Nó có một vi mạch độc lập, được lập trình sẵn những chương trình. Nó cảm nhận thức ăn; và biết rõ tiếp theo cần làm gì. Nó cảm nhận bằng các xúc tác hóa học và đặc biệt là bằng các phương pháp cơ học bởi vì nó cần phải đưa thức ăn đi -- nó cần phải trộn những yếu tố khác nhau cần thiết cho quá trình tiêu hóa của ta. Sự kiểm soát cơ ruột này là không thể thiếu được, bởi vì, bạn biết đấy, những phản xạ có thể xảy ra. Nếu bạn không thích một đồ ăn, đặc biệt khi bạn là trẻ nhỏ, bạn bịt miệng. Chính bộ não này tạo ra phản ứng đó. Và cuối cùng, nó kiểm soát luôn sự bài tiết của bộ máy phân tử này, thứ mà thực sự tiêu hóa thức ăn ta nấu.
Now how do the two brains work with each other? I took here a model from robotics -- it's called the Subsumption Architecture. What it means is that we have a layered control system. The lower layer, our gut brain, has its own goals -- digestion defense -- and we have the higher brain with the goal of integration and generating behaviors. Now both look -- and this is the blue arrows -- both look to the same food, which is in the lumen and in the area of your intestine. The big brain integrates signals, which come from the running programs of the lower brain, But subsumption means that the higher brain can interfere with the lower. It can replace, or it can inhibit actually, signals. So if we take two types of signals -- a hunger signal for example. If you have an empty stomach, your stomach produces a hormone called ghrelin. It's a very big signal; it's sent to the brain says, "Go and eat." You have stop signals -- we have up to eight stop signals. At least in my case, they are not listened to. (Laughter)
Nhưng làm cách nào hai bộ não làm việc với nhau? Tôi đem đến đây một mô hình từ bên nghiên cứu rô bốt -- nó được gọi là Kiến Trúc Gộp Thể. Nghĩa là ta sẽ có một hệ thống kiểm soát phân tầng. Tầng thấp nhất, bộ não ruột của ta, có một mục đích riêng -- bảo vệ sự tiêu hóa-- và bộ não ở tầng cao hơn có chức năng tích hợp và kiến tạo hành động. Để ý những mũi tên màu xanh -- cả hai đều xử lý một loại thức ăn chứa trong không gian ruột, và lẫn trong đại tràng. Bộ não to tích hợp những tín hiệu, được phát ra bởi những chương trình đang chạy của bộ não phía dưới. Nhưng sự gộp lại này có nghĩa là bộ não phía trên có thể can thiệp vào bộ não phía dưới. Nó có thể thay thế, hoặc cản trở các tín hiệu. Nếu ta lấy hai loại dấu hiệu -- một dấu hiệu đói bụng làm ví dụ. Nếu trong bụng bạn không có gì, nó sẽ sản xuất ra một hóc-môn gọi là "ghrelin". Đó là một tín hiệu rất lớn; nó được gởi tới bộ não với lời nhắn là, "Đi ăn dùm cái." Bạn cũng có tín hiệu dừng lại -- và có tới 8 tín hiệu như thế. Ít nhất trong trường hợp của tôi, chúng chả có tác dụng gì.
So what happens if the big brain in the integration overrides the signal? So if you override the hunger signal, you can have a disorder, which is called anorexia. Despite generating a healthy hunger signal, the big brain ignores it and activates different programs in the gut. The more usual case is overeating. It actually takes the signal and changes it, and we continue, even [though] our eight signals would say, "Stop, enough. We have transferred enough energy." Now the interesting thing is that, along this lower layer -- this gut -- the signal becomes stronger and stronger if undigested, but digestible, material could penetrate. This we found from bariatric surgery. That then the signal would be very, very high.
(Tiếng cười). Điều xảy ra là nếu bộ não bự đang trong quá trình tích hợp, liệu nó sẽ lơ đi các dấu hiệu? Nếu bạn bỏ mặc các dấu hiệu đói bụng ấy, cơ thể có khả năng mắc chứng rối loạn cụ thể là chứng biếng ăn Dù rằng tín hiệu đói bụng đó hoàn toàn bình thường bộ não to lại lơ nó đi và kích hoạt các chương trình khác trong bộ ruột. Trường hợp thường gặp là chứng háu ăn. Nó lấy dấu hiệu đó và thay đổi, và ta cứ tiếp tục kể cả khi 8 tín hiệu đều báo, "Hãy dừng lại đi, đủ rồi. Chúng ta có đủ năng lượng cần rồi." Nhưng điều thú vị là, trong tầng thấp hơn -- chính là ruột -- tín hiệu trở nên ngày càng mạnh, khi những nguyên liệu có thể tiêu hóa được lại không được tiêu hóa hết đi vào bên trong ruột. Chúng tôi phát hiện điều này trong giải phẫu phù thủng. Là khi đó dấu hiệu sẽ lên rất, rất là cao.
So now back to the cooking question and back to the design. We have learned to talk to the big brain -- taste and reward, as you know. Now what would be the language we have to talk to the gut brain that its signals are so strong that the big brain cannot ignore it? Then we would generate something all of us would like to have -- a balance between the hunger and the satiation. Now I give you, from our research, a very short claim. This is fat digestion. You have on your left an olive oil droplet, and this olive oil droplet gets attacked by enzymes. This is an in vitro experiment. It's very difficult to work in the intestine. Now everyone would expect that when the degradation of the oil happens, when the constituents are liberated, they disappear, they go away because they [were] absorbed. Actually, what happens is that a very intricate structure appears. And I hope you can see that there are some ring-like structures in the middle image, which is water. This whole system generates a huge surface to allow more enzymes to attack the remaining oil. And finally, on your right side, you see a bubbly, cell-like structure appearing, from which the body will absorb the fat. Now if we could take this language -- and this is a language of structures -- and make it longer-lasting, that it can go through the passage of the intestine, it would generate stronger signals.
Quay trở lại câu hỏi nấu ăn và vấn đề thiết kế. Ta đã biết sơ về cách giao tiếp với bộ não to -- mùi vị và giải thưởng, như bạn biết đấy. Nhưng sẽ phải dùng ngôn ngữ nào để giao tiếp với bộ não ruột khiến nó có những dấu hiệu thật mãnh liệt để bộ não to không thể lờ đi? Khi đó chúng ta sẽ tạo ra -- một thứ mà ai cũng muốn -- sự cân bằng giữa đói bụng -- và thỏa mãn. Tôi sẽ cho bạn, từ nghiên cứu của chúng tôi, một lời khuyến cáo. Đây chính là sự tiêu hóa chất béo. Phía bên trái của bạn, là một giọt dầu olive, và giọt dầu này bị tấn công bởi enzim. Đây chính là một thử nghiệm trong ống nghiệm. Nó rất khó để tái hiện lại trong đại tràng. Ai cũng nghĩ rằng khi dầu được tiêu hóa khi các thành phần được giải phóng, thì chúng biến mất đi. bởi vì chúng đã được hấp thụ. Thực chất, điều xảy ra chính là một cấu trúc phức tạp xuất hiện. Tôi hi vọng bạn có thể thấy được có những cấu trúc hình tròn trong tấm hình giữa, chúng là nước. Cả hệ thống này tạo ra một bề mặt rộng để cho phép nhiều enzim tấn công số dầu còn lại. Và cuối cùng, bên phía phải, bạn thấy một cấu trúc bọng, giống tế bào xuất hiện, thông qua nó cơ thể sẽ hấp thụ chất béo. Và nếu chúng ta có thể đem ngôn ngữ này -- một loại ngôn ngữ có cấu trúc -- và làm nó có hiệu ứng lâu hơn, để nó có thể đi qua đường tiêu hóa của ruột, nó sẽ tạo ra những tín hiệu mạnh hơn.
So our research -- and I think the research also at the universities -- are now fixing on these points to say: how can we actually -- and this might sound trivial now to you -- how can we change cooking? How can we cook that we have this language developed? So what we have actually, it's not an omnivore's dilemma. We have a coctivor's opportunity, because we have learned over the last two million years which taste and reward -- quite sophisticated to cook -- to please ourselves, to satisfy ourselves. If we add the matrix, if we add the structure language, which we have to learn, when we learn it, then we can put it back; and around energy, we could generate a balance, which comes out from our really primordial operation: cooking. So, to make cooking really a very important element, I would say even philosophers have to change and have to finally recognize that cooking is what made us.
Nên nghiên cứu của chúng tôi-- và tôi nghĩ nghiên cứu của những trường khác -- đang tập trung nghiên cứu vấn đề này để trả lời: Làm thế nào ta -- có thể nghe hơi tầm thường với bạn -- làm thế nào ta thay đổi cách nấu ăn? Làm thế nào ta có thể vừa nấu ăn vừa giúp ngôn ngữ này phát triển? Thực chất, nó không phải một tình trạng khó xử của loài ăn thịt. Ta có cơ hội của một loài nấu ăn, bởi ta đã học qua hơn 2 triệu năm rồi những mùi vị và phần thưởng nào -- kể cả những mùi khó để tái tạo -- để thỏa mãn và làm vui lòng bản thân. Nếu ta thêm vào ma trận, nếu ta thêm vào ngôn ngữ cấu trúc này, thứ mà ta phải học thêm, và khi ta học nó, ta có thể dựa vào nó; và nói về năng lượng, ta có thể xây dựng một sự cân bằng, mà ta đã rút ra được từ thuở ban sơ của thời kì nấu ăn. Để biến nấu ăn thành một yếu tố quan trọng, Kể cả các nhà triết học sẽ phải thay đổi và phải công nhận là nấu ăn chính là thứ tạo nên con người ta.
So I would say, coquo ergo sum: I cook, therefore I am. Thank you very much.
Và tôi sẽ nói thêm là, "Coquo ergo sum: Tôi nấu ăn, nên tôi vậy đấy." Xin cám ơn rất nhiều.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)