So I'd like to start by focusing on the world's most dangerous animal.
Tôi muốn bắt đầu bài nói chuyện bằng việc tập trung vào loài động vật nguy hiểm nhất thế giới.
Now, when you talk about dangerous animals, most people might think of lions or tigers or sharks. But of course the most dangerous animal is the mosquito. The mosquito has killed more humans than any other creature in human history. In fact, probably adding them all together, the mosquito has killed more humans. And the mosquito has killed more humans than wars and plague.
Hiện tại, khi bạn nói đến động vật nguy hiểm, đa số mọi người sẽ nghĩ đến sư tử hay cọp hay cá mập. Nhưng tất nhiên loài động vật nguy hiểm nhất là muỗi. Muỗi đã giết nhiều người hơn bất cứ loài động vật nào trong lịch sử loài người. thực tế, nếu cộng tất cả các loài khác lại, loài muỗi đã giết nhiều người hơn. Và muỗi đã giết nhiều người hơn những cuộc chiến và những trận dịch.
And you would think, would you not, that with all our science, with all our advances in society, with better towns, better civilizations, better sanitation, wealth, that we would get better at controlling mosquitos, and hence reduce this disease. And that's not really the case. If it was the case, we wouldn't have between 200 and 300 million cases of malaria every year, and we wouldn't have a million and a half deaths from malaria, and we wouldn't have a disease that was relatively unknown 50 years ago now suddenly turned into the largest mosquito-borne virus threat that we have, and that's called dengue fever.
Và bạn sẽ nghĩ, rằng với tất cả khoa học của chúng ta, với những tiến bộ trong xã hội chúng ta, với những thành phố hiện đại hơn, nền văn minh hiện đại hơn, vấn đề vệ sinh tốt hơn, sự giàu có, liệu những thứ đó có giúp chúng ta kiểm soát tốt hơn loài muỗi. và nhờ đó giảm thiểu loại bệnh này. Và thật sự đó không phải vấn đề đáng nói. Nếu nó là vấn đề, chúng ta đã không có khoảng 200 đến 300 triệu ca bệnh sốt rét mỗi năm, và chúng ta cũng không có một triệu rưỡi ca tử vong do sốt rét, và chúng ta cũng không có một căn bệnh mà gần như không được biết đến cho đến 50 năm trước và bây giờ bỗng nhiên biến thành mối hiểm họa từ muỗi nguy hiểm nhất. và mối hiểm họa đó được gọi là bệnh sốt xuất huyết.
So 50 years ago, pretty much no one had heard of it, no one certainly in the European environment. But dengue fever now, according to the World Health Organization, infects between 50 and 100 million people every year, so that's equivalent to the whole of the population of the U.K. being infected every year. Other estimates put that number at roughly double that number of infections. And dengue fever has grown in speed quite phenomenally. In the last 50 years, the incidence of dengue has grown thirtyfold.
Vậy, 50 năm trước, không một ai biết đến căn bệnh này, không một ai ở khu vực Châu Âu. nhưng theo Tổ Chức Sức Khỏe thế giới, giờ đây \bệnh sốt xuất huyết lây lan cho 50 triệu người đến 100 triệu người mỗi năm, và nó gần như bằng cả dân số của nước Anh đang bị lây bệnh mỗi năm. Những số ước tính khác gấp đôi số nói trên về những ca bệnh. Và bệnh sốt xuất huyết đang phát tán một cách chóng mặt Trong vòng 50 năm qua, tỉ lệ mắc bệnh đã tăng gấp 30 lần.
Now let me tell you a little bit about what dengue fever is, for those who don't know. Now let's assume you go on holiday. Let's assume you go to the Caribbean, or you might go to Mexico. You might go to Latin America, Asia, Africa, anywhere in Saudi Arabia. You might go to India, the Far East. It doesn't really matter. It's the same mosquito, and it's the same disease. You're at risk. And let's assume you're bitten by a mosquito that's carrying that virus. Well, you could develop flu-like symptoms. They could be quite mild. You could develop nausea, headache, your muscles could feel like they're contracting, and you could actually feel like your bones are breaking. And that's the nickname given to this disease. It's called breakbone fever, because that's how you can feel.
Bây giờ để tôi kể cho các bạn nghe một chút về bệnh sốt xuất huyết cho những ai không biết. Bây giờ hãy tưởng tượng bạn đang đi nghỉ mát. hãy tưởng tượng bạn đi đến Caribe, hay bạn có thể đi đến Mexico. Bạn có thể đi đến Châu Mỹ Latinh, Châu Á, Châu Phi, bất kì đâu ở Ả Rập Bạn có thể đi đến Ấn độ, những vùng đất phía Đông. Đó không phải là vấn đề. Nó cũng là một loại muỗi và cùng một căn bệnh. Bạn luôn bị đe dọa. Và thử giả định bạn bị chích bởi một con muỗi mang vi-rút đó trong người. bạn có thể sẽ có những triệu chứng như bệnh cúm. Chúng có thể khá nhẹ. Bạn sẽ thấy buồn nôn, đau đầu, những cơ bắp trên người bạn sẽ thấy rất mệt mỏi. và bạn có thể thật sự thấy xương của mình như đang vỡ vụn ra. và căn bệnh này có một biệt danh, nó được gọi là "sốt vỡ xương" bởi vì đó là cảm giác bạn cảm thấy khi bị căn bệnh.
Now the odd thing is, is that once you've been bitten by this mosquito, and you've had this disease, your body develops antibodies, so if you're bitten again with that strain, it doesn't affect you. But it's not one virus, it's four, and the same protection that gives you the antibodies and protects you from the same virus that you had before actually makes you much more susceptible to the other three. So the next time you get dengue fever, if it's a different strain, you're more susceptible, you're likely to get worse symptoms, and you're more likely to get the more severe forms, hemorrhagic fever or shock syndrome. So you don't want dengue once, and you certainly don't want it again.
Bây giở, có một thứ vô lý ở đây, đó là ngay khi bạn bi chích bởi con muỗi này, và bị truyền bệnh, cơ thể bạn sẽ sản xuất ra những kháng thể, vì vậy nếu bạn bị chích lần nữa với cùng liều lượng nó sẽ không ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn. Nhưng ở đây không phải là một mà là bốn con vi-rút và cùng một hệ thống bảo vệ tạo ra những kháng thế và bảo vệ bạn khỏi những con vi-rut cùng dạng bạn bị trước đó thực sự làm bạn nhạy hơn với ba con vi--rút còn lại. Cho nên lần sau bạn bị sốt xuất huyết, nếu nó là một loại khác, liều lượng khác, bạn sẽ nhạy cảm hơn với căn bệnh, bạn sẽ có xu hướng chịu những triệu chứng nặng nề hơn, và bạn sẽ có thể bị bệnh nặng hơn, sốt xuất huyết hay hội chứng shock. Vì thế bạn không muốn bị sốt xuất huyết 1 lần và bạn chắc chắc không muốn bị lần nào nữa.
So why is it spreading so fast? And the answer is this thing. This is Aedes aegypti. Now this is a mosquito that came, like its name suggests, out of North Africa, and it's spread round the world. Now, in fact, a single mosquito will only travel about 200 yards in its entire life. They don't travel very far. What they're very good at doing is hitchhiking, particularly the eggs. They will lay their eggs in clear water, any pool, any puddle, any birdbath, any flower pot, anywhere there's clear water, they'll lay their eggs, and if that clear water is near freight, it's near a port, if it's anywhere near transport, those eggs will then get transported around the world. And that's what's happened. Mankind has transported these eggs all the way around the world, and these insects have infested over 100 countries, and there's now 2.5 billion people living in countries where this mosquito resides.
Vậy tại sao bệnh này phát tán nhanh như vậy? Và câu trả lời là đây. Đây là loài muỗi Aedes aegypti. Đây là loài muỗi-như tên gọi của no. đến từ Bắc Phi, và nó phát tán khắp thế giới. Thực tế một con muỗi chỉ có thể di chuyển khoảng khoảng 200 yard (182.88 mét) trong toàn bộ cuộc đời của nó. Chúng không di chuyển quá xa. Cái mà chúng giỏi đó là đi quá giang, cụ thể là ở dạng trứng. Chúng sẽ đẻ trứng của mình ở những nơi nước sạch, bất cứ hồ nào, bất cứ vũng nước nào, bất cứ ụ nước cho chim nào, bất cứ bồn hoa nào, bất cứ đâu có nước sạch, chúng sẽ đẻ trứng vào đó, và nếu chỗ nước sạch đó gần với nơi trung chuyển, gần với bến cảng, bất cứ đâu gần nơi vận chuyển. những quả trứng đó sẽ được vận chuyển đi khắp thế giới. và đó là chuyện đã xảy ra. Loài người đang vận chuyển những quả trứng ấy đi khắp thế giới, và những con côn trùng này đã càn quét qua hơn 100 quốc gia, và hiện nay có khoảng 2.5 tỉ người sống ở những quốc gia nơi có muỗi sinh sống.
To give you just a couple of examples how fast this has happened, in the mid-'70s, Brazil declared, "We have no Aedes aegypti," and currently they spend about a billion dollars now a year trying to get rid of it, trying to control it, just one species of mosquito. Two days ago, or yesterday, I can't remember which, I saw a Reuters report that said Madeira had had their first cases of dengue, about 52 cases, with about 400 probable cases. That's two days ago. Interestingly, Madeira first got the insect in 2005, and here we are, a few years later, first cases of dengue. So the one thing you'll find is that where the mosquito goes, dengue will follow. Once you've got the mosquito in your area, anyone coming into that area with dengue, mosquito will bite them, mosquito will bite somewhere else, somewhere else, somewhere else, and you'll get an epidemic.
Để tôi cho bạn vài ví dụ về độ phát tán nhanh chóng của chuyện này ở mức nào khoảng giữa thế kỉ 70, Brazil đã công bố "Chúng tôi không có bất kì con muỗi Aedes aegyptis nào" và hiện nay họ đang phải tiêu tốn khoảng 1 tỉ đô mỗi năm để cố gắng tiêu diệt những con muỗi, cố gắng kiểm soát chúng, chỉ với 1 loài muỗi. 2 ngày trước, hoặc là hôm qua, tôi cũng không nhớ rõ lắm, tôi thấy tở Reuters báo cáo là Madeira đã có những ca đầu tiên mắc bệnh sốt xuất huyết khoảng 52 ca, với khoảng 400 ca đang tròng vòng nghi vấn. đó là 2 ngày trước. thú vị thay, Madeira có côn trùng đầu tiên vào năm 2005, và bây giờ, vài năm sau, những ca đầu tiên của bệnh sốt xuất huyết. Vậy có một chuyện bạn thắc mắc là những con muỗi đi đâu, thì bệnh sốt xuất huyết theo đó. Một khi bạn có muỗi trong khu vực của minh, bất cứ ai vào khu vực đó với bệnh sốt xuất huyết, muỗi sẽ chích họ, muỗi sẽ chích ở một nơi nào khác, một nơi nào khác, một nơi nào khác nữa, và bạn có một trận dịch.
So we must be good at killing mosquitos. I mean, that can't be very difficult. Well, there's two principle ways. The first way is that you use larvicides. You use chemicals. You put them into water where they breed. Now in an urban environment, that's extraordinarily difficult. You've got to get your chemical into every puddle, every birdbath, every tree trunk. It's just not practical. The second way you can do it is actually trying to kill the insects as they fly around. This is a picture of fogging. Here what someone is doing is mixing up chemical in a smoke and basically spreading that through the environment. You could do the same with a space spray. This is really unpleasant stuff, and if it was any good, we wouldn't have this massive increase in mosquitos and we wouldn't have this massive increase in dengue fever. So it's not very effective, but it's probably the best thing we've got at the moment. Having said that, actually, your best form of protection and my best form of protection is a long-sleeve shirt and a little bit of DEET to go with it.
Vì thế chúng ta phải thật giỏi trong việc tiêu diệt muỗi. ý tôi là điều đó có thể rất khó. Nhưng có hai quy tắc căn bản. Cách thứ nhất là bạn sử dụng thuốc diệt lăng quăng. bạn dùng chất hóa học. Bạn pha vào nước nơi những con lăng quăng sông Hiện nay với môi trường thành thị, việc này càng trở nên khó khăn. bạn phải cho chất hóa học vào từng vũng nước, từng ụ nước, từng thân cây. Điều này thật không thực tế. Cách thứ hai bạn có thể sử dụng là cố giết những con muỗi khi chúng bay quanh. Đây quả thực là một bức tranh không mấy sáng sủa. Đây là cái mà một ai đó đang làm đó là trộn các chất hóa học trong khói và đơn giản là phun hỗn hợp đó vào môi trường. Bạn cũng có thể làm tương tự vời bình xịt. Đây thật sự là 1 việc khó chịu, và nếu có có tác dụng, chúng ta đã không có sự tăng mạnh về muỗi này và cũng không có sự tăng mạnh của bệnh sốt xuất huyết này. Vậy thì nó không hiệu quả lắm, những nó quả thực là thứ tốt nhất chúng ta có hiện nay. Quả thật phải nói rằng biện pháp bảo vệ tốt nhất của bạn và cả của tôi là một cái áo tay dài và có một chút hóa chất DEET lên đó.
So let's start again. Let's design a product, right from the word go, and decide what we want. Well we clearly need something that is effective at reducing the mosquito population. There's no point in just killing the odd mosquito here and there. We want something that gets that population right the way down so it can't get the disease transmission. Clearly the product you've got has got to be safe to humans. We are going to use it in and around humans. It has to be safe. We don't want to have a lasting impact on the environment. We don't want to do anything that you can't undo. Maybe a better product comes along in 20, 30 years. Fine. We don't want a lasting environmental impact. We want something that's relatively cheap, or cost-effective, because there's an awful lot of countries involved, and some of them are emerging markets, some of them emerging countries, low-income. And finally, you want something that's species-specific. You want to get rid of this mosquito that spreads dengue, but you don't really want to get all the other insects. Some are quite beneficial. Some are important to your ecosystem. This one's not. It's invaded you. But you don't want to get all of the insects. You just want to get this one. And most of the time, you'll find this insect lives in and around your home, so this -- whatever we do has got to get to that insect. It's got to get into people's houses, into the bedrooms, into the kitchens.
Vậy giờ chúng ta bắt đầu lại. Hãy cùng tạo ra một sản phẩm, ngay từ lúc bắt đầu, và quyết định cái chúng ta muốn. Rõ ràng chúng ta cần một thứ gì đó hiệu quả trong việc thu nhỏ dân số loài muỗi. Chẳng là gì cả nếu chỉ giết vài con muỗi lẻ ở đây đó. Chúng ta muốn một thứ gì đó có thể làm dân số loài muỗi giảm đáng kể để nó không thể truyền bệnh được. Đương nhiên sản phẩm bạn có phải an toàn với con người. Chúng ta dự định sẽ sử dụng nó trong và xung quanh con người. Nó phải an toàn. Chúng ta không muốn có bất cứ ảnh hưởng lâu dài nào lên môi trường. Chúng ta không muốn làm bất cứ thứ gì mà chúng ta không thể làm lại được. Có thể một sản phẩm tốt hơn sẽ xuất hiện trong vòng 20, 30 năm nữa. Tốt thôi. Chúng ta không muốn một ảnh hưởng xấu lâu dài nào lên môi trường. Chúng ta muốn một thứ gì đấy khá rẻ hoặc phải chăng bởi vì có rất rất nhiều quốc gia liên quan, và đa số các quốc gia là những thị trường đang phát triển, một vài quốc gia là nước đang phát triển, thu nhập thấp, Và cuối cùng, ban muốn thứ gi đó có tác động đến một loài cụ thể. Bạn muốn thoát khỏi những con muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết, nhưng bạn thật sự không muốn giết các loại côn trùng khác. Một số loài khá là có ích, một số loài quan trọng với hệ sinh thái. Loài muỗi thì không. Nó xâm lược bạn. Nhưng bạn không muốn giết tất cả các loại côn trùng khác. bạn chỉ muốn thoát khỏi loài này mà thôi. Và đa số thời gian bạn sẽ thấy những con muỗi này sống trong hay xung quanh nhà bạn, vậy thì - bất cứ thứ gì chúng ta làm phải nhất định tiêu diệt được chúng. Tôi đã vào nhà của nhiều người, vào phòng ngủ, nhà bếp,
Now there are two features of mosquito biology that really help us in this project, and that is, firstly, males don't bite. It's only the female mosquito that will actually bite you. The male can't bite you, won't bite you, doesn't have the mouth parts to bite you. It's just the female. And the second is a phenomenon that males are very, very good at finding females. If there's a male mosquito that you release, and if there's a female around, that male will find the female.
Hiện tại có hai đặc tính sinh học của loài muỗi giúp ích cho chúng tôi trong dự án này, và đó là, thứ nhất, những con đực thì không chích. Chỉ có muỗi cái là thật sự chích bạn. Những con đực không thể chích bạn, chúng sẽ không chích bạn, chúng không có phần cấu tạo miệng để chích. Chỉ có con cái. Và đặc tính thứ hai là một hiện tượng đó là những con đực thì rất rất giỏi trong việc tìm những con cái Nếu có một con đực bạn thả ra, và nếu có 1 con cái xung quanh, con đực sẽ tìm thấy nó.
So basically, we've used those two factors. So here's a typical situation, male meets female, lots of offspring. A single female will lay about up to 100 eggs at a time, up to about 500 in her lifetime. Now if that male is carrying a gene which causes the death of the offspring, then the offspring don't survive, and instead of having 500 mosquitos running around, you have none. And if you can put more, I'll call them sterile, that the offspring will actually die at different stages, but I'll call them sterile for now. If you put more sterile males out into the environment, then the females are more likely to find a sterile male than a fertile one, and you will bring that population down. So the males will go out, they'll look for females, they'll mate. If they mate successfully, then no offspring. If they don't find a female, then they'll die anyway. They only live a few days.
Cho nên cơ bản là chúng tôi đã sử dụng hai yếu tố đó. Đây là tình huống điển hình, con đực gặp con cái, với rất nhiều con non, Một con muỗi cái sẽ sinh ra khoảng gần 100 trứng một lần, khoảng 500 trứng trong một vòng sống của nó. Bây giờ nếu con đực mang gen gây ra cái chết cho những con non, vậy thì những con non sẽ không sống sót, và thay vì có khoảng 500 con muỗi bay vòng quanh, bạn sẽ chẳng thấy con nào. Và tôi sẽ gọi chúng là những con vô sinh, vì những con non sẽ thật sự chết ở những giai đoạn khác nhau, nhưng tôi sẽ gọi chúng là những con vô sinh từ bây giờ. Nếu bạn có thể thả thêm những con đực vô sinh vào môi trường, thì những con cái sẽ có nhiều khả năng tìm được một con đực vô sinh hơn là một con có thể sinh sản, và bạn sẽ có thể giảm số lượng muỗi xuống. Vậy những con muỗi đực sẽ ra ngoài, chúng sẽ tìm những con cái, chúng sẽ giao phối. Nếu chúng giao phối thành công, vậy thì sẽ không có con non nữa. Nếu chúng không tìm được những con cái, thì chúng cũng sẽchết. Chúng chỉ sống khoảng vài ngày.
And that's exactly where we are. So this is technology that was developed in Oxford University a few years ago. The company itself, Oxitec, we've been working for the last 10 years, very much on a sort of similar development pathway that you'd get with a pharmaceutical company. So about 10 years of internal evaluation, testing, to get this to a state where we think it's actually ready. And then we've gone out into the big outdoors, always with local community consent, always with the necessary permits. So we've done field trials now in the Cayman Islands, a small one in Malaysia, and two more now in Brazil.
và đó chính xác là cái chúng ta đang nói tới. Công nghệ này đã được phát triển ở Đại học Oxford vài năm trước. Có một công ty tên Oxitec, chúng tôi đã làm việc trong khoảng 10 năm qua, khá nhiều để phát triển 1 con đường tương tự mà bạn sẽ nhận được với một công ty dược phẩm. Vậy trong khoảng 10 năm đánh giá, kiểm tra để có thể đến giai đoạn mà chúng tôi nghĩ nó đã sẵn sàng. và sau đó chúng đã mang giải pháp ra ngoài, luôn luôn với quy mô cộng đồng địa phương, luôn luôn với sự cho phép cần thiết. Cho đến nay chúng tôi đã có những cuộc thử nghiệm ở những hòn đảo Cayman một hòn đảo nhỏ ở Malaysia, và hai hòn đảo nữa ở Brazil.
And what's the result? Well, the result has been very good. In about four months of release, we've brought that population of mosquitos — in most cases we're dealing with villages here of about 2,000, 3,000 people, that sort of size, starting small — we've taken that mosquito population down by about 85 percent in about four months. And in fact, the numbers after that get, those get very difficult to count, because there just aren't any left. So that's been what we've seen in Cayman, it's been what we've seen in Brazil in those trials.
Và kết quả là gì? Kết quả khá tốt, trong vòng 4 tháng từ ngày được áp dụng chúng tôi đã làm số lượng muỗi trong đa số trường hợp chúng tôi áp dụng cho những ngôi làng khoảng 2000, 3000 người, kích thước nhỏ như vậy thôi -- chúng tôi đã làm số lượng loài muỗi giảm khoảng 85% trong vòng 4 tháng. Và thực tế, những con số sau đó trở nên khó đếm hơn rất nhiều, vì chẳng còn con nào sống sót. Đó là những gì chúng tôi thấy ở Cayman, Đó cũng là thứ chúng tôi thấy ở Brazil, trong những cuộc thử nghiệm khác.
And now what we're doing is we're going through a process to scale up to a town of about 50,000, so we can see this work at big scale. And we've got a production unit in Oxford, or just south of Oxford, where we actually produce these mosquitos. We can produce them, in a space a bit more than this red carpet, I can produce about 20 million a week. We can transport them around the world. It's not very expensive, because it's a coffee cup -- something the size of a coffee cup will hold about three million eggs. So freight costs aren't our biggest problem. (Laughter) So we've got that. You could call it a mosquito factory. And for Brazil, where we've been doing some trials, the Brazilian government themselves have now built their own mosquito factory, far bigger than ours, and we'll use that for scaling up in Brazil.
Và hiện nay điều chúng tôi đang làm là thông qua 1 quá trình để có thể nhân rộng ứng dụng lên 1 thị trấn khoảng 50,000 người, để chúng tôi có thể quan sát nso hoạt động ở quy mô lớn. và chúng tôi có một đội phát triển ở OXford, hay chỉ ở nam Oxford, nơi chúng tôi thật sự sản xuất ra những con muỗi này. Chúng tôi có thể sản xuất ra chúng, trong không gian lớn hơn cái thảm đỏ này một chút, Tôi có thể sản xuất ra khoảng 20 triệu con một tuần. Chúng tôi có thể vận chuyển chúng khắp thế giới. Nó thật sự không tốn kém, bởi vì nó chỉ như một cốc cà-phê khoảng kích cỡ cốc ca-phê. có thể chứa khoảng 300 triệu trứng. Cho nên tiền đông lạnh không phải là vấn đề lớn nhất của chúng tôi. Vậy chúng . ban có thể gọi đó là nhà máy muỗi. Và đối với Brazil, nơi chúng tôi đã làm vài cuộc thử nghiệm, chính phủ Brazil đã tự mình xây dựng cho họ một nhà máy muỗi, to hơn nhiều cái của chúng tối, và chúng tôi sẽ sử dụng nó để ứng dụng giải pháp ở toàn Brazil.
There you are. We've sent mosquito eggs. We've separated the males from the females. The males have been put in little pots and the truck is going down the road and they are releasing males as they go. It's actually a little bit more precise than that. You want to release them so that you get good coverage of your area. So you take a Google Map, you divide it up, work out how far they can fly, and make sure you're releasing such that you get coverage of the area, and then you go back, and within a very short space of time, you're bringing that population right the way down.
Vậy đó. Chúng tôi gửi những trứng muỗi đi. Chúng tôi phân tách những con đực ra với con cái. Những con đực được cho vào những cái hồ nhỏ và những chiếc xe tải đang đi thẳng xuống những con đường và chúng sẽ phát tán những con đực khi chúng di chuyển. Nó thật sự chính xác hơn thế 1 chút. Bạnmuốn phát tán những con muỗi để chúng có thể bao phủ toàn bộ khu vực của bạn. Vì thế bạn lấy Google Map ra, bạn chia khu vực, tính toán xem những con muỗi sẽ bay xa đến đâu, và chắc chắn rằng bạn đang phát tán đúng số lượng đúng nơi ở khu vực, và bạn quay về. và trong vòng một khoảng thời gian, bạn sẽ thu nhỏ dân số muỗi.
We've also done this in agriculture. We've got several different species of agriculture coming along, and I'm hoping that soon we'll be able to get some funding together so we can get back and start looking at malaria.
Chúng tôi cũng đã làm thế trong nông nghiệp. Chúng ta có vài loài khác nhau trong nông nghiệp và tôi mong rằng sớm thôi, chúng ta có thể nhận được những quỹ hỗ trợ để chúng ta có thể quay lại và bắt đầu quan tâm đến sốt rét.
So that's where we stand at the moment, and I've just got a few final thoughts, which is that this is another way in which biology is now coming in to supplement chemistry in some of our societal advances in this area, and these biological approaches are coming in in very different forms, and when you think about genetic engineering, we've now got enzymes for industrial processing, enzymes, genetically engineered enzymes in food. We have G.M. crops, we have pharmaceuticals, we have new vaccines, all using roughly the same technology, but with very different outcomes. And I'm in favor, actually. Of course I am. I'm in favor of particularly where the older technologies don't work well or have become unacceptable. And although the techniques are similar, the outcomes are very, very different, and if you take our approach, for example, and you compare it to, say, G.M. crops, both techniques are trying to produce a massive benefit. Both have a side benefit, which is that we reduce pesticide use tremendously. But whereas a G.M. crop is trying to protect the plant, for example, and give it an advantage, what we're actually doing is taking the mosquito and giving it the biggest disadvantage it can possibly have, rendering it unable to reproduce effectively. So for the mosquito, it's a dead end.
Đây chính là nơi chúng ta đứng ở hiện tại, và tôi chỉ còn vài ý cuối cùng, chính là một cách khác mà trong đó sinh học đang trở thành trợ thủ cho hóa học trong một vài lợi ích xã hội và những giải pháp sinh học này đang phát triển với nhiều dạng khác nhau, và khi bạn nghĩ về tái cấu trúc gen, chúng ta nay đã có những enzym cho những quá trình công nghiệp, enzym, những enzym tái cấu trúc gene trong thức ăn. Chúng ta có ngô G.M, chúng ta có dược phẩm, chúng ta có những vaccin mới, tất cả đều sử dụng gần như cùng một công nghệ, nhưng với những kết quả khác nhau. Và tôi thật sự rất vui mừng, tất nhiên rồi. Tôi rất vui đặc biệt vì công nghệ cũ không hoạt động tốt hay không thật sự được chấp nhận. Và mặc dù những phương thức là giống nhau, những kết quả là rất khác nhau, và nếu bạn lấy giải pháp của chúng tôi, lấy ví dụ thế, và bạn so sánh nó với lương thực G.M, cả hai phương thức đều cố gắng tạo ra những lợi ích to lớn. Cả hai đều có những ưu điểm, đó là chúng ta cố gắng giảm thiểu đáng kể thuốc bảo vệ thực vật Nhưng tronng khi lương thực gene G.M cố gắng bảo vệ đất, ví dụ, và cho nó ưu điểm, cái chúng tôi thực sự làm là lấy những con muỗi và cho chúng một bất lợi lớn nhất chúng có thể có đó là làm cho chúng không còn khả năng sinh sản hiệu quả. Vì thế đối với loài muỗi, đó là điểm chết.
Thank you very much. (Applause)
Cám ơn rất nhiều (vỗ tay)