I opened a blind man's head. I didn't make him think or reflect -- I cracked his head open, literally. We were walking with him holding onto my shoulder, I miscalculated how much space there was between us, and I knocked him into a gate.
Tôi đã làm vỡ đầu một người đàn ông khiếm thị. Tôi không khiến anh ta ngẫm nghĩ -- Tôi đã làm vỡ đầu anh ta, theo nghĩa đen. Chúng tôi đi bộ cùng nhau, anh ấy thì đang níu vai tôi, tôi ước lượng nhầm về khoảng cách giữa hai chúng tôi, khiến anh ta đập đầu vào một chiếc cổng.
(Laughter)
(Cười)
Five stitches in his forehead. At that moment, I felt like the worst teacher in the world. I really didn't know how to apologize. Luckily, El Pulga is one of those people who takes things quite well. And to this day, he says that I was the coach who left the most important mark on his career.
Năm mũi khâu trên trán anh ta. Vào thời điểm đó, tôi cảm thấy mình là giáo viên tồi nhất thế giới. Tôi thực sự không biết phải xin lỗi thế nào. May mắn thay, El Pulga là kiểu người khá thoải mái. Và cho đến giờ, anh ấy nói rằng tôi là huấn luyện viên để lại dấu ấn quan trọng nhất trong sự nghiệp của anh.
(Laughter)
(Cười)
The truth is, when I started working at the institute for the blind, I was surprised by a lot of things. A lot of the things they did, I never imagined they could: they swam, did exercise, played cards. They drank mate, and could pour it without burning themselves in the process.
Sự thật là, khi tôi bắt đầu làm việc tại học viện cho người khiếm thị, tôi đã bất ngờ vì rất nhiều điều. Rất nhiều điều họ làm, tôi chưa bao giờ tưởng tượng được họ có thể làm được: họ bơi, luyện tập thể thao, chơi bài. uống trà yerba mate, và có thể rót nước nóng mà không tự làm bỏng. Nhưng khi tôi nhìn họ chơi bóng đá -- điều đó thật tuyệt vời.
But when I saw them playing soccer -- that was amazing. They had a dirt field, rusty goalposts and broken nets. The blind who attended the institute would play their games there, just like I did at a field near my house. But they played without being able to see. The ball made a sound so they could locate it. They had a guide behind the rival team's goal to know where to kick the ball. And they used eye masks. There were guys who could still see a little, and they wore eye masks so everyone was equal.
Họ có một sân đất, cầu môn hoen rỉ và lưới đã rách. Những người khiếm thị tham gia học viện sẽ chơi bóng ở đó, giống như việc tôi làm ở sân bóng gần nhà tôi. Nhưng họ chơi mà không có khả năng nhìn. Quả bóng tạo ra tiếng động để họ có thể định vị được. Họ có một người hướng dẫn đứng sau cầu môn đội đối thủ để biết được sẽ đá bóng vào đâu. Và họ dùng những tấm che mắt. Có một số người vẫn có thể nhìn thấy một chút, và họ đeo tấm che mắt để tất cả đều bình đẳng.
When I was more at ease with them, I asked for a mask myself. I put it on and tried to play. I had played soccer all my life. This is where it got even more amazing: within two seconds, I didn't know where I was standing. I had studied physical education because I loved high performance.
Khi tôi cảm thấy thoải mái hơn với họ, tôi đã xin một tấm che mắt cho mình, tôi đã đeo nó vào và thử chơi. Tôi đã chơi bóng đá cả đời mình. Đây là lúc nó trở nên tuyệt vời hơn: trong vòng hai giây, tôi không biết mình đang đứng đâu nữa. Tôi học ngành giáo dục thể chất vì tôi vô cùng thích thành tích cao.
I started working at the institute by chance. My other job was with the Argentinian National Rowing Team, and I felt that was my thing. Here, everything was twice as hard. I'll never forget the first day I did the warm-up with the team. I lined them up in front of me -- I used to do that with the rowing team -- and I said, "OK, everyone bend down," going like this. When I looked up, two guys were seated, three were lying down and others were squatting.
Tôi bắt đầu làm việc tại học viện là do tình cờ. Công việc khác của tôi là làm việc với Đội tuyển Chèo thuyền Quốc gia của Argentina, và tôi cảm thấy đó là việc tôi làm tốt. Ở đây, mọi thứ khó gấp đôi. Tôi sẽ không bao giờ quên ngày đầu tiên khi tôi khởi động với đội. Tôi xếp họ thành hàng trước mặt tôi -- tôi thường làm vậy với đội chèo thuyền, và tôi nói, "Được rồi, mọi người cúi xuống," giống thế này. Khi tôi ngẩng lên, hai người đang ngồi, ba người đang nằm và những người còn lại thì đang ngồi xổm.
(Laughter)
(Cười)
How could I do here the same things I was doing there? It took me a while. I started looking for tools to learn from them, from the teachers who worked with them. I learned I couldn't explain a play on a chalkboard like a coach does, but I could use a plastic tray and some bottle caps so they could follow me by way of touch. I also learned they could run on a track if I ran with them, holding a rope. So we started looking for volunteers to help us run with them.
Làm sao ở đây tôi có thể làm điều tương tự như đã làm ở đó? Tôi đã mất một thời gian. Tôi bắt đầu tìm kiếm các công cụ để học từ họ, từ những giáo viên đã làm việc với họ. Tôi học được rằng không thể giải thích một trận bóng trên bảng phấn như một huấn luyện viên làm. nhưng tôi có thể sử dụng một khay nhựa và một số nắp chai để họ có thể theo dõi được bằng cách sờ các vật. Tôi cũng học được rằng họ có thể chạy trên đường đua nếu tôi chạy cùng và nắm một sợi dây thừng. Vậy nên chúng tôi bắt đầu tìm kiếm tình nguyện viên để giúp chúng tôi chạy cùng họ.
I was enjoying it, and finding purpose and meaning in what we were doing. It was hard at first, it was uncomfortable, but I decided to overcome the discomfort. And there came a time when it became the most fascinating job I'd ever had.
Tôi rất thích làm điều đó, và tìm thấy mục đích và ý nghĩa trong những gì chúng tôi làm. Lúc đầu thì khá khó khăn, và bất tiện, nhưng tôi quyết định sẽ vượt qua sự bất tiện này. Và đã có thời gian, nó trở thành công việc lôi cuốn nhất tôi từng có.
I think that's when I wondered: Why couldn't we be a high-performance team as well? Of course, one thing was missing: I needed to find out what they wanted, the real protagonists of this story. Three hours of training, playing soccer on that field, were not going to be enough. We would have to train differently.
Tôi nghĩ đó là khi tôi băn khoăn: Sao chúng tôi không thể trở thành một đội cũng có thành tích cao? Đương nhiên, thiếu một thứ: Tôi cần phải tìm ra điều họ muốn, nhân vật chính thực sự của câu chuyện này. Ba tiếng huấn luyện, chơi bóng đá trên sân đó là không đủ. Chúng tôi phải luyện tập khác đi.
We started to train harder, and the results were great; they asked for more. I came to understand that they, too, wondered why they couldn't do high-performance. When we felt ready, we knocked at CENARD's door. CENARD is the National Center for High-Performance Sports here in Argentina. It was hard to get them to hear what we had to say. But it was considerably more difficult to get the other athletes training there to consider us their equals. In fact, they would let us use the field only when no other teams were using it. And we were known as "the blind ones." Not everyone knew exactly what we were doing there.
Chúng tôi bắt đầu luyện tập chăm chỉ hơn, và kết quả thật tuyệt vời; họ mong muốn được tập nhiều hơn. Tôi bắt đầu hiểu rằng họ cũng băn khoăn vì sao họ không thể có thành tích cao. Khi chúng tôi cảm thấy sẵn sàng, chúng tôi tới gõ cửa CENARD. CENARD là Trung tâm Thể thao Thành tích cao Quốc gia ở đây tại Argentina. Việc khiến họ lắng nghe những gì chúng tôi cần nói khá khó khăn. Nhưng việc còn khó khăn hơn rất nhiều là khiến các vận động viên khác luyện tập ở đó có sự coi trọng công bằng với chúng tôi. Trên thực tế, họ cho chúng tôi dùng sân tập chỉ khi không có đội nào đang sử dụng. Và chúng tôi được biết đến với cái tên "những người khiếm thị." Không phải ai cũng biết thực sự chúng tôi đang làm gì ở đó.
The 2006 World Championship was a turning point in the team's history. It was held in Buenos Aires for the first time. It was our chance to show everyone what we had been doing all that time. We made it to the finals. We were growing as a team.
Giải Vô địch Thế giới 2006 là bước ngoặt trong lịch sử đội bóng của chúng tôi. Lần đầu tiên nó được tổ chức tại Buenos Aires. Đó là cơ hội để chúng tôi cho mọi người thấy rằng chúng tôi đã và đang làm gì trong suốt thời gian qua. Chúng tôi đã tới được vòng chung kết Chúng tôi đã phát triển với tư cách là một đội.
It was us against Brazil in the finals. They were the best team in the tournament. They won every game by a landslide. Hardly anyone believed we could win that game. Hardly anyone -- except for us.
Chúng tôi đã đấu với đội Brazil trong trận chung kết. Họ là đội giỏi nhất của giải. Họ thắng áp đảo ở mọi trận đấu. Hầu như không ai tin rằng chúng tôi có thể thắng trận đấu. Hầu như không ai cả -- ngoại trừ chúng tôi.
During pre-game meetings, in the locker room, during each warm-up, it smelled of victory. I swear that smell exists. I smelled it several times with the team, but I remember it in particular, the day before we played that final. The Argentine Football Association had opened their doors to us.
Vào các cuộc họp trước trận, trong phòng thay đồ, mỗi lần khởi động, đều có mùi của chiến thắng. Tôi thề là mùi đó có tồn tại. Tôi cảm nhận thấy mùi đó vài lần cùng với đội, nhưng đặc biệt tôi nhớ rõ nó vào cái ngày trước khi chúng tôi thi đấu trận chung kết đó. Liên hiệp Bóng đá Argentina đã mở ra cơ hội cho chúng tôi.
We were training at AFA, where Verón, Higuain and Messi trained. For the first time ever, we felt like a true national team. At 7:30pm, the day before the game, we were in the lounge discussing strategy, and a waiter knocks on the door, interrupting our conversation. He suggested we go to church. He came to invite us to church. I tried to get rid of him, saying it wasn't a good time, that we better leave it for another day. He kept insisting, asking me to please let him take the guys to church, because that day, a pastor who performed miracles would be there.
Chúng tôi đã được luyện tập tại AFA, nơi Verón, Higuain và Messi luyện tập. Lần đầu tiên, chúng tôi cảm thấy như một đội tuyển quốc gia đích thực Vào 7:30 sáng của ngày trước trận đấu chúng tôi đang thảo luận chiến lược trong phòng khách, thì một chàng trai trẻ tới gõ cửa, gián đoạn cuộc thảo luận của chúng tôi, Cậu ta đề nghị chúng tôi tới nhà thờ, cậu ta đến mời chúng tôi tới nhà thờ. Tôi cố đuổi cậu ta đi, tôi nói đây là không phải là thời điểm thích hợp, và sẽ tốt hơn nếu chúng tôi tới đó vào một ngày khác. Cậu ta cứ khăng khăng mong tôi cho cậu đưa những người trong đội tới nhà thờ, vì vào ngày đó, có một mục sư tạo ra những điều kỳ diệu sẽ ở đó.
I was slightly afraid to ask what type of miracles he meant, and he replied nonchalantly, "Coach, let me take the team to the church, and when we return, I guarantee that half of them will be able to see."
Tôi hơi sợ khi hỏi về kiểu điều kỳ diệu mà cậu ta nói tới, và cậu ta trả lời nhẹ như không, "Huấn luyện viên à, hãy để tôi đưa đội tới nhà thờ, và khi chúng tôi trở lại, tôi đảm bảo một nửa trong số họ sẽ có thể nhìn thấy được."
(Laughter)
(Cười)
Some of the guys laughed, but imagine being a blind person and someone says that to you. I didn't know what to say. I said nothing; it was an awkward silence. I didn't want to make him feel bad, because he truly believed this could happen.
Một số chàng trai trong đội bật cười, nhưng thử tưởng tượng mình là một người khiếm thị và có ai đó nói điều đó với bạn. Tôi không biết phải nói gì. Tôi đã không nói gì cả; tạo ra không khí yên lặng đến khó xử. Tôi không muốn cậu ta cảm thấy tệ, vì cậu thực sự tin điều này có thể sẽ xảy ra.
One of the players saved me, when he stood up and confidently said, "Juan," -- that was the kid's name -- Gonza already told you it's not the best time to go to church. Besides, let me make this clear: if we go to that church, and I end up being able to see when we return, I will beat you so hard if I can't play tomorrow."
Một cầu thủ đã chữa cháy cho tôi, khi anh ấy đứng lên và tự tin nói, "Juan à," -- đó là tên chàng trai đó -- Gonza đã nói với cậu rồi, đây không phải là lúc thích hợp để tới nhà thờ. Thêm nữa, hãy làm rõ điều này nhé: nếu chúng tôi tới nhà thờ, và tôi có thể nhìn thấy được khi trở lại, tôi sẽ đánh cậu rất đau nếu tôi không thể thi đấu vào ngày mai."
(Laughter)
(Cười)
(Applause)
(Vỗ tay)
Juan left, laughing in resignation, and we continued with our pregame talk. That night when I went to sleep, I began to dream about the next day's game, imagining what could happen, how we would play. And that's when I noticed that smell of victory I mentioned a while ago. And it's because at that moment, I thought: if the other players had the same desire as Diego going into the game, it was impossible for us not to win.
Juan rời đi và cười lớn từ bỏ ý định, và chúng tôi tiếp tục với cuộc nói chuyện trước trận đấu. Tối hôm đó khi tôi đi ngủ. Tôi bắt đầu mơ về trận đấu ngày hôm sau, tưởng tượng điều gì có thể sẽ xảy ra, chúng tôi sẽ chơi thế nào. Và đó là khi tôi chú ý thấy mùi vị chiến thắng mà tôi đã nhắc tới trước đây. Và đó là vì sao vào thời điểm đó, tôi đã nghĩ nếu những cầu thủ khác có cùng khao khát như Diego khi bước chân vào trận đấu, việc chúng tôi không chiến thắng là không thể.
The next day was going to be wonderful. We got up at 9am, the game was at 7pm, and we were already eager to play. We left AFA, and the bus was full of flags that people had given to us. We were talking about the game, and we could hear people honking and cheering, "Go Murciélagos! Today's the day! The final challenge!"
Ngày tiếp theo sẽ rất tuyệt vời. Chúng tôi thức dậy vào lúc 9 giờ sáng, trận đấu diễn ra vào lúc 7 giờ tối, và chúng tôi đã rất háo hứng để nhập cuộc. Chúng tôi rời AFA, và chiếc xe buýt tràn ngập cờ mọi người tặng chúng tôi. Chúng tôi nói về trận đấu, và chúng tôi có thể nghe thấy mọi người bấm còi và cổ vũ, "Cố lên Murciélagos! Hôm nay chính là ngày quan trọng! Thử thách cuối cùng!"
The guys asked me, "Do they know us? Do they know we're playing?" Some people followed the bus to CENARD. We arrived and found an amazing scene. In the corridor leading from the locker room to the game field, I was walking with Silvio, who was holding onto my shoulder, so I could guide him. Fortunately, there were no gates along the way.
Các chàng trai hỏi tôi, "Họ có biết chúng ta không? Họ có biết chúng ta sẽ thi đấu không?" Một số người còn theo xe đi tới CENARD. Chúng tôi tới nơi và thấy một cảnh tượng tuyệt vời Trên hành lang từ phòng thay đồ dẫn tới sân thi đấu tôi đi cạnh Silvo, người đang níu vai tôi để tôi có thể dẫn anh đi. May mắn thay, không có chiếc cổng nào trên đường đi cả.
(Laughter)
(Cười)
When we reached the field, he asked me about everything. He didn't want to miss a single detail. He said, "Tell me what you see, tell me who's playing the drums."
Khi chúng tôi tới sân đấu, anh hỏi tôi về mọi thứ. Anh ấy không muốn bỏ lỡ bất cứ chi tiết nào. Anh nói, "Hãy kể tôi nghe về những gì anh thấy, nói tôi biết ai đang chơi trống."
I tried to explain what was happening with as much detail as possible. I told him, "The stands are packed, a lot of people couldn't get in, there are blue and white balloons all over the field, they're opening a giant Argentine flag that covers the entire grandstand."
Tôi cố gắng giải thích những gì đang diễn ra với nhiều chi tiết nhất có thể. Tôi kể với anh, "Khán đài chật kín người, rất nhiều người không thể vào được có bóng bay xanh và trắng khắp trên sân đấu họ đang căng một lá cờ Argentina khổng lồ che phủ toàn bộ khán đài chính."
Suddenly, he cuts me off and says, "Do you see a flag that says 'San Pedro'?" That's the city where he lives. I started looking into the stands and I spotted a little white flag with lettering done in black spray paint, that read: "Silvio, your family and all of San Pedro are here."
Đột nhiên, anh ngắt lời tôi và hỏi, "Anh có nhìn thấy lá cờ có chữ 'San Pedro' không?" Đó là thành phố nơi anh sống. Tôi bắt đầu nhìn lên khán đài và trông thấy một lá cờ trắng nhỏ có dòng chữ phun sơn đen: "Silvio ơi, gia đình cậu và toàn bộ San Pedro đang ở đây."
I told him that and he replied, "That's my mom, tell me where she is, I want to I wave at her." I pointed him toward the flag and showed him with his arm where they were sitting, and he waved his arms in that direction. About 20 or 30 people stood up and gave him an ovation. When that happened, I saw how his face changed, how moved he was. It was moving for me, too; two seconds later, I had a lump in my throat. It was strange -- I felt both the excitement of what was happening, and the anger and the anguish that he could not see it.
Tôi cho anh biết và anh đáp lời, "Đó là mẹ tôi đấy, hãy nói tôi biết bà ở đâu, tôi muốn vẫy tay chào bà." Tôi chỉ anh ấy về phía lá cờ và đưa tay anh hướng về nơi họ đang ngồi và anh vẫy cánh tay về hướng đó. Khoảng 20 tới 30 người đứng dậy và vỗ tay cho anh. Và khi điều đó diễn ra, tôi thấy được gương mặt anh thay đổi thế nào, và anh ấy cảm động ra sao. Tôi cũng thấy thật cảm động, hai giây sau, cổ họng tôi nghẹn lại. Điều đó thật kỳ lạ -- Tôi cảm thấy vừa phấn khích vì điều đang diễn ra, vừa tức giận và đau đớn vì anh không thể thấy được những điều này.
A few days later when I told him what I had experienced, he tried to reassure me, saying, "Gonza, don't feel bad, I could see them. Differently, but I swear to you that I saw them all."
Một vài ngày sau, khi tôi kể anh nghe về cảm xúc tôi đã trải qua, anh ấy cố gắng trấn an tôi, anh nói, "Gonza, đừng cảm thấy tệ, tôi đã có thể thấy họ, theo một cách khác, nhưng tôi thề với anh là tôi đã thấy tất cả họ."
The game started. We could not fail; it was the final. The audience was quiet, like here, because in soccer for the blind, the public has to be quiet so the players can hear the ball. They're only allowed to cheer when the game is over.
Trận đấu bắt đầu. Chúng tôi đã không thất bại; đó là trận chung kết. Khán giả đã rất im lặng, giống như ở đây, vì trong môn bóng đá cho người khiếm thị, mọi người đều phải giữ trật tự để các cầu thủ có thể nghe thấy trái bóng. Họ chỉ được phép cổ vũ khi trận đấu đã kết thúc.
And when there were eight minutes to go, the crowd did all the cheering they hadn't done in the first 32 minutes. When pigeon-toed Silvio nailed the ball at an angle, they cheered with all their heart, in an incredible way.
Và 8 phút trước khi trận đấu kết thúc đám đông đã cổ vũ rất lớn, việc họ đã không làm trong 32 phút đầu. Khi Silvio, người có ngón chân quặp, đã đá được bóng theo góc, họ đã cổ vũ hết mình một cách đáng kinh ngạc.
Today, if you go to CENARD, you'll see a huge poster on the door, with a photo of our team, Los Murciélagos. They're a model national team, everyone in CENARD knows who they are, and after having won two World Championships and two Paralympic medals, no one doubts they are high-performance athletes.
Giờ đây, nếu bạn tới CENARD, bạn sẽ thấy một tấm áp phích lớn trên cửa, có hình đội bóng của chúng tôi, Los Murciélagos. Họ là một hình mẫu đội tuyển quốc gia, ai trong CENARD cũng biết họ là ai, và sau khi giành chiến thắng tại hai Giải Vô Địch Thế Giới và hai huy chương Paralympic. không một ai hoài nghi về việc họ là những vận động viên có thành tích cao.
(Applause)
(Vỗ tay)
(Applause ends)
I was lucky to train this team for 10 years, first as a trainer and later as their coach. I feel that they've given me much more than what I've given them.
Tôi đã rất may mắn được huấn luyện đội bóng này trong 10 năm, đầu tiên là một người hướng dẫn và sau đó là huấn luyện viên của họ. Tôi cảm thấy họ đã cho tôi nhiều hơn nhiều so với những gì tôi đã đem lại cho họ.
Last year, they asked me to coach another national team, Power Soccer. It's a national team of young men who play soccer in wheelchairs. They use motorized wheelchairs that they drive with a joystick, because they don't have enough strength in their arms to use conventional chairs. They added a bumper to the chair, a safeguard that protects their feet, while allowing them to kick the ball. It's the first time that, instead of being the spectators, they're now the main characters. It's the first time their parents, friends and siblings can see them play.
Năm ngoái, họ đề xuất tôi huấn luyện một đội tuyển quốc gia khác, Powerchair Fútbol. Đó là đội tuyển quốc gia gồm những chàng trai trẻ ngồi xe lăn chơi bóng đá. Họ sử dụng xe lăn có gắn động cơ và dùng cần điều khiển để lái, vì cánh tay họ không đủ mạnh để sử dụng các xe lăn truyền thống. Họ đã thêm một cái hãm xung vào xe, là bộ phận an toàn bảo vệ chân cho họ, trong khi cho phép họ đá được bóng. Đó là lần đầu tiên mà, thay vì là người xem, họ giờ đây là những nhân vật chính. Đó là lần đầu tiên cha mẹ, bạn bè và anh em họ có thể xem họ chơi.
For me, it's a new challenge, with the same discomfort, insecurity, and fear I had when I started working with the blind. But I approach it all from a more experienced position. That's why from day one, I treat them as athletes on the field, and off the field, I try to put myself in their shoes and behave without prejudice, because treating them naturally feels best to them.
Đối với tôi, đó là một thử thách, với sự bất tiện, bất an, và nỗi lo tương tự tôi đã có khi bắt đầu làm việc với những người khiếm thị. Nhưng giờ tôi có thể tiếp cận tất cả từ một vị trí kinh nghiệm hơn. Đó là lý do vì sao từ ngày đầu tiên, tôi đã coi họ là những vận động viên trên sân bóng, và ở ngoài sân, tôi cố gắng đặt mình vào vị trí của họ và không mang trong mình định kiến, vì việc đối xử với họ thật tự nhiên sẽ khiến họ cảm thấy tốt nhất.
Both teams play soccer; something once unthinkable for them. They had to adapt the rules to do so. And both teams broke the same rule -- the one that said they couldn't play soccer.
Cả hai đội đều chơi bóng đá; thứ từng là không thể dành cho họ. Họ đã phải thích ứng với các quy tắc để làm việc này, phải không? Và cả hai đội đã phá bỏ một quy tắc giống nhau -- quy tắc cho rằng họ không thể chơi bóng đá.
When you see them play, you see competition, not disability. The problem starts when the game is over, and they leave the field. Then they step in to play our game, in a society whose rules don't really take them into account or care for them.
Khi quan sát họ chơi bóng, bạn không thấy sự khuyết tật, mà thấy sự cạnh tranh. Vấn đề bắt đầu xảy ra khi trận đấu đã kết thúc, và họ rời sân đấu, rồi họ bước vào chơi trò chơi của chúng ta, trong một xã hội có những quy tắc mà không thực sự nhìn nhận họ hay quan tâm đến họ.
I learned from sports that disability greatly depends on the rules of the game. I believe that if we change some of the rules of our game, we can make life a little easier for them.
Tôi học được từ thể thao rằng sự khuyết tật phụ thuộc chủ yếu vào những quy tắc của trò chơi. Tôi tin nếu ta thay đổi một số quy tắc trong trò chơi của ta, ta có thể giúp cuộc sống trở nên dễ dàng hơn cho họ.
We all know there are people with disabilities; we see them daily. But by having no direct contact with them, we're not aware of the problems they face every day, like how hard it is for them to get on a bus, find a job, take the subway or cross the street.
Chúng ta đều biết có những người khuyết tật, ta thấy họ hàng ngày. Nhưng có lẽ qua việc không tiếp xúc trực tiếp với họ, chúng ta không nhận thức được những vấn đề họ đối mặt mỗi ngày, ví dụ như việc lên xe buýt, tìm một công việc, xuống tàu điện ngầm, hay băng qua đường khó khăn thế nào với họ.
It's true that there is an increasing social responsibility regarding the inclusion of people with disabilities. But I think it's still not enough. I think change needs to come from every one of us. First, by leaving behind our indifference toward the disabled, and then by respecting the rules that do take them into account. They are few, but they do exist.
Có một sự thật là trách nhiệm xã hội ngày càng lớn trong việc gắn kết sự tham gia của những người khuyết tật. Nhưng tôi nghĩ thế vẫn chưa đủ. Tôi nghĩ rằng thay đổi cần đến từ tất cả chúng ta. Trước hết, bằng cách bỏ đi thái độ thờ ơ của ta với người khuyết tật, và rồi bằng việc tôn trọng những quy tắc có cân nhắc tới họ. Chỉ có một số quy tắc thôi, nhưng chúng có tồn tại.
I cracked a blind man's head open -- El Pulga's head. I can assure you these two teams opened mine as well. They taught me that above all, you have to get out there and play every game in this beautiful tournament that we call life.
Tôi đã làm vỡ đầu một người khiếm thị -- El Pulga. (Làm vỡ đầu: Thành ngữ chỉ sự mở mang đầu óc) Tôi có thể đảm bảo với bạn rằng hai đội bóng này cũng đã khiến tôi mở mang đầu óc. Họ dạy tôi rằng vượt trên tất cả, bạn cần phải va chạm vào cuộc sống và chơi mọi trận đấu trong giải đấu tuyệt đẹp này mà chúng ta gọi là cuộc đời.
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)