There is an entire genre of YouTube videos devoted to an experience which I am certain that everyone in this room has had. It entails an individual who, thinking they're alone, engages in some expressive behavior — wild singing, gyrating dancing, some mild sexual activity — only to discover that, in fact, they are not alone, that there is a person watching and lurking, the discovery of which causes them to immediately cease what they were doing in horror. The sense of shame and humiliation in their face is palpable. It's the sense of, "This is something I'm willing to do only if no one else is watching."
Có cả một thể loại video trên YouTube liên quan đến một trải nghiệm mà tôi chắc mọi người ở đây đã từng có. Đó là về những người nghĩ họ đơn độc, tham gia vào một số hành vi phô trương - ca hát, nhảy múa điên dại, hay một vài hành động gợi tình - sau đó nhận ra, thực ra họ không đơn độc, mà có ai đó đang quan sát và do thám họ, Phát hiện này làm họ ngay lập tức dừng việc đang làm trong sợ hãi. Cảm giác xấu hổ và bị sỉ nhục hiện rõ ràng trên gương mặt họ. Lý do là, "Có những thứ tôi sẵn sàng làm khi không bị ai theo dõi."
This is the crux of the work on which I have been singularly focused for the last 16 months, the question of why privacy matters, a question that has arisen in the context of a global debate, enabled by the revelations of Edward Snowden that the United States and its partners, unbeknownst to the entire world, has converted the Internet, once heralded as an unprecedented tool of liberation and democratization, into an unprecedented zone of mass, indiscriminate surveillance.
Đây là điểm then chốt của công việc mà tôi đang tập trung vào trong suốt 16 tháng qua, câu hỏi liên quan đến vấn đề riêng tư, một câu hỏi đã được nêu lên trong bối cảnh của một thảo luận toàn cầu, được bắt đầu bằng việc tiết lộ của Edward Snowden rằng nước Mỹ và các nước đồng minh, cả thế giới không hề biết, họ đã biến Internet, một thời được xem là công cụ của tự do và dân chủ, thành một hệ thống giám sát khổng lồ và không khoan nhượng.
There is a very common sentiment that arises in this debate, even among people who are uncomfortable with mass surveillance, which says that there is no real harm that comes from this large-scale invasion because only people who are engaged in bad acts have a reason to want to hide and to care about their privacy. This worldview is implicitly grounded in the proposition that there are two kinds of people in the world, good people and bad people. Bad people are those who plot terrorist attacks or who engage in violent criminality and therefore have reasons to want to hide what they're doing, have reasons to care about their privacy. But by contrast, good people are people who go to work, come home, raise their children, watch television. They use the Internet not to plot bombing attacks but to read the news or exchange recipes or to plan their kids' Little League games, and those people are doing nothing wrong and therefore have nothing to hide and no reason to fear the government monitoring them.
Có một tâm lý chung trong cuộc tranh luận này, thậm chí cả giữa những người phản đối giám sát đại chúng, họ nói rằng, thật ra cũng không có hại gì nếu giám sát toàn diện như vậy bởi vì chỉ có những người làm việc xấu mới muốn giấu diếm và quan tâm đến sự riêng tư mà thôi. Quan điểm này căn cứ vào giả định rằng trên thế giới có 2 loại người, người tốt và người xấu. Người xấu là người có âm mưu tấn công khủng bố hoặc tội phạm bạo lực nên mong muốn giấu diếm điều họ đang làm, và muốn bảo vệ sự riêng tư của họ. Nhưng ngược lại, người tốt là những người đi làm, về nhà, chăm sóc con cái, xem tivi. Họ dùng Internet không phải để âm mưu đánh bom mà là để xem tin tức hay trao đổi công thức nấu ăn hoặc để cho con cái họ chơi trò Little League, và những người này không làm gì sai nên chẳng có gì đểi giấu diếm và cũng có lý do gì để sợ việc chính phủ muốn giám sát họ.
The people who are actually saying that are engaged in a very extreme act of self-deprecation. What they're really saying is, "I have agreed to make myself such a harmless and unthreatening and uninteresting person that I actually don't fear having the government know what it is that I'm doing." This mindset has found what I think is its purest expression in a 2009 interview with the longtime CEO of Google, Eric Schmidt, who, when asked about all the different ways his company is causing invasions of privacy for hundreds of millions of people around the world, said this: He said, "If you're doing something that you don't want other people to know, maybe you shouldn't be doing it in the first place."
Những người nói như vậy thật sự lại tự đưa mình vào một hành động cực đoan chống lại chính bản thân họ. Điều mà họ thực sự muốn nói là, "Tôi để cho bản thân thành một người vô hại, không đe doạ ại và không đáng để ý, mà tôi không hề sợ chính phủ biết tôi đang làm gì." Cách nghĩ này tạo nên điều mà tôi cho là là một dạng biểu cảm thuần tuý nhất. Trong buổi phỏng vấn năm 2009 với CEO lâu năm của Google, Eric Schmidt, người mà khi được hỏi về việc bằng nhiều cách khác nhau công ty anh ấy đã liên quan tới việc xâm phạm quyền riêng tư của hàng triệu người trên thế giới, Ông đã trả lời rằng: "Nếu bạn đang làm gì mà không muốn người khác biết, thì có lẽ ngay từ đầu bạn không nên làm thì hơn."
Now, there's all kinds of things to say about that mentality, the first of which is that the people who say that, who say that privacy isn't really important, they don't actually believe it, and the way you know that they don't actually believe it is that while they say with their words that privacy doesn't matter, with their actions, they take all kinds of steps to safeguard their privacy. They put passwords on their email and their social media accounts, they put locks on their bedroom and bathroom doors, all steps designed to prevent other people from entering what they consider their private realm and knowing what it is that they don't want other people to know. The very same Eric Schmidt, the CEO of Google, ordered his employees at Google to cease speaking with the online Internet magazine CNET after CNET published an article full of personal, private information about Eric Schmidt, which it obtained exclusively through Google searches and using other Google products. (Laughter) This same division can be seen with the CEO of Facebook, Mark Zuckerberg, who in an infamous interview in 2010 pronounced that privacy is no longer a "social norm." Last year, Mark Zuckerberg and his new wife purchased not only their own house but also all four adjacent houses in Palo Alto for a total of 30 million dollars in order to ensure that they enjoyed a zone of privacy that prevented other people from monitoring what they do in their personal lives.
Giờ đây, có rất nhiều điều để giải thích về tâm trạng đó, thứ nhất là, những người mà họ nói rằng, họ cho rằng quyền riêng tư không thật sự quan trọng, họ không thật sự nghĩ như thế, và cách mà chúng ta biết được họ không thật sự nghĩ thế là vì khi họ nói sự riêng tư không quan trọng, đối với cách hành động của họ, thì họ lại tìm mọi cách để bảo vệ sự riêng tư của họ. Họ đặt mật mã cho email và cho các tài khoản mạng xã hội, họ khóa cửa phòng ngủ và phòng tắm, làm mọi cách để ngăn cản người khác tiến vào khu vực họ xem là riêng tư và biết được điều mà họ không muốn người khác biết. Cũng chính Eric Schmidt, CEO của Google, đã yêu nhân viên Google của ông dừng trao đổi với với tạp chí mạng CNET sau khi CNET đăng bài báo với những thông tin cá nhân, riêng tư của Eric Schmidt, mà chúng đều được thu thập chỉ từ hệ thống tìm kiếm của Google và những sản phẩm Google khác. (Cười) Một ví dụ khác có thể kể đến là CEO của Facebook, Mark Zuckerberg, trong cuộc phỏng vấn đáng xấu hổ năm 2010 đã tuyên bố rằng sự riêng tư đã không còn là một "chuẩn mực xã hội" nữa. Năm ngoái, Mark Zuckerberg và vợ mới cưới không chỉ mua một căn nhà để ở mà còn mua luôn cả 4 căn nhà liền kề ở Palo Alto tổng cộng hết 30 triệu đô la chỉ để bảo đảm họ có khu vực riêng tư qua đó không cho người khác theo dõi nhưng việc họ làm trong đời tư của họ.
Over the last 16 months, as I've debated this issue around the world, every single time somebody has said to me, "I don't really worry about invasions of privacy because I don't have anything to hide." I always say the same thing to them. I get out a pen, I write down my email address. I say, "Here's my email address. What I want you to do when you get home is email me the passwords to all of your email accounts, not just the nice, respectable work one in your name, but all of them, because I want to be able to just troll through what it is you're doing online, read what I want to read and publish whatever I find interesting. After all, if you're not a bad person, if you're doing nothing wrong, you should have nothing to hide."
16 tháng vừa qua, tôi đi đã thảo luận về vấn đề này tại nhiều nơi trên thế giới, mỗi khi có ai nói với tôi, "Tôi không mấy quan tâm đến việc xâm phạm quyền riêng tư vì tôi không có gì phải che giấu cả." Tôi luôn nói với họ như thế này. Tôi lấy 1 cây bút ra, viết địa chỉ email của mình, rồi nói, "Đây là địa chỉ email của tôi. Tôi muốn bạn về nhà gửi cho tôi toàn bộ mật mã của các tài khoản email của bạn, không chỉ email công việc, mà là toàn bộ, bởi vì tôi muốn biết hết mọi hoạt động trên mạng của bạn, đọc hết những thứ tôi muốn và công bố hết những thứ tôi thấy thích. Dù sao đi nữa, nếu bạn không phải người xấu, không làm gì sai, thì bạn không nên che giấu gì cả."
Not a single person has taken me up on that offer. I check and — (Applause) I check that email account religiously all the time. It's a very desolate place. And there's a reason for that, which is that we as human beings, even those of us who in words disclaim the importance of our own privacy, instinctively understand the profound importance of it. It is true that as human beings, we're social animals, which means we have a need for other people to know what we're doing and saying and thinking, which is why we voluntarily publish information about ourselves online. But equally essential to what it means to be a free and fulfilled human being is to have a place that we can go and be free of the judgmental eyes of other people. There's a reason why we seek that out, and our reason is that all of us — not just terrorists and criminals, all of us — have things to hide. There are all sorts of things that we do and think that we're willing to tell our physician or our lawyer or our psychologist or our spouse or our best friend that we would be mortified for the rest of the world to learn. We make judgments every single day about the kinds of things that we say and think and do that we're willing to have other people know, and the kinds of things that we say and think and do that we don't want anyone else to know about. People can very easily in words claim that they don't value their privacy, but their actions negate the authenticity of that belief.
Vậy mà chưa có ai làm điều đó với tôi cả. Tôi kiểm tra - (Vỗ tay) Tôi kiểm tra email của tôi liên tục. Hộp thư hoàn toàn trống rỗng. Và có lý do đối với điều đó, là vì chúng ta là con người, cho dù chúng ta nói ngoài miệng không xem trọng sự riêng tư, nhưng theo bản năng chúng ta luôn nhìn nhận tầm quan trọng sâu xa của nó. Thực tế là con người, chúng ta là động vật xã hội, có nghĩa là chúng ta có nhu cầu cho người khác biết chúng ta đang làm gì, nói gì, nghĩ gì, đó cũng là nguyên nhân chúng ta muốn đưa thông tin của mình lên mạng. Nhưng khá quan trọng liên quan đến ý nghĩa về con người tự do và trọn vẹn là có một nơi mà chúng ta có thể tới để tránh sự nhòm nghó và phán xét của người khác. Đó là lý do vì sao chúng ta tìm kiếm điều đó, và lý do đó là, tất cả chúng ta - không chỉ phần tử khủng bố và tội phạm, mà tất cả chúng ta - đều có những thứ cần phải che giấu. Có rất nhiều thứ chúng ta nghĩ và làm mà chúng ta sẵn sàng kể với bác sĩ , luật sư, bác sĩ tâm lý, hoặc vợ/chồng chúng ta hoặc bạn thân của chúng ta như sẽ thấy xấu hổ nếu phải nói ra bên ngoài. Chúng ta suy xét từng ngày về những thứ chúng ta nói, nghĩ hay làm mà có thể cho người khác biết, và những thứ chúng ta nói, nghĩ hay làm mà không muốn cho bất cứ ai biết. Mọi người có thể dễ dàng nói ngoài miệng rằng họ không quan tâm đến sự riêng tư, nhưng hành động của họ lại phủ nhận điều họ nói.
Now, there's a reason why privacy is so craved universally and instinctively. It isn't just a reflexive movement like breathing air or drinking water. The reason is that when we're in a state where we can be monitored, where we can be watched, our behavior changes dramatically. The range of behavioral options that we consider when we think we're being watched severely reduce. This is just a fact of human nature that has been recognized in social science and in literature and in religion and in virtually every field of discipline. There are dozens of psychological studies that prove that when somebody knows that they might be watched, the behavior they engage in is vastly more conformist and compliant. Human shame is a very powerful motivator, as is the desire to avoid it, and that's the reason why people, when they're in a state of being watched, make decisions not that are the byproduct of their own agency but that are about the expectations that others have of them or the mandates of societal orthodoxy.
Giờ đây, đó là lý do vì sao sự riêng tư luôn được đòi hỏi một cách tự nhiên và rộng rãi. Nó không chỉ là một hoạt đông theo phản xạ như hít thở hay uống nước. Lý do là khi chúng ta trong một tình huống mà ở đó chúng ta bị theo dõi, mà ở đó chúng ta bị nhòm ngó, hành vi của chúng ta sẽ thay đổi đột ngột. Phạm vi biểu cảm khi mà chúng ta cho rằng chúng ta bị theo dõi giảm đi đáng kể. Điều này là một thực tế về bản chất con người mà đã được nhìn nhận trong khoa học xã hội, trong văn học và tôn giáo, và trong các lĩnh vực khác. Có rất nhiều các nghiên cứu tâm lý chứng minh rằng khi một ai đó biết rằng khi họ bị theo dõi, thái độ mà họ thể hiện trở nên tuân thủ và chấp hành hơn rất nhiều. Sự hổ thẹn của con người là một động lực mạnh mẽ, cũng như ước muốn tránh không bị hổ thẹn, và đó là nguyên nhân tại sao, khi bị theo dõi, đưa ra các quyết định không phải là của họ mà là theo sự kỳ vọng của những người khác hoặc sự bắt buộc của chuẩn mực xã hội.
This realization was exploited most powerfully for pragmatic ends by the 18th- century philosopher Jeremy Bentham, who set out to resolve an important problem ushered in by the industrial age, where, for the first time, institutions had become so large and centralized that they were no longer able to monitor and therefore control each one of their individual members, and the solution that he devised was an architectural design originally intended to be implemented in prisons that he called the panopticon, the primary attribute of which was the construction of an enormous tower in the center of the institution where whoever controlled the institution could at any moment watch any of the inmates, although they couldn't watch all of them at all times. And crucial to this design was that the inmates could not actually see into the panopticon, into the tower, and so they never knew if they were being watched or even when. And what made him so excited about this discovery was that that would mean that the prisoners would have to assume that they were being watched at any given moment, which would be the ultimate enforcer for obedience and compliance. The 20th-century French philosopher Michel Foucault realized that that model could be used not just for prisons but for every institution that seeks to control human behavior: schools, hospitals, factories, workplaces. And what he said was that this mindset, this framework discovered by Bentham, was the key means of societal control for modern, Western societies, which no longer need the overt weapons of tyranny — punishing or imprisoning or killing dissidents, or legally compelling loyalty to a particular party — because mass surveillance creates a prison in the mind that is a much more subtle though much more effective means of fostering compliance with social norms or with social orthodoxy, much more effective than brute force could ever be.
Nhận thức này được tận dụng mạnh mẽ nhất vào khoảng thế kỷ 18 bởi nhà triết học Jeremy Bentham, người đã giải quyết một vấn đề quan trọng trong thời kỳ công nghiệp, khi, lần đầu tiên, các định chế đã trở nên quá lớn và tập trung mà đến nỗi họ không thể theo dõi được và vì thế không thể kiểm soát được từng cá nhân của họ, và giải pháp mà ông đã đề ra là môt thiết kế kiến trúc lúc đầu chỉ định để triển khai tại các nhà tù mà ông gọi là nhà tù xây tròn, thuộc tính tiêu biểu của nhà tù này là tòa tháp lớn ở ngay vị trí trung tâm nơi mà bất cứ ai kiểm soát nhà tù có thể nhìn thấy những tù nhân bất cứ lúc nào, dù rằng họ không thể quan sát hết mọi người mọi lúc mọi nơi. Điểm mấu chốt của thiết kế này là những tù nhân không thể không thể nhìn vào trong nhà tù vòng, vào trong tháp, và vì thế họ không bao giờ biết họ có đang bị theo dõi hay thậm chí là khi nào họ bi theo dõi hay không. Và điều làm ông hứng thú nhất đối với khám phá này đó là nó có nghĩa rằng những tù nhân luôn cảm thấy họ bị theo dõi bất cứ lúc nào, điều này trở thành động lực cơ bản để họ nghe lời và tuân thủ quy định. Nhà triết học thế kỷ 20 Michel Foucault đã nhận ra rằng mô hình này không chỉ có thể dùng cho nhà tù mà còn có thể cho các định chế khác cần kiểm soát hành vi con người như: trường học, bệnh viện, nhà máy, cơ quan. Và ông ấy cho rằng tư tưởng này, với nguyên lý phát hiện bởi Bentham, chính là cách thức kiểm soát xã hội chủ yếu dành cho các xã hội phương Tây hiện đại, khi mà không cần đến các vũ khí công khai của chế độ độc tài - bằng trừng phạt, giam giữ hay thủ tiêu các phần tử chống đối, hay dùng luật pháp để khuất phục một đảng phái - bởi vì giám sát toàn diện tạo nên một nhà tù trong tinh thần điều này trở nên khôn khéo hơn mà lại mang đến hiệu quả tốt hơn việc tăng cường tuân thủ các quy tắc xã hội hoặc đối với chuẩn mực xã hội, có hiệu quả hơn nhiều so với việc sử dụng vũ lực.
The most iconic work of literature about surveillance and privacy is the George Orwell novel "1984," which we all learn in school, and therefore it's almost become a cliche. In fact, whenever you bring it up in a debate about surveillance, people instantaneously dismiss it as inapplicable, and what they say is, "Oh, well in '1984,' there were monitors in people's homes, they were being watched at every given moment, and that has nothing to do with the surveillance state that we face." That is an actual fundamental misapprehension of the warnings that Orwell issued in "1984." The warning that he was issuing was about a surveillance state not that monitored everybody at all times, but where people were aware that they could be monitored at any given moment. Here is how Orwell's narrator, Winston Smith, described the surveillance system that they faced: "There was, of course, no way of knowing whether you were being watched at any given moment." He went on to say, "At any rate, they could plug in your wire whenever they wanted to. You had to live, did live, from habit that became instinct, in the assumption that every sound you made was overheard and except in darkness every movement scrutinized."
Công trình văn học tiêu biểu nhất về giám sát và sự riêng tư là tiểu thuyết của George Orwell "1984", mà chúng ta đều học ở trường, và vì thế gần như trở thành khuôn mẫu. Thực tế, mỗi khi bạn đề cập đến nó khi tranh luận về giám sát, người ta lập tức gạt bỏ nó bởi vì không thích hợp, và họ nói thế này, "Ồ, trong "1984", người ta bị giám sát cả khi ở nhà, bị giám sát bất cứ lúc nào, nên nó chẳng liên quan gì đến điều mà chúng ta đang nói cả." Đây là một hiểu lầm cơ bản về lời cảnh báo mà Orwell đưa ra trong "1984". Ông đưa ra lời cảnh báo về sự giám sát không phải tất cả mọi người vào mọi thời điểm, nhưng ở đó người ta lại cho rằng họ có thể bị giám sát bất cứ lúc nào. Người phát ngôn của Orwell, Winston Smith, mô tả hệ thống giám sát mà họ từng gặp: "Chắc chắn không có cách nào để biết bạn có đang bị theo dõi hay không." Ông nói tiếp, "Họ luôn có thể quan sát bạn nếu họ muốn. Bạn phải sống, và đúng là bạn sống, quen dần đến trở thành bản năng, luôn cho rằng mỗi âm thanh mà bạn phát ra đều có người nghe và ngoại trừ trong bóng tối mỗi hành động đều bị dò xét kỹ lưỡng."
The Abrahamic religions similarly posit that there's an invisible, all-knowing authority who, because of its omniscience, always watches whatever you're doing, which means you never have a private moment, the ultimate enforcer for obedience to its dictates.
Các tôn giáo Abraham thừa nhận rằng có một lực lượng toàn năng, vô hình, bởi vì sự thông thái của nó, luôn theo dõi điều bạn đang làm, nghĩa là bạn không bao giờ riêng tư, đây là nhân tố quyền lực thúc đẩy tuân theo tôn giáo.
What all of these seemingly disparate works recognize, the conclusion that they all reach, is that a society in which people can be monitored at all times is a society that breeds conformity and obedience and submission, which is why every tyrant, the most overt to the most subtle, craves that system. Conversely, even more importantly, it is a realm of privacy, the ability to go somewhere where we can think and reason and interact and speak without the judgmental eyes of others being cast upon us, in which creativity and exploration and dissent exclusively reside, and that is the reason why, when we allow a society to exist in which we're subject to constant monitoring, we allow the essence of human freedom to be severely crippled.
Có môt điều dường như khác thường cuối cùng mà họ đều đạt được, nhận ra là một xã hội mà trong đó mọi người bị bị theo dõi toàn bộ thời gian là xã hội tạo nên sự chấp hành, tuân thủ, khuất phục, đó là lý do mỗi nhà độc tài, từ công khai cho đến khéo che giấu nhất, đều muốn xây dựng hệ thống như vậy. Ngược lại, nhưng còn quan trọng hơn, nó là một khu vực riêng tư, năng lực để đi đến một nơi mà ở đó chúng ta có thể suy nghĩ, giao tiếp, trò chuyện mà không chạm phải ánh mắt đánh giá của người khác, nơi sự sáng tạo, khám phá và bất đồng ý kiến thật sự tồn tại, và đó là lý do tại sao, khi chúng ta cho phép một xã hội tồn tại mà trong đó chúng ta bị giám sát thường xuyên, chúng ta cho phép bản chất tự do của con người bị tê liệt hoàn toàn.
The last point I want to observe about this mindset, the idea that only people who are doing something wrong have things to hide and therefore reasons to care about privacy, is that it entrenches two very destructive messages, two destructive lessons, the first of which is that the only people who care about privacy, the only people who will seek out privacy, are by definition bad people. This is a conclusion that we should have all kinds of reasons for avoiding, the most important of which is that when you say, "somebody who is doing bad things," you probably mean things like plotting a terrorist attack or engaging in violent criminality, a much narrower conception of what people who wield power mean when they say, "doing bad things." For them, "doing bad things" typically means doing something that poses meaningful challenges to the exercise of our own power.
Điều cuối cùng tôi muốn nói liên quan đến tư duy này, quan điểm cho rằng chỉ có người làm việc xấu mới có thứ cần phải che giấu và mới quan tâm đến sự riêng tư, nó tạo nêu hai thông điệp tai hại, hai bài học tại hại, thứ nhất là chỉ những người quan tâm sự riêng tư, chỉ những người tìm kiếm sự riêng tư, được cho là người xấu. Đây là kết luận mà chúng ta cần phải tránh xa, điều quan trọng nhất của nó là khi bạn nói, "ai đó đang làm việc xấu," có thể ý bạn là âm mưu tấn công khủng bố hay tội phạm bạo lực, một khái niệm hết sức hạn hẹp xuất phát từ những người nắm quyền khi họ đề cập đến "làm việc xấu". Đối với họ, "làm việc xấu" nghĩa là làm những việc chống đối đáng kể đến việc thực thi quyền lực của họ.
The other really destructive and, I think, even more insidious lesson that comes from accepting this mindset is there's an implicit bargain that people who accept this mindset have accepted, and that bargain is this: If you're willing to render yourself sufficiently harmless, sufficiently unthreatening to those who wield political power, then and only then can you be free of the dangers of surveillance. It's only those who are dissidents, who challenge power, who have something to worry about. There are all kinds of reasons why we should want to avoid that lesson as well. You may be a person who, right now, doesn't want to engage in that behavior, but at some point in the future you might. Even if you're somebody who decides that you never want to, the fact that there are other people who are willing to and able to resist and be adversarial to those in power — dissidents and journalists and activists and a whole range of others — is something that brings us all collective good that we should want to preserve. Equally critical is that the measure of how free a society is is not how it treats its good, obedient, compliant citizens, but how it treats its dissidents and those who resist orthodoxy. But the most important reason is that a system of mass surveillance suppresses our own freedom in all sorts of ways. It renders off-limits all kinds of behavioral choices without our even knowing that it's happened. The renowned socialist activist Rosa Luxemburg once said, "He who does not move does not notice his chains." We can try and render the chains of mass surveillance invisible or undetectable, but the constraints that it imposes on us do not become any less potent.
Một bài học tai hại khác, và tôi nghĩ, còn nguy hiểm hơn nếu chấp nhận tư duy này đó là có một sự mặc cả ngầm mà những người đồng ý với tư duy này đã chấp nhận, sự mặc cả ngầm này như sau: Nếu bạn sẵn sàng khiến cho bản thân đủ vô hại, không mang tính đe dọa đối với người có quyền lực chính trị, chỉ khi đó bạn mới được giải phóng khỏi những theo dõi giám sát. Chỉ có những phần tử chống đối, thách thức quyền lực, mới phải lo lắng. Có các nguyên nhân mà bạn cũng nên tránh xa bài học này. Có thể bạn là người, ngay bây giờ, không có hành vi đó, nhưng có thể bạn sẽ có tại một thời điểm trong tương lai. Ngay cả khi bạn quyết định rằng bạn không bao giờ muốn chống đối, sự thật là có những người có thể và sẵn sàng thách thức những người có quyền lực - phe đối lập, phóng viên, nhà hoạt động và những người khác - họ có thể mang điều tốt đến cho chúng ta và cần phải được bảo vệ. Điều không kém quan trọng là sự đo lường tự do của mỗi xã hội không phải ở việc nó đối xử thế nào với các công dân nghe lời, mà là cách nó đối xử với phe đối lập và những người có ý kiến bất đồng. Nhưng lý do quan trọng nhất là hệ thống giám sát toàn diện đàn áp tự do của chúng ta theo mọi cách. Nó khống chế mọi lựa chọn hành vi của chúng ta mà ta lại không biết điều đó đang diễn ra. Nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa nổi tiếng Rosa Luxemburg từng nói, "Người không di chuyển sẽ không nhận thấy xiêng xích trên thân thể họ". Người ta có thể cố gắng khiến cho sợi dây xích giám sát toàn diện trở nên vô hình và không thể phát hiện, nhưng sự kiềm hãm của nó trên mỗi chúng ta không hề nhẹ đi chút nào.
Thank you very much.
Xin cảm ơn rất nhiều.
(Applause)
(Khán giả vỗ tay)
Thank you.
Xin cảm ơn.
(Applause)
(Khán giả vỗ tay)
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Khán giả vỗ tay)
Bruno Giussani: Glenn, thank you. The case is rather convincing, I have to say, but I want to bring you back to the last 16 months and to Edward Snowden for a few questions, if you don't mind. The first one is personal to you. We have all read about the arrest of your partner, David Miranda in London, and other difficulties, but I assume that in terms of personal engagement and risk, that the pressure on you is not that easy to take on the biggest sovereign organizations in the world. Tell us a little bit about that.
Bruno Giussani: Glenn, cảm ơn. Phải nói rằng bài thuyết trình rất thuyết phục, nhưng tôi muốn hỏi 1 chút về 16 tháng vừa qua và về Edward Snowden, nếu anh không phiền. Câu hỏi đầu hơi cá nhân. Chúng ta đều đọc về việc bắt giữ cộng sự của anh, David Miranda tại Luân Đôn, và những khó khăn khác, nhưng tôi cho rằng về ràng buộc và rủi ro cá nhân, để chống lại các tổ chức quyền lực nhất thế giới là không hề dễ dàng. Anh có thể nói một chút về điều này không?
Glenn Greenwald: You know, I think one of the things that happens is that people's courage in this regard gets contagious, and so although I and the other journalists with whom I was working were certainly aware of the risk — the United States continues to be the most powerful country in the world and doesn't appreciate it when you disclose thousands of their secrets on the Internet at will — seeing somebody who is a 29-year-old ordinary person who grew up in a very ordinary environment exercise the degree of principled courage that Edward Snowden risked, knowing that he was going to go to prison for the rest of his life or that his life would unravel, inspired me and inspired other journalists and inspired, I think, people around the world, including future whistleblowers, to realize that they can engage in that kind of behavior as well.
Glenn Greenwald: Anh biết đấy, tôi nghĩ lòng dũng cảm của con người thật sự lan truyền, và mặc dù tôi và các cộng sự chắc chắn nhận thấy rủi ro đó - nước Mỹ tiếp tục là quốc gia quyền lực nhất thế giới và họ không vui chút nào khi bạn công bố hàng nghìn bí mật của họ trên mạng Intenet - nhìn thấy một thường dân 29 tuổi lớn lên trong một môi trường bình thường thể hiện sự dũng cảm mà Edward Snowden thể hiện, dù biết là mình sẽ phải vào tù cả đời hoặc là cuộc đời sẽ hoàn toàn thay đổi, tạo cảm hứng cho tôi và các phóng viên khác và tạo cảm hứng cho, tôi nghĩ, mọi người trên thế giới, bao gồm các thế hệ tương lai, để nhận ra rằng họ cũng có thể thực hiện như vậy.
BG: I'm curious about your relationship with Ed Snowden, because you have spoken with him a lot, and you certainly continue doing so, but in your book, you never call him Edward, nor Ed, you say "Snowden." How come?
BG: Tôi tò mò về mối quan hệ của anh và Ed Snowden, bởi vì anh trò chuyện khá nhiều với anh ấy, và chắc rằng anh sẽ tiếp tục làm thế, nhưng trong sách của anh, anh chưa bao giờ gọi anh ấy là Edward, hay là Ed, mà là "Snowden". Vì sao thế?
GG: You know, I'm sure that's something for a team of psychologists to examine. (Laughter) I don't really know. The reason I think that, one of the important objectives that he actually had, one of his, I think, most important tactics, was that he knew that one of the ways to distract attention from the substance of the revelations would be to try and personalize the focus on him, and for that reason, he stayed out of the media. He tried not to ever have his personal life subject to examination, and so I think calling him Snowden is a way of just identifying him as this important historical actor rather than trying to personalize him in a way that might distract attention from the substance.
GG: Anh biết đấy, tôi cho rằng đây có thể trở thành đề tài kiểm tra của một nhóm tâm lý học. (Cười) Tôi cũng không chắc nữa. Nguyên nhân có thể là, một trong những mục tiêu quan trọng của anh ấy cũng có thể là thủ thuật quan trọng nhất, là anh ấy biết rằng một trong những cách phân tán sự chú ý ra khỏi việc công bố thông tin là để cố gắng và cá nhân hoá sự tập trung lên bản thân anh ta. và đó là lý do, anh ấy không tiếp xúc với truyền thông. Anh ấy đã cố gắng để đời sống cá nhân không bị đề cập, và vì thế tôi nghĩ tôi gọi anh ấy là Snowden là môt cách để xác địnhanh ấy như một nhân vật lịch sử quan trọng hơn là cá nhân hóa anh ấy và phân tán sự tập trung vào vật chất.
Moderator: So his revelations, your analysis, the work of other journalists, have really developed the debate, and many governments, for example, have reacted, including in Brazil, with projects and programs to reshape a little bit the design of the Internet, etc. There are a lot of things going on in that sense. But I'm wondering, for you personally, what is the endgame? At what point will you think, well, actually, we've succeeded in moving the dial?
Người điều tiết: Sự công bố thông tin của anh ấy, bài phân tích của anh, công việc của các phóng viên khác, thật sự đã sự tranh cãi, và nhiều chính phủ đã có phản ứng, trong đó Brazil, với các dự án và chương trình để chuyển đổi lại thiết kế của internet, v.v. Nhiều thứ đang tiến triển theo hướng đó. Nhưng tôi tự hỏi, với cá nhân anh, kết thúc sẽ như thế nào? Khi nào thì anh nghĩ, chúng ta thực sự thành công?
GG: Well, I mean, the endgame for me as a journalist is very simple, which is to make sure that every single document that's newsworthy and that ought to be disclosed ends up being disclosed, and that secrets that should never have been kept in the first place end up uncovered. To me, that's the essence of journalism and that's what I'm committed to doing. As somebody who finds mass surveillance odious for all the reasons I just talked about and a lot more, I mean, I look at this as work that will never end until governments around the world are no longer able to subject entire populations to monitoring and surveillance unless they convince some court or some entity that the person they've targeted has actually done something wrong. To me, that's the way that privacy can be rejuvenated.
GG: Kết thúc đối với một phóng viên như tôi thật ra rất đơn giản, đó là mỗi hồ sơ có giá trị đưa tin và nên được công bố cuối cùng sẽ được công bố, và những bí mật không nên được giữ cuối cùng sẽ hé lộ. Với tôi, đó là bản chất nghề báo và đó là điều tôi cam kết thực hiện. Tôi cho rằng giám sát toàn diện thật đáng sợ vì những lý do tôi nêu ở trên và những lý do khác, Tôi sẽ tiếp tục và không bao giờ ngừng lại cho đến khi chính phủ khắp thế giới không còn can thiệp và giám sát toàn bộ dân số trừ khi họ có lý do thuyết phục rằng người họ nhắm đến thực sự đã làm việc sai trái. Đối với tôi, đó là cách hồi sinh sự riêng tư.
BG: So Snowden is very, as we've seen at TED, is very articulate in presenting and portraying himself as a defender of democratic values and democratic principles. But then, many people really find it difficult to believe that those are his only motivations. They find it difficult to believe that there was no money involved, that he didn't sell some of those secrets, even to China and to Russia, which are clearly not the best friends of the United States right now. And I'm sure many people in the room are wondering the same question. Do you consider it possible there is that part of Snowden we've not seen yet?
BG: Snowden thật sự, như ta thấy ở TED, lưu loát khi trình bày quan điểm bản thân và biện hộ cho các giá trị và nguyên tắc dân chủ. Nhưng nhiều người không tin đó là động lực duy nhất của anh ấy. Họ cũng không tin rằng tiền không có liên quan, và anh ấy không hề bán một số thông tin mật thậm chí cho Trung Quốc và Nga, vốn rõ ràng chẳng phải bạn tốt của nước Mỹ. Và tôi chắc nhiều người trong phòng này cũng đang tự hỏi như thế. Anh có nghĩ rằng có 1 phần của Snowden mà chúng ta chưa rõ không?
GG: No, I consider that absurd and idiotic. (Laughter) If you wanted to, and I know you're just playing devil's advocate, but if you wanted to sell secrets to another country, which he could have done and become extremely rich doing so, the last thing you would do is take those secrets and give them to journalists and ask journalists to publish them, because it makes those secrets worthless. People who want to enrich themselves do it secretly by selling secrets to the government, but I think there's one important point worth making, which is, that accusation comes from people in the U.S. government, from people in the media who are loyalists to these various governments, and I think a lot of times when people make accusations like that about other people — "Oh, he can't really be doing this for principled reasons, he must have some corrupt, nefarious reason" — they're saying a lot more about themselves than they are the target of their accusations, because — (Applause) — those people, the ones who make that accusation, they themselves never act for any reason other than corrupt reasons, so they assume that everybody else is plagued by the same disease of soullessness as they are, and so that's the assumption. (Applause)
GG: Không, tôi thấy thật kỳ cục và buồn cườI. (Cười) Nếu anh muốn, tôi biết anh chỉ thử vai phản diện thôi, nhưng nếu anh muốn bán thông tin mật cho quốc gia khác, điều mà nếu anh ấy có thể đã làm và trở nên giàu có nhờ đó, điều cuối cùng anh muốn làm đó là đưa thông tin đó cho phóng viên và yêu cầu họ công bố, bởi vì thông tin đó sẽ chẳng còn giá trị gì nữa. Những người mong muốn giàu có bán thông tin cho chính phủ một cách bí mật, nhưng tôi nghĩ có 1 điểm đáng lưu ý, đó là, lời buộc tội kiểu này đến từ những người trong chính phủ Mỹ, từ giới truyền thông trung thành với các chính phủ này, và trong nhiều trường hợp người ta thường buộc tội người khác như vậy - "Ồ, anh ta không thể làm thế vì mục đích tốt, chắc chắn phải có tham nhũng hay lý do bất chính nào đó" - Họ đang nói nhiều về họ hơn là người mà họ buộc tội, bởi vì - (Khán giả vỗ tay) - những người đó, những người buộc tội, chính họ chưa bao giờ hành động vì lý do nào khác hơn là lý do bất chính, nên họ cho rằng mọi người khác cũng nhiễm chứng bệnh vô cảm giống họ, và đó chỉ là giả định của họ mà thôi. (Khán giả vỗ tay)
BG: Glenn, thank you very much. GG: Thank you very much.
BG: Glenn, cảm ơn rất nhiều. GG: Cảm ơn rất nhiều.
BG: Glenn Greenwald. (Applause)
BG: Clenn Greenwald. (Khán giả vỗ tay)