Last year, I told you the story, in seven minutes, of Project Orion, which was this very implausible technology that technically could have worked, but it had this one-year political window where it could have happened. So it didn't happen. It was a dream that did not happen. This year I'm going to tell you the story of the birth of digital computing. This was a perfect introduction. And it's a story that did work. It did happen, and the machines are all around us. And it was a technology that was inevitable. If the people I'm going to tell you the story about, if they hadn't done it, somebody else would have. So, it was sort of the right idea at the right time.
Năm ngoái tôi đã kể cho các bạn nghe một câu chuyện về Dự án Orion, một công nghệ rất bất hợp lý (nghiên cứu thiết kế tàu vũ trụ sử dụng lực đẩy hạt nhân), lẽ ra đã có thể thành công, nhưng nó gặp rắc rối về chính trị kéo dài suốt một năm nên nó đã không được tiến hành. Đó là một giấc mơ không thành hiện thực. Năm nay tôi sẽ kể với các bạn câu chuyện về sự ra đời của điện toán số. Đây là một màn giới thiệu hoàn hảo. Và một câu chuyện có thật, đã xảy ra, và các loại máy ứng dụng của nó hiện rất phổ biến. Và là một công nghệ tất yếu. Những người đã sáng tạo ra công nghệ này mà tôi sắp kể với các bạn nếu họ không thực hiện được thì sẽ có người khác làm được. Thời thế tạo anh hùng, ý tưởng đúng đắn vào đúng thời điểm.
This is Barricelli's universe. This is the universe we live in now. It's the universe in which these machines are now doing all these things, including changing biology. I'm starting the story with the first atomic bomb at Trinity, which was the Manhattan Project. It was a little bit like TED: it brought a whole lot of very smart people together. And three of the smartest people were Stan Ulam, Richard Feynman and John von Neumann. And it was Von Neumann who said, after the bomb, he was working on something much more important than bombs: he's thinking about computers. So, he wasn't only thinking about them; he built one. This is the machine he built.
Đây là vũ trụ của Barricelli, là vũ trụ chúng ta đang sống. Đó là vũ trụ nơi các cỗ máy này đang làm đủ mọi công việc, kể cả thay đổi sinh học. Tôi sẽ bắt đầu câu chuyện với quả bom nguyên tử đầu tiên ở Trinity, nằm trong dự án Manhattan. Nó hơi giống TED: nó tập hợp rất nhiều nhà khoa học xuất chúng. Và 3 trong số những người tài giỏi nhất là Stan Ulam, Richard Feynman và John von Neumann, và sau khi chế tạo quả bom, Neumann là người đã nói rằng ông đang chế tạo 1 cỗ máy quan trọng hơn các quả bom rất nhiều: ông đang suy nghĩ về máy tính. Ông không chỉ nghĩ đến mà ông còn chế tạo được một chiếc. Đây là cái máy ông đã làm.
(Laughter)
(Tiếng cười)
He built this machine, and we had a beautiful demonstration of how this thing really works, with these little bits. And it's an idea that goes way back. The first person to really explain that was Thomas Hobbes, who, in 1651, explained how arithmetic and logic are the same thing, and if you want to do artificial thinking and artificial logic, you can do it all with arithmetic. He said you needed addition and subtraction. Leibniz, who came a little bit later -- this is 1679 -- showed that you didn't even need subtraction. You could do the whole thing with addition. Here, we have all the binary arithmetic and logic that drove the computer revolution. And Leibniz was the first person to really talk about building such a machine. He talked about doing it with marbles, having gates and what we now call shift registers, where you shift the gates, drop the marbles down the tracks. And that's what all these machines are doing, except, instead of doing it with marbles, they're doing it with electrons.
Ông chế tạo cái máy này, và chúng ta đã được xem cơ chế hoạt động của nó. Và đó là một ý tưởng quay trở lại. Người đầu tiên giải thích cặn kẽ là Thomas Hobbes, năm 1651, ông đã diễn giải số học và logic là một và nếu muốn tư duy hay tính toán logic nhân tạo, bạn có thể thực hiện cả 2 bằng số học. Ông nói cần phép cộng và phép trừ. Leibiniz, người đến sau một chút -- năm 1679 -- cho thấy bạn thậm chí chẳng cần phép trừ. Tất cả chỉ cần phép cộng. Chúng ta có toàn bộ số học và logic nhị phân thúc đẩy cuộc cách mạng vi tính, và Leibiniz là người đầu tiên nói đến việc chế tạo một cỗ máy như thế. Ông nói về quá trình làm gồm các viên bi, các cổng và thanh ghi dịch chuyển, như chúng ta gọi bây giờ nơi bạn dịch chuyển các cổng, thả các viên bi xuống các rãnh ghi. Và đó là công việc mà tất cả những cái máy này đang làm, ngoại trừ thay vì làm với các viên bi chúng đang làm với các electron.
And then we jump to Von Neumann, 1945, when he sort of reinvents the whole same thing. And 1945, after the war, the electronics existed to actually try and build such a machine. So June 1945 -- actually, the bomb hasn't even been dropped yet -- and Von Neumann is putting together all the theory to actually build this thing, which also goes back to Turing, who, before that, gave the idea that you could do all this with a very brainless, little, finite state machine, just reading a tape in and reading a tape out. The other sort of genesis of what Von Neumann did was the difficulty of how you would predict the weather. Lewis Richardson saw how you could do this with a cellular array of people, giving them each a little chunk, and putting it together. Here, we have an electrical model illustrating a mind having a will, but capable of only two ideas.
Tiếp đến chúng ta hãy nghe về Neumann năm 1945, ông ấy đã tái phát minh lại một chiếc máy tương tự. Năm 1945, sau chiến tranh, điện tử được ứng dụng vào việc chế tạo một chiếc máy như thế Tháng 6 năm 1945, quả bom vẫn chưa được thả, và Neuman đang tổng hợp mọi lý thuyết nhằm chế tạo được chiếc máy này, lại nhớ đến Turing, trước đó Turing đã đề xuất ý tưởng bạn có thể làm được tất cả công việc này với một cỗ máy trạng thái hữu hạn rất ngớ ngẩn bằng việc đọc một cuộn băng đầu vào và đầu ra. Một lý do khác thúc đẩy Neumann làm cái đó là do sự khó khăn trong công tác dự báo thời tiết. Lewis Richardson đã nhìn thấy khả năng làm được điều này với một ma trận mảng tổ ong của người, đưa cho mỗi người một đoạn dữ liệu, và lắp ráp lại. Đây chúng ta có một sơ đồ điện mô phỏng một cái đầu kiên định nhưng chỉ có 2 ý kiến.
(Laughter)
(Cười)
And that's really the simplest computer. It's basically why you need the qubit, because it only has two ideas.
Và đó là chiếc máy tính đơn giản nhất. Lý do bạn cần qubit (bit lượng tử) vì nó chỉ có 2 ý niệm.
And you put lots of those together, you get the essentials of the modern computer: the arithmetic unit, the central control, the memory, the recording medium, the input and the output. But, there's one catch. This is the fatal -- you know, we saw it in starting these programs up. The instructions which govern this operation must be given in absolutely exhaustive detail. So, the programming has to be perfect, or it won't work.
Bạn lắp ráp chúng với nhau, thì sẽ được những phần cơ bản của một chiếc máy tính hiện đại: đơn vị số học, bộ điều khiển trung tâm, bộ nhớ, phương tiện ghi, đầu vào, đầu ra. Nhưng có một đoạn ghi chép nữa. Đây là một lỗi không thể tránh -- chúng ta đã thấy nó khi khởi động các chương trình. Các chỉ thị quản lý việc điều hành phải chi tiết và đầy đủ. Nên việc lập trình phải hoàn hảo nếu không nó sẽ không làm việc.
If you look at the origins of this, the classic history sort of takes it all back to the ENIAC here. But actually, the machine I'm going to tell you about, the Institute for Advanced Study machine, which is way up there, really should be down there. So, I'm trying to revise history, and give some of these guys more credit than they've had. Such a computer would open up universes, which are, at the present, outside the range of any instruments. So it opens up a whole new world, and these people saw it. The guy who was supposed to build this machine was the guy in the middle, Vladimir Zworykin, from RCA. RCA, in probably one of the lousiest business decisions of all time, decided not to go into computers. But the first meetings, November 1945, were at RCA's offices. RCA started this whole thing off, and said, you know, televisions are the future, not computers.
Hãy xem nguồn gốc của cái này, lịch sử cổ điển sẽ đưa chúng ta trở về với hệ thống điện toán ENIAC. Nhưng thực ra, cái máy tôi sắp kể với bạn cỗ máy của Viện Nghiên Cứu Tiên Tiến, ở trên đó thì lẽ ra là ở dưới. Thế nên tôi đang cố gắng xem lại lịch sử, và ghi nhận lại công lao của các vị này vì mọi người chưa đánh giá được hết. Một cái máy tính như thế sẽ mở ra vũ trụ hiện đang nằm ngoài tầm phủ sóng của mọi thiết bị, nó mở ra một thế giới mới, và những vị này đã thấy được nó. Người đã có công chế tạo cái máy này là anh chàng ở giữa, Vladimir Zworykin từ RCA. RCA, tập đoàn radio Hoa Kỳ, có thể đã đưa ra một trong các quyết định kinh doanh tồi nhất mọi thời đại, đã quyết định không tiến sâu vào lĩnh vực máy tính Nhưng trong các cuộc họp đầu tiên vào tháng 11,1945 tại các văn phòng của RCA. RCA đã khởi xướng trào lưu và cho rằng tivi là tương lai chứ không phải máy tính.
The essentials were all there -- all the things that make these machines run. Von Neumann, and a logician, and a mathematician from the army put this together. Then, they needed a place to build it. When RCA said no, that's when they decided to build it in Princeton, where Freeman works at the Institute. That's where I grew up as a kid. That's me, that's my sister Esther, who's talked to you before, so we both go back to the birth of this thing. That's Freeman, a long time ago, and that was me. And this is Von Neumann and Morgenstern, who wrote the "Theory of Games." All these forces came together there, in Princeton. Oppenheimer, who had built the bomb. The machine was actually used mainly for doing bomb calculations. And Julian Bigelow, who took Zworkykin's place as the engineer, to actually figure out, using electronics, how you would build this thing. The whole gang of people who came to work on this, and women in front, who actually did most of the coding, were the first programmers. These were the prototype geeks, the nerds. They didn't fit in at the Institute. This is a letter from the director, concerned about -- "especially unfair on the matter of sugar."
Nó có hết mọi điều cần thiết -- những thứ làm hoạt động các cỗ máy này. Von Neumann, cùng một nhà logic học, một nhà toán học từ quân đội đã lắp ráp chiếc máy này. Tiếp đến họ cần một nơi để xây dựng nó. Khi Tập đoàn RCA từ chối, họ đã quyết định chế tạo nó ở Princeton, ở viện nghiên cứu mà Freeman đang làm việc. Đó là nơi tôi trải qua thời thơ ấu của mình. Đấy là tôi,chị gái tôi, Esther cũng là một diễn giả tại TED, cả 2 chúng tôi đều quay trở lại xem xét sự ra đời của cái máy này. Đó là Freeman, cách đây khá lâu rồi và kia là tôi. Đây là Von Neumann và Morgenstern, tác giả của cuốn Lý Thuyết các Trò Chơi. Đội quân hùng hậu này tập hợp lại ở Princeton. Oppenheimer, người đã chế tạo bom. Cỗ máy chủ yếu được dùng để tính toán việc xếp các quả bom. Và Julian Bigelow là kỹ sư đảm nhận luôn công việc của công nhân, sử dụng điện tử, và cách chế tạo nó. Toàn bộ đội ngũ các nhà khoa học bắt tay chế tạo cỗ máy và những người phụ nữ ở phía trước chịu trách nhiệm phần mã hóa, họ là các lập trình viên đầu tiên. Đây là những người lập dị, đầu to mắt cận. Họ không hòa nhập được tại Viện nghiên cứu. Đây là bức thư từ giám đốc, bày tỏ quan ngại về -- "đặc biệt không công bằng trong vấn đề ăn đường."
(Laughter)
(Cười)
You can read the text.
Các bạn có thể đọc đoạn văn.
(Laughter)
(Cười)
This is hackers getting in trouble for the first time.
Đây là các tay hacker gặp khó khăn lần đầu tiên.
(Laughter).
(Cười)
These were not theoretical physicists. They were real soldering-gun type guys, and they actually built this thing.
Những người này không phải các nhà vật lý lý thuyết. Họ thuộc tuýp người dám nghĩ dám làm, và đã chế tạo ra cái máy này.
And we take it for granted now, that each of these machines has billions of transistors, doing billions of cycles per second without failing. They were using vacuum tubes, very narrow, sloppy techniques to get actually binary behavior out of these radio vacuum tubes. They actually used 6J6, the common radio tube, because they found they were more reliable than the more expensive tubes. And what they did at the Institute was publish every step of the way. Reports were issued, so that this machine was cloned at 15 other places around the world. And it really was. It was the original microprocessor. All the computers now are copies of that machine. The memory was in cathode ray tubes -- a whole bunch of spots on the face of the tube -- very, very sensitive to electromagnetic disturbances. So, there's 40 of these tubes, like a V-40 engine running the memory.
Và chúng ta phải công nhân rằng mỗi chiếc máy này có hàng tỷ tranzito, thực hiện thành công hàng tỷ chu trình mỗi giây. Chúng sử dụng hàng tỷ ống chân không, các kỹ thuật rất hạn hẹp và sơ sài để lấy cách xử lý nhị phân ra khỏi các ống chân không radio đó. Họ sử dụng 6J6, ống radio thông thường, vì họ thấy chúng đáng tin cậy hơn các loại ống đắt tiền khác. Và tại Viện, họ đã xuất bản từng bước trong quá trình. Các báo cáo được đệ trình nhằm sản xuất các cỗ máy giống hệt ở 15 nơi khác trên khắp thế giới. Và đề nghị đó đã được chấp thuận. Đó là bộ vi xử lý thuở sơ khai. Tất cả các máy tính hiện này là bản copy cỗ máy đó. Bộ nhớ trong các ống tia ca tốt -- một mạng điểm trên mặt ống, cực kỳ nhạy với các xáo trộn điện từ. Có 40 ống như vậy, giống 1 động cơ V-40 chạy bộ nhớ.
(Laughter)
(Cười)
The input and the output was by teletype tape at first. This is a wire drive, using bicycle wheels. This is the archetype of the hard disk that's in your machine now. Then they switched to a magnetic drum. This is modifying IBM equipment, which is the origins of the whole data-processing industry, later at IBM. And this is the beginning of computer graphics. The "Graph'g-Beam Turn On." This next slide, that's the -- as far as I know -- the first digital bitmap display, 1954.
Đầu vào và đầu ra ban đầu theo kiểu băng điện tín. Đây là bộ dẫn động dây,sử dụng các bánh xe đạp. Đây là nguyên mẫu ổ cứng trong máy tính của bạn hiện nay. Tiếp đến chúng chuyển sang 1 trống từ trường. Đây là thiết bị IBM cải tiến, là nguồn gốc của toàn bộ ngành xử lý dữ liệu sau này tại IBM. Và đây là tổ tiên của ngành đồ họa vi tính. " Graph'g-Beam Turn On." Slide tiếp theo này, đó là -- theo tôi được biết -- màn hình BMP số đầu tiên, năm 1954.
So, Von Neumann was already off in a theoretical cloud, doing abstract sorts of studies of how you could build reliable machines out of unreliable components. Those guys drinking all the tea with sugar in it were writing in their logbooks, trying to get this thing to work, with all these 2,600 vacuum tubes that failed half the time. And that's what I've been doing, this last six months, is going through the logs. "Running time: two minutes. Input, output: 90 minutes." This includes a large amount of human error. So they are always trying to figure out, what's machine error? What's human error? What's code, what's hardware?
Von Neumann đã ở trong đám mây lý thuyết tóm tắt các nghiên cứu về cách chế tạo các cỗ máy đáng tin cậy từ những linh kiện không ổn định. Mấy anh này đang uống trà có đường đang viết trong nhật ký máy, cố làm cho cái máy này hoạt động với 2,600 ống chân không, mà nó thì có đến 1 nửa thời gian không chạy được. Và đó là công việc tôi đang làm trong 6 tháng qua, đọc nhật ký máy. "Thời gian chạy: 2 phút. Đầu vào, đầu ra: 90 phút." Cái này bao gồm 1 lượng lớn lỗi do con người. Họ luôn phải cố xác định xem lỗi của cái máy là gì? Lỗi do người là gì? mật mã là gì, phần cứng là gì?
That's an engineer gazing at tube number 36, trying to figure out why the memory's not in focus. He had to focus the memory -- seems OK. So, he had to focus each tube just to get the memory up and running, let alone having, you know, software problems.
Đó là 1 kỹ sư đang xem xét cái ống số 36, cố tìm nguyên nhân tại sao bộ nhớ không tập trung. Anh ấy phải tập trung được bộ nhớ -- có vẻ ổn rồi. Anh ấy phải tập trung tất cả các ống thì bộ nhớ mới chạy được, chứ chắng dám nói đến các vấn đề phần mềm.
"No use, went home." (Laughter)
"Vô ích, về nhà thôi." (Tiếng cười)
"Impossible to follow the damn thing, where's a directory?"
"Không thể theo cái thứ này được, thư mục ở đâu rồi? "
So, already, they're complaining about the manuals: "before closing down in disgust ... "
Họ đã phàn nàn về quyển sách hướng dẫn rồi: "trước khi bực mình đóng máy."
"The General Arithmetic: Operating Logs." Burning lots of midnight oil.
Số học tổng quát -- các nhật ký vận hành máy, khiến họ phải thức khuya làm việc.
"MANIAC," which became the acronym for the machine, Mathematical and Numerical Integrator and Calculator, "lost its memory."
MANIAC, trở thành từ viết tắt cho cỗ máy, có tên máy tính và bộ tích phân,' đánh mất bộ nhớ của nó."
"MANIAC regained its memory, when the power went off." "Machine or human?"
MANIAC lấy lại bộ nhớ của nó khi tắt máy," "máy hay người?"
"Aha!" So, they figured out it's a code problem.
"Aha!" Họ đã xác định ra được: đó là một vấn đề về mã:
"Found trouble in code, I hope."
"Đã tìm thấy vấn đề nằm trong bộ mã, mình hy vọng thế."
"Code error, machine not guilty."
" ỗi bộ mã, cái máy chả có tội gì."
"Damn it, I can be just as stubborn as this thing."
"Chết tiệt, cái máy này cứng đầu y như mình vậy."
(Laughter)
(Cười)
"And the dawn came." So they ran all night. Twenty-four hours a day, this thing was running, mainly running bomb calculations.
"Bình minh đã lên." Thế là họ đã làm việc cả đêm. Cái máy này chạy 24h/ngày, chủ yếu tính toán các quả bom.
"Everything up to this point is wasted time." "What's the use? Good night."
"Mọi thứ thật là phí thời gian." " Lợi ích gì chứ? Chúc ngủ ngon."
"Master control off. The hell with it. Way off." (Laughter)
" Trình điều khiển chính tắt rồi. Chết tiệt. Pó tay." (Cười)
"Something's wrong with the air conditioner -- smell of burning V-belts in the air."
"Có gì đó không ổn với cái máy điều hòa -- mùi khét, hình như cháy cái dây đai chữ V."
"A short -- do not turn the machine on."
"Chú ý -- đừng có bật cái máy lên."
"IBM machine putting a tar-like substance on the cards. The tar is from the roof." So they really were working under tough conditions.
"Cái máy IBM thả một chất giống nhựa đường lên các thẻ. Chắc nó rơi từ trên mái xuống." Họ đã phải làm việc dưới điều kiện rất khắc nghiệt các bạn ạ.
(Laughter)
(Cười)
Here, "A mouse has climbed into the blower behind the regulator rack, set blower to vibrating. Result: no more mouse."
Đây , "Một con chuột đã trèo vào quạt gió đằng sau giá điều chỉnh, làm cái quạt gió rung bần bật. Kết quả: Tiêu đời em chuột."
(Laughter)
(Cười)
"Here lies mouse. Born: ?. Died: 4:50 a.m., May 1953."
"Em chuột yên nghỉ tại đây. Sinh ngày? Từ trần vào hồi 4:50 sáng, tháng 5 năm 1953."
(Laughter)
(Cười)
There's an inside joke someone has penciled in: "Here lies Marston Mouse." If you're a mathematician, you get that, because Marston was a mathematician who objected to the computer being there.
Ai đó đã viết một câu đùa bằng bút chì vào đó: " Em chuột Marston yên nghỉ tại đây." Nếu bạn là một nhà toán học, bạn sẽ hiểu, vì Marston là nhà toán học đã phản đối máy tính được chế tạo ở Princeton.
"Picked a lightning bug off the drum." "Running at two kilocycles." That's two thousand cycles per second -- "yes, I'm chicken" -- so two kilocycles was slow speed. The high speed was 16 kilocycles. I don't know if you remember a Mac that was 16 Megahertz, that's slow speed.
"Nhặt một con đom đóm ra khỏi cái trống, chạy máy với tốc độ 2 kilohetz." 2 kHz là 2 nghìn chu kỳ trên giây -- "uh, mình là gà" -- suy ra 2 kHz là tốc độ chậm. Tốc độ cao là 16 kHz, tôi không biết liệu các bạn có nhớ một chiếc Mac 16 MHz. Đó là tốc độ chậm.
"I have now duplicated both results. How will I know which is right, assuming one result is correct? This now is the third different output. I know when I'm licked."
"Bây giờ mình đã nhân đôi cả 2 kết quả. Giả sử 1 kết quả là đúng, thì làm sao mình biết cái nào là đúng? Bây giờ là đầu ra khác nhau thứ 3. Mình biết khi nào thì bị một vố đau."
(Laughter)
(Cười)
"We've duplicated errors before."
"Chúng tôi đã nhân đôi các lỗi trước đó."
"Machine run, fine. Code isn't."
"Máy chạy ổn. Đoạn mã thì không."
"Only happens when the machine is running."
"Chỉ xảy ra khi máy đang chạy."
And sometimes things are okay. "Machine a thing of beauty, and a joy forever." "Perfect running."
Và đôi khi mọi thứ đều ổn. " Cái máy này là vẻ đẹo và niềm vui bất diệt." "Máy chạy hoàn hảo."
"Parting thought: when there's bigger and better errors, we'll have them."
"Đã nghĩ rằng: khi có các lỗi lớn hơn và nhẹ hơn, chúng tôi sẽ giải quyết được"
So, nobody was supposed to know they were actually designing bombs. They're designing hydrogen bombs. But someone in the logbook, late one night, finally drew a bomb. So, that was the result. It was Mike, the first thermonuclear bomb, in 1952. That was designed on that machine, in the woods behind the Institute.
Chẳng ai biết họ đang thiết kế bom. Họ đang thiết kế các quả bom hidro. Nhưng ai đó giữa đêm khuya, đã vẽ 1 quả bom vào quyển nhật ký máy. Vậy đó là kết quả. Mike, quả bom nhiệt hạt nhân đầu tiên vào năm 1952. Nó được thiết kế trên cái máy đó trong khu rừng phía sau viện nghiên cứu.
So Von Neumann invited a whole gang of weirdos from all over the world to work on all these problems. Barricelli, he came to do what we now call, really, artificial life, trying to see if, in this artificial universe -- he was a viral-geneticist, way, way, way ahead of his time. He's still ahead of some of the stuff that's being done now. Trying to start an artificial genetic system running in the computer. Began -- his universe started March 3, '53. So it's almost exactly -- it's 50 years ago next Tuesday, I guess. And he saw everything in terms of -- he could read the binary code straight off the machine. He had a wonderful rapport. Other people couldn't get the machine running. It always worked for him. Even errors were duplicated.
Von Neuman đã mời một nhóm chuyên gia từ khắp thế giới đến giải quyết các vấn đề đó. Barriceli đã đến để làm cuộc sống nhân tạo, như cách gọi bây giờ cố tìm xem liệu trong vũ trụ nhân tạo này -- ông là 1 nhà di truyền học virus -- cực kỳ đi trước thời đại. Ông hiện vẫn là chuyên gia đầu ngành của các dự án hiện đang được thực hiện . Cố gắng bắt đầu một hệ thống di truyền học nhân tạo chạy trong máy tính. vũ trụ của ông ta bắt đầu vào 3/3/1953. Thứ 3 tới sẽ tròn 50 năm. Và ông ta nhìn thấy mọi thứ về -- Ông có thể đọc các đoạn mã nhị phân ngay ở máy. Ông rất tâm đầu ý hợp với cái máy. Trong khi những người khác không thể làm cho cái máy chạy thì ông cứ động vào là được. Kể cả các lỗi cũng nhân đôi.
(Laughter)
(Cười)
"Dr. Barricelli claims machine is wrong, code is right."
"Tiến sĩ Barricelli tuyên bố đoạn mã thì đúng nhưng lỗi là tại cái máy."
So he designed this universe, and ran it. When the bomb people went home, he was allowed in there. He would run that thing all night long, running these things, if anybody remembers Stephen Wolfram, who reinvented this stuff. And he published it. It wasn't locked up and disappeared. It was published in the literature. "If it's that easy to create living organisms, why not create a few yourself?" So, he decided to give it a try, to start this artificial biology going in the machines. And he found all these, sort of -- it was like a naturalist coming in and looking at this tiny, 5,000-byte universe, and seeing all these things happening that we see in the outside world, in biology. This is some of the generations of his universe. But they're just going to stay numbers; they're not going to become organisms. They have to have something. You have a genotype and you have to have a phenotype. They have to go out and do something. And he started doing that, started giving these little numerical organisms things they could play with -- playing chess with other machines and so on. And they did start to evolve. And he went around the country after that. Every time there was a new, fast machine, he started using it, and saw exactly what's happening now. That the programs, instead of being turned off -- when you quit the program, you'd keep running and, basically, all the sorts of things like Windows is doing, running as a multi-cellular organism on many machines, he envisioned all that happening. And he saw that evolution itself was an intelligent process. It wasn't any sort of creator intelligence, but the thing itself was a giant parallel computation that would have some intelligence. And he went out of his way to say that he was not saying this was lifelike, or a new kind of life. It just was another version of the same thing happening. And there's really no difference between what he was doing in the computer and what nature did billions of years ago. And could you do it again now?
Nên ông ấy đã thiết kế vũ trụ này và cho chạy nó. Khi các đồng nghiệp về nhà, ông được phép ở lại đó. Ông cho chạy nó suốt đêm, chạy các máy này. Nếu ai đó còn nhớ Stephen Wolfram, người đã tái phát minh cái máy này. Và ông đã công bố nó. Nó không bị bỏ xó. Nó được xuất bản thành tập san khoa học. "Nếu tạo ra các cơ quan sống lại dễ dàng như thế, thì tại sao không tạo ra một vài nhân bản của mình chơi ta?" Thế là ông ấy quyết định thử một phen, bắt đầu áp dụng ngành sinh học nhân tạo vào máy móc. Và ông đã tìm thấy những thứ này -- Nó giống như 1 nhà tự nhiên học đi vào và nhìn thấy vũ trụ 5,000 byte nhỏ bé này và thấy mọi điều xảy ra trong thế giới bên ngoài, thế giới sinh học. Đây là 1 số thế hệ vũ trụ của ông. Nhưng chúng chỉ là các con số mà thôi; sẽ không trở thành các cơ quan được. Chúng cần có 1 cái gì đó. Bạn có 1 kiểu di truyền và phải có 1 kiểu hình nữa. Họ phải ra ngoài làm 1 việc. Và ông ta bắt đầu thực hiện việc đó, bắt đầu cho các cơ quan số này những thứ chúng có thể chơi, chơi cờ với các máy khác,... Và chúng bắt đầu "tiến hóa". Ông ấy sau đó đã đi khắp đất nước. Mỗi khi có 1 cỗ máy mới tốc độ nhanh, ông lại bắt đầu sử dụng nó, và thấy được chính xác điều gì đang diễn ra: rằng các chương trình, thay vị bị tắt đi -- khi bạn thoát khỏi chương trình, nó vẫn tiếp tục chạy đó chính là điều mà các chương trình trong Window đang làm -- là 1 cơ thể đa bào chạy trên nhiều máy -- ông đã hình dung được diễn biến trong tương lai. Và ông đã thấy bản thân cuộc tiến hóa ấy chính là một quá trình thông minh. Nó không phải trí thông minh của người tạo ra, mà bản thân nó đã là 1 phép tính song song khổng lồ có trí tuệ. Và ông đã phá lệ khi nói rằng ông không nói nó sẽ sinh động như thật hoặc là một dạng sống mới; nó chỉ là 1 phiên bản khác của cùng 1 thứ. Và không có sự khác biệt giữa những gì ông đang thực hiện trong máy tính và những gì tự nhiên đã làm cách đây hàng triệu năm. Còn bạn, bạn có thể làm lại lần nữa không?
So, when I went into these archives looking at this stuff, lo and behold, the archivist came up one day, saying, "I think we found another box that had been thrown out." And it was his universe on punch cards. So there it is, 50 years later, sitting there -- sort of suspended animation. That's the instructions for running -- this is actually the source code for one of those universes, with a note from the engineers saying they're having some problems. "There must be something about this code that you haven't explained yet." And I think that's really the truth. We still don't understand how these very simple instructions can lead to increasing complexity. What's the dividing line between when that is lifelike and when it really is alive? These cards, now, thanks to me showing up, are being saved. And the question is, should we run them or not? You know, could we get them running? Do you want to let it loose on the Internet? These machines would think they -- these organisms, if they came back to life now -- whether they've died and gone to heaven, there's a universe. My laptop is 10 thousand million times the size of the universe that they lived in when Barricelli quit the project.
Khi tôi đi sâu vào các tài liệu lưu trữ này, thì kỳ lạ thay, người lưu trữ văn thư 1 hôm báo với tôi, " Tôi nghĩ chúng tôi đã tìm thấy 1 cái hộp nữa, nó đã bị vứt đi." Và đó chính là vũ trụ của ông ấy trên các phiếu đục lỗ. 50 năm sau, nó vẫn ở đó, 1 loại hoạt họa dang dở. Đó là các hướng dẫn chạy chương trình -- đây chính là mã nguồn cho 1 trong các vũ trụ đó, với 1 ghi chú từ các kỹ sư cho biết họ đang gặp phải 1 số khó khăn. "Chắc hẳn đoạn mã này có cái gì đó mà ông vẫn chưa giải thích." Và tôi nghĩ đó là sự thật. Chúng ta vẫn không hiểu làm thế nào mà các hướng dẫn đơn giản này có thể dẫn tới sự phức tạp tăng dần. Ranh giới giữa khi nào nó giống như thật và khi nào nó thực sự sống là gì? Các thẻ này đang được giữ lại. Và câu hỏi đặt ra là, liệu có nên chạy chúng không? Chúng ta liệu có thể chạy chúng không? Bạn có muốn phát tán nó trên mạng? Các máy này sẽ nghĩ chúng -- những cơ thể này, nếu bây giờ chúng được hồi sinh thì liệu sẽ chết và bay lên thiên đường không, có một vũ trụ -- chiếc laptop của tôi to gấp 10 tỉ lần kích thước của vũ trụ chúng đã sống trong đó khi Barricelli rút khỏi dự án.
He was thinking far ahead, to how this would really grow into a new kind of life. And that's what's happening! When Juan Enriquez told us about these 12 trillion bits being transferred back and forth, of all this genomics data going to the proteomics lab, that's what Barricelli imagined: that this digital code in these machines is actually starting to code -- it already is coding from nucleic acids. We've been doing that since, you know, since we started PCR and synthesizing small strings of DNA. And real soon, we're actually going to be synthesizing the proteins, and, like Steve showed us, that just opens an entirely new world.
Ông ấy đã nhìn xa trông rộng, nghĩ đến việc làm sao nó có thể phát triển 1 cuộc sống mới. Và đó là điều đang diễn ra! Khi Juan Enriquez kể với chúng tôi về 12 nghìn tỷ bit của các dữ liệu hệ gen được chuyển đi chuyển lại, đến phòng thí nghiệm protein, đó chính là điều Barricelli đã tưởng tượng: rằng đoạn mã số trong các máy này sẽ bắt đầu mã hóa -- nó đang mã hóa từ các acid nucleic. Chúng ta đang tiến hành công việc đó kể từ khi bắt đầu PCR và tổng hợp các sợi nhỏ của DNA. Và chúng ta sẽ sớm tổng hợp được các protein, và như Steve đã cho chúng ta thấy, mở ra cả 1 thế giới hoàn toàn mới.
It's a world that Von Neumann himself envisioned. This was published after he died: his sort of unfinished notes on self-reproducing machines, what it takes to get the machines sort of jump-started to where they begin to reproduce. It took really three people: Barricelli had the concept of the code as a living thing; Von Neumann saw how you could build the machines -- that now, last count, four million of these Von Neumann machines is built every 24 hours; and Julian Bigelow, who died 10 days ago -- this is John Markoff's obituary for him -- he was the important missing link, the engineer who came in and knew how to put those vacuum tubes together and make it work. And all our computers have, inside them, the copies of the architecture that he had to just design one day, sort of on pencil and paper. And we owe a tremendous credit to that. And he explained, in a very generous way, the spirit that brought all these different people to the Institute for Advanced Study in the '40s to do this project, and make it freely available with no patents, no restrictions, no intellectual property disputes to the rest of the world.
Một thế giới mà bản thân Von Neumann đã hình dung ra. Cái này đã được xuất bản sau khi ông ấy qua đời: các ghi chép còn dở dang của ông về các cỗ máy tự tái lập. Vậy cần gì để những chiếc máy loại tăng thế này tới nơi chúng bắt đầu tái lập? Chúng cần 3 người: Barricelli quan niệm mật mã là 1 vật hữu sinh. Von Neumann đã nhìn thấy cách chế tạo các cỗ máy đó. Theo thống kê mới nhất, hiện nay có 4 triệu máy kiểu Von Neumann được xây dựng mỗi ngày. Và Julian Bigelow đã qua đời cách đây 10 ngày -- đây là cáo phó John Markoff đã viết cho ông ấy -- ông là sợi dây gắn kết quan trọng bị thiếu, người kỹ sư đã đến và biết cách lắp ráp các ống chân không và làm cho nó hoạt động. Và tất cả máy tính của chúng tôi đều có bên trong chúng các bản sao chép kiến trúc ông đã phải thiết kế chỉ vọn vẹn có 1 ngày trên giấy bút. Chúng ta mang nợ ông rất nhiều vì cống hiến to lớn đó. Và ông đã giải thích rất cặn kẽ tinh thần đã mang những người khác nhau này đến Viện Nghiên Cứu Tiên Tiến ở những năm 40 để thực hiện dự án này, và khiến dự án dễ dàng được tiếp cận vì không có bằng sáng chế, không giới hạn không quyền sở hữu trí tuệ gây khó khăn cho phần còn lại của thế giới
That's the last entry in the logbook when the machine was shut down, July 1958. And it's Julian Bigelow who was running it until midnight when the machine was officially turned off. And that's the end.
Đó là entry cuối cùng trong quyển nhật ký máy khi cái máy dừng hoạt động vào tháng 7 năm 1958. Và Julian Bigelow là người đã chạy máy cho tới nửa đêm khi nó chính thức bị tắt. Câu chuyện xin kết thúc ở đây.
Thank you very much.
Cảm ơn quý vị rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)