I was born in Den Bosch, where the painter Hieronymus Bosch named himself after. And I've always been very fond of this painter who lived and worked in the 15th century. And what is interesting about him in relation to morality is that he lived at a time where religion's influence was waning, and he was sort of wondering, I think, what would happen with society if there was no religion or if there was less religion. And so he painted this famous painting, "The Garden of Earthly Delights," which some have interpreted as being humanity before the Fall, or being humanity without any Fall at all. And so it makes you wonder, what would happen if we hadn't tasted the fruit of knowledge, so to speak, and what kind of morality would we have.
Tôi sinh ra ở Den Bosch, nơi mà họa sỹ Hieronymus Bosch đã lấy làm tên ông sau này. Và tôi luôn luôn thích người họa sỹ này ông sống và làm việc ở thế kỷ 15 Và điều thú vị về ông liên quan đến đạo đức là ông sống tại thời điểm nơi mà sự ảnh hưởng của tôn giáo đã suy tàn, và tôi nghĩ rằng ông đã phần nào tự hỏi điều gì sẽ xảy ra với xã hội nếu không còn tôn giáo hoặc có ít tôn giáo hơn. Và vì vậy, ông đã vẽ nên tác phẩm nổi tiếng này "The Garden of Earthly Delights" (tạm dịch "Khu vườn hưởng lạc trần tục") mà một số người đã diễn giải rằng nó miêu tả con người trước khi bị mắc tội tổ tông, hay con người nếu không hề bị mắc tội tổ tông. Và vì vậy nó khiến các bạn tự hỏi, điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đã không nếm trái cấm của tri thức, như một cách nói, và rằng chúng ta sẽ có kiểu đạo đức gì?
Much later, as a student, I went to a very different garden, a zoological garden in Arnhem where we keep chimpanzees. This is me at an early age with a baby chimpanzee.
Nhiều năm sau đó, khi còn là một sinh viên, tôi đã đến một khu vườn rất khác, một vườn bách thú ở Arnhem nơi mà chúng tôi nuôi giữ loài tinh tinh. Đây là tôi thời còn trẻ với một chú tinh tinh con.
(Laughter)
(Cười)
And I discovered there that the chimpanzees are very power-hungry and wrote a book about it. And at that time the focus in a lot of animal research was on aggression and competition. I painted a whole picture of the animal kingdom and humanity included, was that deep down we are competitors, we are aggressive, we are all out for our own profit, basically. This is the launch of my book. I'm not sure how well the chimpanzees read it, but they surely seemed interested in the book.
Và ở đó tôi phát hiện ra rằng loài tinh tinh rất đói quyền lực và tôi đã viết sách về điều này. Lúc này trọng tâm trong nhiều nghiên cứu ở các loài động vật là về tính bạo lực và sự cạnh tranh. Tôi đã vẽ cả một bức tranh về vương quốc các loài động vật, và bao gồm cả loài người, mà ở đó về cơ bản chúng ta là những kẻ cạnh trạnh, chúng ta rất hung hăng, chúng ta cơ bản đều vì lợi ích của bản thân. Đây là buổi ra mắt quyển sách của tôi Tôi không chắc những chú tinh tinh sẽ đọc nó như thế nào, nhưng chắc chắc là chúng dường như rất có hứng thú với quyển sách.
(Laughter)
Trong quá trình
Now in the process of doing all this work on power and dominance and aggression and so on, I discovered that chimpanzees reconcile after fights. And so what you see here is two males who have had a fight. They ended up in a tree, and one of them holds out a hand to the other. And about a second after I took the picture, they came together in the fork of the tree and kissed and embraced each other.
thực hiện toàn bộ nghiên cứu về quyền lực và sự thống trị tính bạo lực và vân vân, tôi phát hiện ra rằng những con tinh tinh làm hòa với nhau sau khi đánh nhau. Và các bạn đang thấy đây là hai con đực mà trước đó chúng đã đánh nhau. Chúng làm hòa với nhau trên một cái cây, và một con chìa tay ra với con còn lại. Và không lâu sau khi tôi chụp bức ảnh này, chúng cùng nhau đến rẽ nhánh của cái cây này và rồi chúng hôn và ôm nhau. Điều này rất thú vị
And this is very interesting because at the time, everything was about competition and aggression, so it wouldn't make any sense. The only thing that matters is that you win or you lose. But why reconcile after a fight? That doesn't make any sense. This is the way bonobos do it. Bonobos do everything with sex. And so they also reconcile with sex. But the principle is exactly the same. The principle is that you have a valuable relationship that is damaged by conflict, so you need to do something about it. So my whole picture of the animal kingdom, and including humans also, started to change at that time.
vì tại thời điểm mọi thứ đều về sự cạnh tranh và bạo lực, thì điều này chẳng hợp lý chút nào. Điều quan trọng duy nhất là bạn thắng hay thua. Nhưng tại sao chúng lại làm hòa sau khi đánh nhau? Điều này chẳng hợp lý chút nào. Đây là cách mà loài khỉ bonobo làm. Loài khỉ bonobo làm tất cả mọi thứ với việc giao phối. Và vì vậy chúng làm hòa với nhau bằng cách giao phối. Nhưng về nguyên lý là như nhau. Nguyên lý là bạn có một mối quan hệ có giá trị bị phá vỡ bởi mâu thuẫn, và bạn cần phải làm điều gì đó cho nó. Vì vậy cả bức tranh vương quốc động vật của tôi bao gồm cả loài người, bắt đầu thay đổi từ lúc đó.
So we have this image in political science, economics, the humanities, the philosophy for that matter, that man is a wolf to man. And so deep down, our nature is actually nasty. I think it's a very unfair image for the wolf. The wolf is, after all, a very cooperative animal. And that's why many of you have a dog at home, which has all these characteristics also. And it's really unfair to humanity, because humanity is actually much more cooperative and empathic than given credit for. So I started getting interested in those issues and studying that in other animals.
Chúng ta có hình ảnh này trong khoa học chính trị, kinh tế và nhân văn, triết học về một vấn đề là, "Man is a wolf to another man" (tạm dịch: người đối xử với người như lang sói) Và bản chất con người chúng ta thực sự xấu xa. Tôi nghĩ đây là một hình ảnh rất không công bằng cho loài sói. Loài sói xét cho cùng là một loài động vật rất có tính hợp tác. Và đó là lý do vì sao nhiều người trong số các bạn nuôi chó ở nhà, chó cũng có những đặc điểm tương tự như vậy. Và thật không công bằng đối với con người, bởi vì loài người thực sự có tính hợp tác và đồng cảm hơn nhiều so với những ghi nhận. Do đó tôi bắt đầu quan tâm nhiều hơn về những vấn đề đó và nghiên cứu về điều này ở các loài động vật khác.
So these are the pillars of morality. If you ask anyone, "What is morality based on?" these are the two factors that always come out. One is reciprocity, and associated with it is a sense of justice and a sense of fairness. And the other one is empathy and compassion. And human morality is more than this, but if you would remove these two pillars, there would be not much remaining, I think. So they're absolutely essential.
Đây là những cột trụ đạo đức. Nếu các bạn hỏi bất kỳ ai "Đạo đức dựa trên điều gì?" đây là hai yếu tố luôn luôn được trả lời. Một là tính tương hỗ, và đi kèm với nó công lý và tính công bằng. Và điều còn lại là sự đồng cảm và tình thương. Và đạo đức con người còn hơn cả điều này, nhưng nếu bạn loại bỏ hai cột trụ này, tôi nghĩ sẽ không còn lại nhiều. Và vì vậy chúng hoàn toàn là cần thiết.
So let me give you a few examples here. This is a very old video from the Yerkes Primate Center, where they trained chimpanzees to cooperate. So this is already about a hundred years ago that we were doing experiments on cooperation. What you have here is two young chimpanzees who have a box, and the box is too heavy for one chimp to pull in. And of course, there's food on the box. Otherwise they wouldn't be pulling so hard. And so they're bringing in the box. And you can see that they're synchronized. You can see that they work together, they pull at the same moment. It's already a big advance over many other animals who wouldn't be able to do that. Now you're going to get a more interesting picture, because now one of the two chimps has been fed. So one of the two is not really interested in the task anymore.
Để tôi cho các bạn một vài ví dụ ở đây. Đây là một đoạn phim rất lâu từ Trung tâm nghiên cứu Động vật linh trưởng khu vực Yerkeys nơi họ huấn luyện loài tinh tinh biết hợp tác. Và đây là vào cách đây khoảng một trăm năm về trước chúng ta đã thực hiện một cuộc thí nghiệm về sự hợp tác. Các bạn có ở đây hai con tinh tinh trưởng thành, chúng có một cái hộp, và cái hộp này quá nặng để một con có thể kéo được. Và dĩ nhiên là có thức ăn trong chiếc hộp này. Nếu không thì chúng sẽ không cố gắng kéo nó. Và vì vậy chúng đang mang cái hộp lại. Bạn có thể thấy là chúng thực hiện rất nhịp nhàng. Bạn có thể thấy là chúng làm việc cùng nhau, kéo chiếc hộp vào cùng một lúc. Đây thực sự là một sự tiến bộ lớn so với các loài động vật khác , những loài mà không thể làm được điều này. Và bây giờ bạn sẽ thấy một hình ảnh thú vị hơn, vì lúc này một trong hai con tinh tinh đã được cho ăn. Vì thế nó không còn thực sự hứng thú vào nhiệm vụ này nữa.
(Laughter)
(Cười)
(Laughter)
(Cười)
(Laughter)
(Cười)
[- and sometimes appears to convey its wishes and meanings by gestures.] Now look at what happens at the very end of this.
Hãy xem chuyện gì sẽ xảy ra vào cuối đoạn phim.
(Laughter)
(Cười)
He takes basically everything.
Nó, trên cơ bản, lấy hết tất cả mọi thứ.
(Laughter)
(Cười)
There are two interesting parts about this. One is that the chimp on the right has a full understanding he needs the partner -- so a full understanding of the need for cooperation. The second one is that the partner is willing to work even though he's not interested in the food. Why would that be? Well, that probably has to do with reciprocity. There's actually a lot of evidence in primates and other animals that they return favors. He will get a return favor at some point in the future. And so that's how this all operates.
Có hai phần thú vị về điều này. Một là con tinh tinh bên phải hoàn toàn nhận thức được rằng nó cần một cộng sự -- đây là một nhận thức hoàn chỉnh về nhu cầu hợp tác. Thứ hai là một cộng sự sẵn sàng làm việc mặc dù nó không quan tâm đến thức ăn. Tại sao lại như vậy? Điều này có thể làm được với nguyên tắc tương hỗ. Thực sự có rất nhiều bằng chứng ở các loài linh trưởng và động vật khác rằng chúng trả ơn nhau. Như vậy nó sẽ được trả ơn ở một lúc nào đó trong tương lai. Và đó là cách mà tất cả điều này hoạt động.
We do the same task with elephants. Now, it's very dangerous to work with elephants. Another problem with elephants is that you cannot make an apparatus that is too heavy for a single elephant. Now you can probably make it, but it's going to be a pretty clumsy apparatus, I think. And so what we did in that case -- we do these studies in Thailand for Josh Plotnik -- is we have an apparatus around which there is a rope, a single rope. And if you pull on this side of the rope, the rope disappears on the other side. So two elephants need to pick it up at exactly the same time, and pull. Otherwise nothing is going to happen and the rope disappears.
Chúng tôi thực hiện thí nghiệm tương tự đối với loài voi. Đối với voi, thật nguy hiểm khi làm việc với loài voi. Một vấn đề khác với loài voi là bạn không thể làm một dụng cụ mà quá nặng đối với một con voi. Bây giờ bạn có thể làm được nó, nhưng tôi nghĩ đó sẽ là một dụng cụ khá là mỏng manh Và đây là những gì chúng tôi đã làm trong trường hợp đó -- chúng tôi thực hiện những nghiên cứu này ở Thái Lan cho Josh Plotnik -- chúng tôi có một dụng cụ mà bao quanh là một sợi dây thừng, một sợi dây thừng đơn Và nếu bạn kéo đầu này của sợi dây, thì nó biến mất ở đầu bên kia. Vì vậy hai con voi này cần phải nhấc sợi dây thừng lên cùng một lúc và kéo. Nếu không thì sẽ chẳng có điều gì xảy ra và sợi dây thừng biến mất.
The first tape you're going to see is two elephants who are released together arrive at the apparatus. The apparatus is on the left, with food on it. And so they come together, they arrive together, they pick it up together, and they pull together. So it's actually fairly simple for them. There they are. So that's how they bring it in. But now we're going to make it more difficult. Because the purpose of this experiment is to see how well they understand cooperation. Do they understand that as well as the chimps, for example?
Và ở đoạn băng đầu tiên bạn sẽ thấy rằng hai con voi này đều được thả đến chỗ dụng cụ. Dụng cụ này ở bên trái và có thức ăn trên đó. Và vì vậy chúng cùng đi và cùng đến, chúng nhấc dây thừng lên cùng lúc và cùng nhau kéo. Điều này thực sự khá là đơn giản so với chúng. Đây là chúng. Và đây là cách mà chúng thực hiện nó. Nhưng bây giờ chúng tôi sẽ làm nó khó hơn. Vì mục đích chính của thí nghiệm này là để xem chúng hiểu về việc hợp tác như thế nào. LIệu chúng có hiểu việc đó tốt như loài tinh tinh không, chẳng hạn?
What we do in the next step is we release one elephant before the other and that elephant needs to be smart enough to stay there and wait and not pull at the rope -- because if he pulls at the rope, it disappears and the whole test is over. Now this elephant does something illegal that we did not teach it. But it shows the understanding he has, because he puts his big foot on the rope, stands on the rope and waits there for the other, and then the other is going to do all the work for him. So it's what we call freeloading.
Và vì vậy điều mà chúng tôi thực hiện ở bước tiếp theo là thả một con voi trước con còn lại và con voi này cần phải đủ thông minh để đứng ở đó đợi mà không kéo sợi dây -- vì nếu nó kéo một đầu sợi dây thì sợi dây sẽ biến mất và thí nghiệm coi như xong. Giờ đây, con voi này làm một điều không hợp pháp mà chúng tôi đã không hề dạy cho nó. Nhưng đã cho thấy được nó hiểu việc này như thế nào vì nó đặt bàn chân to của nó lên sợi dây thừng, đứng trên sợi dây và ở đó đợi con còn lại, và rồi con còn lại sẽ thực hiện tất cả công việc cho nó. Vì vậy chúng tôi gọi nó là ăn chực.
(Laughter)
(Cười)
But it shows the intelligence that the elephants have. They developed several of these alternative techniques that we did not approve of, necessarily.
Nhưng điều này cho thấy loài voi thông minh như thế nào. Chúng phát triển một vài kỹ năng thay thế như thế này mà chúng tôi không nhất thiết phải chấp nhận.
(Laughter)
Con voi còn lại bây giờ đang tiến đến
So the other elephant is now coming ... and is going to pull it in. Now look at the other; it doesn't forget to eat, of course.
và sẽ kéo sợi dây. Bây giờ hãy xem con còn lại. Dĩ nhiên là con kia không quên ăn thức ăn.
(Laughter)
(Cười)
This was the cooperation and reciprocity part.
Đó gọi là sự hợp tác, hỗ trợ.
Now something on empathy. Empathy is my main topic at the moment, of research. And empathy has two qualities: One is the understanding part of it. This is just a regular definition: the ability to understand and share the feelings of another. And the emotional part. Empathy has basically two channels: One is the body channel, If you talk with a sad person, you're going to adopt a sad expression and a sad posture, and before you know it, you feel sad. And that's sort of the body channel of emotional empathy, which many animals have. Your average dog has that also. That's why people keep mammals in the home and not turtles or snakes or something like that, who don't have that kind of empathy. And then there's a cognitive channel, which is more that you can take the perspective of somebody else. And that's more limited. Very few animals, I think elephants and apes, can do that kind of thing.
Bây giờ là về sự đồng cảm. Sự đồng cảm là chủ đề chính của tôi tại thời điểm nghiên cứu. Và sự đồng cảm có hai loại phẩm chất. Một là sự hiểu biết về nó. Đây chỉ là một định nghĩa thông thường: khả năng hiểu và chia sẻ với cảm xúc của người khác. Và hai là phần xúc cảm. Vì vậy về cơ bản sự đồng cảm có hai kênh. Một là kênh cơ thể. Nếu bạn nói chuyện với một người nào đó đang buồn, bạn sẽ nhận thấy sự biểu lộ tâm trạng buồn và một cử chỉ buồn, và trước khi bạn biết điều đó thì bạn đã cảm thấy buồn. Và đó phần nào là kênh cơ thể của sự đồng cảm về cảm xúc, khả năng mà nhiều loài động vật có được. Chú chó nhà các bạn cũng có khả năng này. Đó thực sự là lý do vì sao người ta nuôi các động vật có vú ở trong nhà chứ không phải rùa hay rắn hay một loài nào khác tương tự mà không có kiểu đồng cảm đó. Và thứ hai, đó là kênh nhận thức, là việc bạn có thể hiểu quan điểm của người khác. Và điều này thì hạn chế hơn. Chỉ có một số ít loài động vật có khả năng này -- Tôi nghĩ voi và tinh tinh có thể làm điều này -- nhưng chỉ có một số ít động vật có khả năng như thế.
So synchronization, which is part of that whole empathy mechanism, is a very old one in the animal kingdom. In humans, of course, we can study that with yawn contagion. Humans yawn when others yawn. And it's related to empathy. It activates the same areas in the brain. Also, we know that people who have a lot of yawn contagion are highly empathic. People who have problems with empathy, such as autistic children, they don't have yawn contagion. So it is connected.
Sự đồng bộ hóa, một phần của toàn bộ cơ chế đồng cảm là một điều rất cổ xưa trong thế giới loài vật. Và ở loài người dĩ nhiên chúng ta có thể nghiên cứu điều đó thông qua việc ngáp lây lan. Con người ngáp khi những người khác ngáp. Và nó có liên quan đến sự đồng cảm. Nó kích hoạt những khu vực giống nhau trong não. Cũng như vậy, chúng ta biết rằng người mà hay bị ngáp lây thì rất đồng cảm. Những người có vấn đề với sự đồng cảm, như là trẻ em bị chứng tự kỷ họ không có khă năng ngáp lây lan. Và vì thế chúng có liên quan với nhau.
And we study that in our chimpanzees by presenting them with an animated head. So that's what you see on the upper-left, an animated head that yawns. And there's a chimpanzee watching, an actual real chimpanzee watching a computer screen on which we play these animations.
Và chúng tôi nghiên cứu vấn đề này ở loài tinh tinh bằng cách cho chúng thấy cái đầu hoạt hình. Đó là những gì các bạn nhìn thấy ở bên trên phía trái là một cái đầu hoạt hình đang ngáp. Và có một con tinh tinh đang xem hoạt động này, một con tinh tinh thật đang xem qua màn ảnh máy tính mà trên đó chúng tôi cho chạy hình ảnh động này.
(Laughter)
(Cười)
So yawn contagion that you're probably all familiar with -- and maybe you're going to start yawning soon now -- is something that we share with other animals. And that's related to that whole body channel of synchronization that underlies empathy, and that is universal in the mammals, basically.
Ngáp lây lan , các bạn có thể đều đã quen với việc này -- và có thể bạn cũng sẽ bắt đầu ngáp sớm thôi -- là điều gì đó mà bạn có thể chia sẻ với các loài động vật khác. Và nó liên quan đến toàn bộ kênh cơ thể của sự đồng bộ hóa là nền tảng cho sự đồng cảm và điều này cơ bản rất phổ biến ở các loài động vật có vú.
We also study more complex expressions -- This is consolation. This is a male chimpanzee who has lost a fight and he's screaming, and a juvenile comes over and puts an arm around him and calms him down. That's consolation. It's very similar to human consolation. And consolation behavior --
Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu những thể hiện phức tạp hơn. Đó là sự an ủi. Đây là một con tinh tinh đực vừa thua trận và nó đang la hét, và một con tinh tinh nhỏ khác đến và đặt một cánh tay vòng qua con tinh tinh đực này và an ủi nó. Đó là sự an ủi. Nó rất giống với sự an ủi ở con người. Và hành vi an ủi,
(Laughter)
được điều khiển bởi sự đồng cảm.
it's empathy driven. Actually, the way to study empathy in human children is to instruct a family member to act distressed, and then to see what young children do. And so it is related to empathy, and that's the kind of expressions we look at.
Thực sự thì phương pháp nghiên cứu sự đồng cảm ở trẻ em là hướng dẫn một thành viên trong gia đình hành động như đang thất vọng và rồi chúng thấy những gì mà đứa trẻ nhỏ làm. Và vì thế nó liên quan đến sự đồng cảm, và đó là những biểu hiện mà chúng ta thấy. Gần đây chúng tôi cũng đã công bố một thí nghiệm mà các bạn có thể đã nghe nói đến.
We also recently published an experiment you may have heard about. It's on altruism and chimpanzees, where the question is: Do chimpanzees care about the welfare of somebody else? And for decades it had been assumed that only humans can do that, that only humans worry about the welfare of somebody else. Now we did a very simple experiment. We do that on chimpanzees that live in Lawrenceville, in the field station of Yerkes. And so that's how they live. And we call them into a room and do experiments with them. In this case, we put two chimpanzees side-by-side, and one has a bucket full of tokens, and the tokens have different meanings. One kind of token feeds only the partner who chooses, the other one feeds both of them.
Đó là về lòng vị tha và loài tinh tinh mà câu hỏi đặt ra ở đó là, tinh tinh có quan tâm đến lợi ích của ai đó khác hay không? Và qua hàng thế kỷ, người ta cho rằng chỉ có duy nhất loài người có thể làm được điều đó, chỉ có duy nhất con người quan tâm đến lợi ích của một ai đó khác. Chúng tôi đã thực hiện một thí nghiệm rất đơn giản. Chúng tôi làm điều này trên loài tinh tinh sống ở Lawrnceville, ở trạm thực địa Yerkes. Và đó là cách chúng sống. Chúng tôi mang chúng đến một căn phòng và thực hiện thí nghiệm với chúng. Trong trường hợp này, chúng tôi để hai con tinh tinh kế bên nhau. và một con có một giỏ đầy token, và những token này có ý nghĩa khác nhau. Một loại token nghĩa là chỉ cho duy nhất con tinh tinh đã thực hiện lựa chọn được ăn, loại token còn lại là cho ăn cả hai.
So this is a study we did with Vicki Horner. And here, you have the two color tokens. So they have a whole bucket full of them. And they have to pick one of the two colors. You will see how that goes. So if this chimp makes the selfish choice, which is the red token in this case, he needs to give it to us, we pick it up, we put it on a table where there's two food rewards, but in this case, only the one on the right gets food. The one on the left walks away because she knows already that this is not a good test for her. Then the next one is the pro-social token.
Đây là nghiên cứu chúng tôi đã làm với Vicky Horner. Và bạn có ở đây token với hai màu khác nhau. Chúng có một giỏ đầy token và chúng phải chọn một trong số 2 màu. Các bạn sẽ thấy chúng sẽ hành xử như thế nào. Nếu con tinh tinh này có một sự lựa chọn ích kỷ trong trường hợp này là chọn lấy token màu đỏ nó cần phải đưa token cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ lấy token và đặt trên bàn nơi để hai phần thưởng thức ăn, nhưng trong trường hợp này chỉ có con bên phải có thức ăn. Con bên trái bỏ đi vì nó đã biết rằng thí nghiệm này không có lợi cho nó. Tiếp theo con tinh tinh lựa chọn token "ủng hộ xã hội".
So the one who makes the choices -- that's the interesting part here -- for the one who makes the choices, it doesn't really matter. So she gives us now a pro-social token and both chimps get fed. So the one who makes the choices always gets a reward. So it doesn't matter whatsoever. And she should actually be choosing blindly. But what we find is that they prefer the pro-social token. So this is the 50 percent line, that's the random expectation. And especially if the partner draws attention to itself, they choose more.
Con tinh tinh thực hiện lựa chọn -- phần thú vị là ở đây -- đối với con thực hiện lựa chọn, điều này thực sự không quan trọng. Nó đưa cho chúng tôi token "ủng hộ xã hội" và cả hai con đều được ăn. Con thực hiện lựa chọn luôn nhận được thức ăn. Vì vậy điều này thực sự không quan trọng. Và vì vậy, nó thực sự chỉ cần lựa chọn ngẫu nhiên. Nhưng điều mà chúng tôi nhận thấy là phần lớn chúng chọn những token mang ý nghĩa ủng hộ tính xã hội. Đây là hàng 50% thể hiện ước tính ngẫu nhiên. Và đặc biệt nếu con cộng sự gây chú ý, chúng sẽ chọn nhiều hơn.
And if the partner puts pressure on them -- so if the partner starts spitting water and intimidating them -- then the choices go down.
và nếu con cộng sự gây áp lực đối với chúng -- nếu con cộng sự bắt đầu phun nước và uy hiếp chúng -- thì lựa chọn sẽ giảm.
(Laughter)
Như thể là chúng nói,
It's as if they're saying, "If you're not behaving, I'm not going to be pro-social today." And this is what happens without a partner, when there's no partner sitting there. So we found that the chimpanzees do care about the well-being of somebody else -- especially, these are other members of their own group.
"Nếu bạn không cư xử cho phải phép thì hôm nay tôi sẽ không ủng hộ bạn đâu." Và đây là những gì xảy ra khi không có con cộng sự, khi không có con cộng sự ngồi ở đó. Và vì vậy chúng tôi nhận thấy rằng những con tinh tinh có quan tâm đến lợi ích của ai đó -- đặc biệt khi đó là những thành viên trong nhóm của chúng.
So the final experiment that I want to mention to you is our fairness study. And so this became a very famous study. And there are now many more, because after we did this about 10 years ago, it became very well-known. And we did that originally with capuchin monkeys. And I'm going to show you the first experiment that we did. It has now been done with dogs and with birds and with chimpanzees. But with Sarah Brosnan, we started out with capuchin monkeys.
Và thí nghiệm cuối cùng mà tôi muốn đề cập đến là nghiên cứu của chúng tôi về sự công bằng. Thí nghiệm này đã trở nên rất nổi tiếng. Và hiện tại đang được nhân rộng hơn nữa, vì sau khi chúng tôi thực hiện thí nghiệm này cách đây khoảng 10 năm trước, nó đã trở nên rất nổi tiếng. Ban đầu chúng tôi thực hiện thí nghiệm này với loài khỉ mũ. Tôi sẽ cho các bạn thấy thí nghiệm đầu tiên mà chúng tôi đã tiến hành. Bây giờ nó được thực hiện với loài chó và chim và tinh tinh. Nhưng cùng với Sarah Brosnan, chúng tôi đã bắt đầu với loài khỉ mũ.
So what we did is we put two capuchin monkeys side-by-side. Again, these animals, live in a group, they know each other. We take them out of the group, put them in a test chamber. And there's a very simple task that they need to do. And if you give both of them cucumber for the task, the two monkeys side-by-side, they're perfectly willing to do this 25 times in a row. So cucumber, even though it's only really water in my opinion, but cucumber is perfectly fine for them. Now if you give the partner grapes -- the food preferences of my capuchin monkeys correspond exactly with the prices in the supermarket -- and so if you give them grapes -- it's a far better food -- then you create inequity between them. So that's the experiment we did.
Và để thực hiện, chúng tôi đặt hai con khỉ mũ ngồi kế bên nhau. Một lần nữa, loài động vật này, chúng sinh sống theo bầy đàn, và chúng biết nhau. Chúng tôi tách chúng ra khỏi nhóm và mang chúng đến phòng thử nghiệm. Và có một nhiệm vụ rất đơn giản mà chúng phải thực hiện. Ở nhiệm vụ này, nếu bạn đưa cho cả hai con dưa leo hai con khỉ mũ ngồi kế bên nhau này, sẵn sàng làm điều này 25 lần liên tiếp. Mặc dù thực sự thì dưa leo chỉ có nước, theo quan điểm của tôi, nhưng dưa leo thì hoàn toàn ổn với chúng. Nếu các bạn đưa nho cho một con -- thức ăn yêu thích của loài khỉ mũ tương ứng chính xác với mức giá trong siêu thị -- và nếu bạn đưa cho chúng nho -- loại thức ăn ngon gấp nhiều lần -- thì bạn sẽ tạo ra sự không công bằng giữa chúng. Và đó là thí nghiệm mà chúng tôi đã thực hiện.
Recently, we videotaped it with new monkeys who'd never done the task, thinking that maybe they would have a stronger reaction, and that turned out to be right. The one on the left is the monkey who gets cucumber. The one on the right is the one who gets grapes. The one who gets cucumber -- note that the first piece of cucumber is perfectly fine. The first piece she eats. Then she sees the other one getting grape, and you will see what happens. So she gives a rock to us. That's the task. And we give her a piece of cucumber and she eats it. The other one needs to give a rock to us. And that's what she does. And she gets a grape ... and eats it. The other one sees that. She gives a rock to us now, gets, again, cucumber.
Gần đây chúng tôi ghi hình thí nghiệm này với những con khỉ mới chưa bao giờ thực hiện nhiệm vụ kể trên, với ý nghĩ rằng có thể chúng sẽ phản ứng mạnh hơn, và hóa ra là đúng như vậy. Con khỉ bên trái là con nhận được dưa leo Con khỉ bên phải là con nhận được nho. Con khỉ nhận được dưa leo nhận thấy rằng miếng dưa leo đầu tiên là hoàn toàn ổn. Nó ăn miếng đầu tiên. Rồi nó thấy con kia nhận được nho, và các bạn sẽ thấy điều gì xảy ra. Nó đưa cho chúng tôi viên đá. Đó là nhiệm vụ. Và chúng tôi đưa cho nó một miếng dưa leo và nó ăn. Con kia cần phải đưa cho chúng tôi một viên đá. Và đó là những gì nó làm. Nó lấy nho rồi ăn. Con kia thấy điều đó. Nó đưa cho chúng tôi viên đá. nhận được, lại một lần nữa, dưa leo
(Laughter)
(Cười)
(Laughter ends)
Nó thử ném viên đá vào tường.
She tests a rock now against the wall. She needs to give it to us. And she gets cucumber again.
Nó cần đưa viên đá cho chúng tôi. Và nó nhận được dưa leo tiếp.
(Laughter)
(Cười)
So this is basically the Wall Street protest that you see here.
Đây cơ bản là sự phản đối Wall Street mà bạn thấy ở đây.
(Laughter)
(Cười)
(Applause)
(Vỗ tay)
I still have two minutes left -- let me tell you a funny story about this. This study became very famous and we got a lot of comments, especially anthropologists, economists, philosophers. They didn't like this at all. Because they had decided in their minds, I believe, that fairness is a very complex issue, and that animals cannot have it. And so one philosopher even wrote us that it was impossible that monkeys had a sense of fairness because fairness was invented during the French Revolution.
Để tôi kể cho các bạn nghe -- Tôi vẫn còn hai phút nữa và cho phép tôi kể cho các bạn nghe một câu chuyện vui. Nghiên cứu này đã trở nên rất nổi tiếng và chúng tôi nhận được rất nhiều ý kiến, đặc biệt là từ các nhà nhân chủng học, các nhà kinh tế, và các triết gia. Họ không thích thí nghiệm này chút nào. Vì họ đã định trong đầu mình rằng, tôi tin, rằng sự công bằng là một vấn đề rất phức tạp và rằng động vật không thể có khả năng này. Và một nhà triết học thậm chí viết cho chúng tôi rằng loài khỉ không thể nào có tính công bằng được. vì tính công bằng chỉ được phát hiện trong Cách Mạng Pháp.
(Laughter)
(Cười)
And another one wrote a whole chapter saying that he would believe it had something to do with fairness, if the one who got grapes would refuse the grapes. Now the funny thing is that Sarah Brosnan, who's been doing this with chimpanzees, had a couple of combinations of chimpanzees where, indeed, the one who would get the grape would refuse the grape until the other guy also got a grape. So we're getting very close to the human sense of fairness. And I think philosophers need to rethink their philosophy for a while.
Một người khác đã viết cả một chương nói rằng anh ta tin rằng phải có cái gì đó liên quan đến sự công bằng nếu con khỉ nhận được nho từ chối lấy nho. Điều thú vị là Sarah Brosnan người thực hiện thí nghiệm này với loài tinh tinh, đã kết hợp một cặp tinh tinh mà, con tinh tinh nhận được nho thực sự sẽ từ chối lấy nho cho đến khi con kia cũng nhận được nho. Vì vậy, chúng ta đang tiến rất gần đến với tính công bằng ở loài người. Và tôi nghĩ rằng các nhà triết học cần suy nghĩ lại triết lý của họ một chút.
So let me summarize. I believe there's an evolved morality. I think morality is much more than what I've been talking about, but it would be impossible without these ingredients that we find in other primates, which are empathy and consolation, pro-social tendencies and reciprocity and a sense of fairness. And so we work on these particular issues to see if we can create a morality from the bottom up, so to speak, without necessarily god and religion involved, and to see how we can get to an evolved morality.
Thế nên cho phép tôi được tóm tắt lại. Tôi tin rằng có một sự tiến hóa về đạo đức. Tôi nghĩ rằng đạo đức còn to lớn hơn nhiều những gì mà tôi đã nói, nhưng sẽ không thể nếu thiếu những yếu tố mà chúng ta thấy ở những loài động vật linh trưởng khác đó chính là sự đồng cảm và an ủi, xu hướng ủng hộ xã hội, sự tương hỗ và tính công bằng. Và vì vậy chúng tôi nghiên cứu về những vấn đề đặc biệt này để thấy rằng chúng ta có thể tạo ra một nền đạo đức từ dưới lên, có thể nói như vậy, không nhất thiết phải có liên hệ đến Chúa trời và tôn giáo, và để thấy làm thế nào mà chúng ta có thể có một sự tiến hóa về đạo đức.
And I thank you for your attention.
Cảm ơn các bạn đã chú ý lắng nghe.
(Applause)
(Vỗ tay)