Adam Ockelford: I promise there won't be too much of me talking, and a lot of Derek playing, but I thought it would just be nice to recap on how Derek got to where he is today.
Adam Ockelford: Tôi cam đoan rằng tôi sẽ không nói quá nhiều và nhường phần cho Derek chơi nhiều hơn. nhưng tôi nghĩ là sẽ hay hơn nếu tôi tóm tắt lại hành trình Derek đến được với chúng ta ngày hôm nay.
It's amazing now, because he's so much bigger than me, but when Derek was born, he could have fitted on the palm of your hand. He was born three and a half months premature, and really it was a fantastic fight for him to survive. He had to have a lot of oxygen, and that affected your eyes, Derek, and also the way you understand language and the way you understand the world. But that was the end of the bad news, because when Derek came home from the hospital, his family decided to employ the redoubtable nanny who was going to look after you, Derek, really for the rest of your childhood. And Nanny's great insight, really, was to think, here's a child who can't see. Music must be the thing for Derek. And sure enough, she sang, or as Derek called it, warbled, to him for his first few years of life. And I think it was that excitement with hearing her voice hour after hour every day that made him think maybe, you know, in his brain something was stirring, some sort of musical gift. Here's a little picture of Derek going up now, when you were with your nanny.
Thật là thú vị bởi vì Derek to lớn hơn tôi rất nhiều nhưng khi Derek chào đời, cậu ấy chỉ vừa vặn lòng bàn tay của một người mà thôi. Cậu ấy sinh non 3 tháng rưỡi, và đó thực sự là một cuộc chiến đấu không tưởng đối với cậu để tồn tại. Cậu ấy phải được cung cấp nhiều ôxi để thở, và điều đó đã làm ảnh hưởng tới mắt của cậu đấy, Derek, và ảnh hưởng cả đến cái cách mà cậu hiểu về ngôn ngữ và cái cách mà cậu hiểu về thế giới. Tuy nhiên sẽ không còn tin xấu nào nữa, bởi vì khi Derek xuất viện về nhà, gia đình cậu quyết định thuê một người vú nuôi gan góc người đã chăm sóc cậu đấy, Derek, trong suốt thời ấu thơ của cậu. Và Nanny, với sự hiểu biết sâu sắc khi nghĩ rằng đây là đứa trẻ khiếm thị Âm nhạc là thứ rất cần cho Derek. và khi đã chắc chắn như thế, cô ấy hát , hoặc như các mà Derek thường gọi, hót cho cậu nghe trong suốt những năm đầu đời Và tôi nghĩ rằng thật sự thích thú khi được nghe giọng của cô ấy hàng giờ mỗi ngày đã khiến cho cậu ấy nghĩ rằng -có lẽ, như các bạn biết đấy, trong não cậu ấy một thứ gì đấy đang bị kích động- thứ gì đấy như là tài năng về âm nhạc Đây là một bức ảnh nhỏ của Derek dần dần trưởng thành khi cậu ấy bên vú nuôi.
Now Nanny's great other insight was to think, perhaps we should get Derek something to play, and sure enough, she dragged this little keyboard out of the loft, never thinking really that anything much would come of it. But Derek, your tiny hand must have gone out to that thing and actually bashed it, bashed it so hard they thought it was going to break. But out of all the bashing, after a few months, emerged the most fantastic music, and I think there was just a miracle moment, really, Derek, when you realized that all the sounds you hear in the world out there is something that you can copy on the keyboard. That was the great eureka moment.
Và bây giờ người vú nuôi với sự thấu hiểu tuyệt vời nghĩ rằng, có lẽ chúng ta nên để Derek chơi một loại nhạc cụ nào đó, và chắc rằng, cô ấy đã lôi cây đàn organ nho nhỏ này ra khỏi gác xép mà không thực sự nghĩ rằng một điều gì kỳ diệu sẽ xảy ra. Thế nhưng Derek, bàn tay bé xíu của cậu hẳn đã lướt trên phím đàn và thực sự đánh mạnh vào nó, đánh mạnh đến nỗi họ nghĩ rằng nó sắp vỡ mất. Nhưng từ những tiếng ấn mạnh ấy, chỉ sau vài tháng, đã phát một thứ âm nhạc tuyệt vời, và tôi nghĩ đó thực sự là một khoảnh khắc nhiệm mầu, Derek này, khi cậu nhận thức được rằng tất cả những âm thanh mà cậu nghe được từ thế giới ngoài kia là có một thứ gì đó cậu có thể sao chép lại trên phím đàn. Đó chính là khoảnh khắc Eureka (Tìm ra rồi!Tìm ra rồi).
Now, not being able to see meant, of course, that you taught yourself.
Hiện tại, việc bị khiếm thị, tất nhiên, có nghĩa là bản thân cậu đã phải tự dạy cho chính mình.
Derek Paravicini: I taught myself to play.
Derek Paravicini: Tôi tự dạy mình cách chơi đàn.
AO: You did teach yourself to play, and as a consequence, playing the piano for you, Derek, was a lot of knuckles and karate chops, and even a bit of nose going on in there.
AO: Cậu đã tự dạy mình chơi đàn và kết quả là, chơi piano đối với cậu mà nói, Derek, là vận dụng rất nhiều khớp nối và những cú chặt hiểm trong ka-ra-tê, và thậm chí là dùng cả mũi!
And now, here's what Nanny did also do was to press the record button on one of those little early tape recorders that they had, and this is a wonderful tape, now, of Derek playing when you were four years old.
Và, đây là những gì mà người vú nuôi cũng đã làm, đó là ấn nút ghi âm trên một trong những chiếc máy ghi âm nhỏ mà họ có, và đây thực là cuốn băng tuyệt diệu ghi âm lại lúc Derek chơi đàn khi cậu mới bốn tuổi đấy.
DP: "Molly Malone (Cockles and Mussels)."
DP: "Molly Malone (Những vò sỏ và những con trai)."
AO: It wasn't actually "Cockles and Mussels." This one is "English Country Garden."
AO: Thực sự nó không phải là "Những vò sỏ và những con trai" Bản này là " Đồng quê nước Anh."
DP: "English Country Garden."
DP: "Đồng quê nước Anh."
(Music: "English Country Garden")
(Âm nhạc: "Đồng quê nước Anh"
AO: There you are.
AO: Đây rồi.
(Applause)
(Vỗ tay)
I think that's just fantastic. You know, there's this little child who can't see, can't really understand much about the world, has no one in the family who plays an instrument, and yet he taught himself to play that. And as you can see from the picture, there was quite a lot of body action going on while you were playing, Derek.
Tôi nghĩ đó là điều thật sự tuyệt vời. Các bạn biết không, đứa trẻ nhỏ này, người mà không thể nhìn thấy, không thể thực sự hiểu biết nhiều về thế giới, không có ai trong gia đình cậu chơi nhạc cụ cả, vậy mà cậu ấy lại tự dạy mình chơi đàn. Như quý vị có thể thấy trong bức hình, có khá nhiều cử chỉ hình thể diễn ra khi cậu chơi đàn, Derek à.
Now, along -- Derek and I met when he was four and a half years old, and at first, Derek, I thought you were mad, to be honest, because when you played the piano, you seemed to want to play every single note on the keyboard, and also you had this little habit of hitting me out of the way. So as soon as I tried to get near the piano, I was firmly shoved off. And having said to your dad, Nic, that I would try to teach you, I was then slightly confused as to how I might go about that if I wasn't allowed near the piano. But after a while, I thought, well, the only way is to just pick you up, shove Derek over to the other side of the room, and in the 10 seconds that I got before Derek came back, I could just play something very quickly for him to learn. And in the end, Derek, I think you agreed that we could actually have some fun playing the piano together. As you can see, there's me in my early, pre-marriage days with a brown beard, and little Derek concentrating there.
Vâng, tôi và Derek gặp gỡ nhau vào lúc cậu ấy bốn tuổi rưỡi, và thoạt đầu, Derek à, thú thật tôi cứ nghĩ là cậu khá kích động đấy, thành thật mà nói, bởi vì khi cậu chơi đàn piano, cậu dường như muốn chạm hết tất cả các phím đàn, và cậu cũng có thói quen nho nhỏ này là xua đuổi tôi. Và thế là ngay khi tôi cố tiến gần đến đàn piano, tôi sẽ bị đẩy ra xa. Và tôi đã đề cập vấn đề này với cha cậu, Nick, rằng tôi sẽ cố gắng dạy cậu, và sau đó tôi hơi chút rối trí khi mà làm sao tôi có thể dạy nếu như tôi không được phép đến gần đàn piano. Nhưng rồi sau một hồi, tôi thoáng nghĩ, chà, cách duy nhất chỉ là lôi cậu ra khỏi đó và đẩy cậu đến một góc khác của căn phòng, và trong 10 giây có được trước khi Derek trở lại tôi có thể nhanh chóng chơi một bản nào đó để cậu ấy có thể học được. Và cuối cùng thì, Derek à, tôi nghĩ là cậu cũng đã đồng ý với tôi rằng chúng ta thực chất có thể có được niềm vui khi chơi nhạc cùng nhau Và các bạn có thể thấy được, đó là tôi trước đây, trong những ngày trước khi cưới với bộ râu màu nâu, và Derek bé nhỏ của chúng ta ở đằng kia.
I just realized this is going to be recorded, isn't it? Right. Okay.
Tôi chỉ kịp nhận ra rằng điều này sẽ được ghi âm lại, đúng chứ? Đúng rồi. Vâng
(Laughter)
(Cười)
Now then, by the age of 10, Derek really had taken the world by storm. This is a photo of you, Derek, playing at the Barbican with the Royal Philharmonic Pops. Basically it was just an exciting journey, really. And in those days, Derek, you didn't speak very much, and so there was always a moment of tension as to whether you'd actually understood what it was we were going to play and whether you'd play the right piece in the right key, and all that kind of thing. But the orchestra were wowed as well, and the press of the world were fascinated by your ability to play these fantastic pieces.
Và sau đó, trước khi tròn 10 tuổi, Derek đã thực sự khiến mọi người kinh ngạc. Đây là bức hình của cậu, Derek à, lúc đó đang chơi tại Barbican với dàn nhạc giao hưởng Royal Philharmonic Pops Quan trọng là đó thực sự là một cuộc hành trình thú vị. Và trong những ngày ấy, Derek, cậu chẳng nói là bao nhiêu, và luôn luôn có giây phút căng thẳng khi nghĩ đến việc liệu cậu có thực sự hiểu được những gì mà chúng ta sẽ chơi và liệu cậu có chơi đúng bản nhạc với đúng nốt nhạc hay không, và những chuyện đại loại như thế. Nhưng dàn nhạc còn ngạc nhiên không kém, báo chí thế giới ấn tượng bởi khả năng của cậu có thể chơi những bản nhạc tuyệt vời như vậy.
Now the question is, how do you do it, Derek? And hopefully we can show the audience now how it is you do what you do.
Và vấn đề bây giờ là, cậu đã làm điều đó như thế nào vậy Derek? Và hy vọng rằng chúng tôi có thể cho khán giả ở đây thấy được cách mà cậu đã làm.
I think that one of the first things that happened when you were very little, Derek, was that by the time you were two, your musical ear had already outstripped that of most adults. And so whenever you heard any note at all -- if I just play a random note -- (Piano notes) -- you knew instantly what it was, and you'd got the ability as well to find that note on the piano. Now that's called perfect pitch, and some people have perfect pitch for a few white notes in the middle of the piano.
Tôi nghĩ là một trong những điều đầu tiên đã xảy đến khi cậu còn rất nhỏ, Derek, chính là khoảng thời gian khi cậu được hai tuổi, đôi tai cảm nhạc của cậu đã có thể bỏ xa hầu hết những người lớn. Và chính vì vậy mà mỗi khi cậu nghe được bất kỳ nốt nhạc nào -- nếu tôi chơi một nốt nhạc ngẫu nhiên -- (Nốt nhạc piano) -- và cậu ngay lập tức biết được đó là nốt nào, và cậu cũng sở hữu khả năng tìm ra nốt nhạc đó trên bàn phím. Và đó gọi là cao độ hoàn hảo, và một số người có độ cảm hoàn hảo đối với những phím trắng ở giữa cây đàn piano.
(Piano notes)
(Nốt nhạc piano)
You can see how -- you get a sense of playing with Derek.
Và các bạn có thể hiểu rằng bằng cách nào mình lại có một độ cảm nhạy khi chơi đàn cùng Derek.
(Applause)
(Cười)
But Derek, your ear is so much more than that. If I just put the microphone down for a bit, I'm going to play a cluster of notes. Those of you who can see will know how many notes, but Derek, of course, can't. Not only can you say how many notes, it's being able to play them all at the same time. Here we are.
Tuy nhiên Derek à, đôi tai của cậu còn tốt hơn thế nhiều. Nếu tôi chỉ đơn giản là bỏ micro xuống chốc lát, tôi sẽ chơi một tổ hợp các phím nhạc. Quý vị ở đây có thể sẽ biết được có bao nhiêu nốt, nhưng Derek dĩ nhiên là không thể. Không chỉ cậu có thể nói được có bao nhiêu nốt nhạc, mà cậu còn có thể chơi chúng cùng lúc. Đây chúng ta cùng thử xem.
(Chords)
(Hợp âm)
Well, forget the terminology, Derek. Fantastic. And it's that ability, that ability to hear simultaneous sounds, not only just single sounds, but when a whole orchestra is playing, Derek, you can hear every note, and instantly, through all those hours and hours of practice, reproduce those on the keyboard, that makes you, I think, is the basis of all your ability.
À, hãy quên đi các thuật ngữ,Derek à. Thật tuyệt vời. Và đó chính là khả năng đó, khả năng có thể nghe các nốt nhạc được chơi cùng một lúc, chứ không đơn giản là đơn âm, nhưng khi cả một dàn nhạc đang chơi, Derek, cậu có thể nghe từng nốt rõ ràng, và ngay lập tức, bỏ qua hàng giờ hàng giờ luyện tập, có thể chơi lại những nốt nhạc đó trên phím đàn, và điều đó, tôi nghĩ rằng chính là nền tảng của mọi tài năng của cậu.
Now then. It's no use having that kind of raw ability without the technique, and luckily, Derek, you decided that, once we did start learning, you'd let me help you learn all the scale fingerings. So for example using your thumb under with C major.
Và tiếp theo. Sẽ là vô dụng nếu như có khả năng nguyên sơ như thế mà không qua gọt giũa, và may mắn thay, Derek, cậu đã quyết định rằng, một khi chúng ta bắt đầu học, cậu sẽ để tôi giúp cậu học các ngón bấm thang âm. Đơn cử như hãy dùng ngón cái của cậu xuống âm đô trưởng.
(Piano notes)
(Nốt nhạc đàn piano)
Etc.
Vân vân.
And in the end, you got so quick, that things like "Flight of the Bumblebee" were no problem, were they?
và cuối cùng, cậu có thể tiếp thu rất nhanh những bản như "Chuyến bay của Bumblebee" sẽ không là vấn đề gì đối cậu cậu, phải không?
DP: No.
Vâng, phải.
AO: Right. So here, by the age of 11, Derek was playing things like this.
Đúng rồi. Vì thế mà, trước năm 11 tuổi, Derek đã chơi được những bản như thế này.
DP: This.
Đây.
(Music: "Flight of the Bumblebee") (Applause)
(Âm nhạc: "Chuyến bay của Bumblebee") (Vỗ tay)
AO: Derek, let's have a bow.
AO: Derek, hãy đứng dậy chào khán giả.
Well done.
Tốt lắm.
Now the truly amazing thing was, with all those scales, Derek, you could not only play "Flight of the Bumblebee" in the usual key, but any note I play, Derek can play it on. So if I just choose a note at random, like that one. (Piano notes) Can you play "Flight of the Bumblebee" on that note?
Và bây giờ điều tuyệt vời hơn cả chính là với những gam âm như thế, Derek à, cậu không chỉ có thể chơi bản "Chuyến bay của Bumblebee" với những nốt nhạc bình thường thôi đâu, mà còn với bất cứ nốt nào tôi chơi. Derek có thể tiếp tục với những nốt nhạc đó. Vì thế nếu tôi chọn một nốt ngẫu nhiên, như thế này. (Nốt nhạc piano) Cậu có thể chơi bản "Chuyến bay của Bumblebee" với nốt đó không?
DP: "Flight of the Bumblebee" on that note.
DP: "Chuyến bay của Bumblebee" với nốt đó.
(Music: "Flight of the Bumblebee")
(Nhạc: "Chuyến bay của Bumblebee")
AO: Or another one? How about in G minor?
AO: Hoặc một nốt khác chăng? Với gam Sol thứ chẳng hạn?
DP: G minor.
Sol thứ.
(Music: "Flight of the Bumblebee")
(Nhạc: "Chuyến bay của Bumblebee")
AO: Fantastic. Well done, Derek.
Tuyệt vời. Tốt lắm Derek à.
So you see, in your brain, Derek, is this amazing musical computer that can instantly recalibrate, recalculate, all the pieces in the world that are out there. Most pianists would have a heart attack if you said, "Sorry, do you mind playing 'Flight of the Bumblebee' in B minor instead of A minor?" as we went on. In fact, the first time, Derek, you played that with an orchestra, you'd learned the version that you'd learned, and then the orchestra, in fact, did have a different version, so while we were waiting in the two hours before the rehearsal and the concert, Derek listened to the different version and learned it quickly and then was able to play it with the orchestra. Fantastic chap.
Thế nên cậu có thể thấy, Derek, não cậu chính là chiếc máy tính âm nhạc tuyệt vời có thể ngay lập tức ước lượng lại chính xác, mô phỏng chính xác tất cả những bản nhạc của thế giới bên ngoài kia ấy. Phần lớn các nghệ sĩ dương cầm đều có thể lên cơn đau tim nếu ngay khi họ bắt đầu chơi cậu nói rằng, "Thành thật xin lỗi, nhưng ngài có phiền không khi chơi bản 'Chuyến bay của Bumblebee' theo cung Si thứ thay vì cung La thứ?" Thực tế là, trong lần đầu tiê,n Derek, cậu đã chơi nó với một dàn nhạc giao hưởng, cậu đã học phiên bản mà cậu học trước đó, và rồi thực tế là dàn nhạc đã chơi theo một kiểu khác, vì thế trong khi chúng ta ngồi chờ hai tiếng đồng hồ trước buổi diễn tập và buổi công chiếu, Derek đã lắng nghe kiểu mới đó và học nó rất nhanh và rồi sau đó có thể chơi nó cùng với dàn nhạc giao hưởng. Một anh bạn thật tuyệt vời.
The other wonderful thing about you is memory.
Một điều kỳ diệu khác nữa về cậu chính là trí nhớ.
DP: Memory. AO: Your memory is truly amazing, and every concert we do, we ask the audience to participate, of course, by suggesting a piece Derek might like to play. And people say, "Well, that's terribly brave because what happens if Derek doesn't know it?" And I say, "No, it's not brave at all, because if you ask for something that Derek doesn't know, you're invited to come and sing it first, and then he'll pick it up." (Laughter)
DP: Trí nhớ. AO: Trí nhớ của cậu quả là siêu phàm, và với mỗi buổi hòa nhạc chúng ta tham gia, chúng ta đã yêu cầu khán giả tham gia với mìnhi, dĩ nhiên, bằng cách đề nghị một bản nhạc mà Derek có thể thích chơi. Và mọi người nói rằng, "Chà, thật là vô cùng can đảm bởi vì chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Derek không biết đến bản nhạc đó?" và tôi trả lời rằng, "Không. Chẳng phải can đảm gì hết, bởi vì nếu quý vị yêu cầu một bản nào đó mà Derek không biết, quý vị sẽ được mời lên và ngân nga giai điệu đó trước, và sau đó cậu ấy có thể tiếp thu nó." (Cười)
So just be thoughtful before you suggest something too outlandish.
Vì vậy chỉ cần cân nhắc trước khi quý vị chọn một bản nhạc nào đó quá lạ lùng.
But seriously, would anyone like to choose a piece?
Nhưng nói một cách nghiêm túc, có ai muốn chọn một bản nhạc không?
DP: Choose a piece. Choose, choose, would you like to choose? AO: Because it's quite dark. You'll just have to shout out. Would you like to hear me play?
DP: Chọn một bản nhạc. Chọn đi, chọn đi, quý vị có muốn chọn không? AO: Bởi vì quang cảnh khá là tối, Quý vị chỉ cần phải gọi to tên lên thôi. Quý vị có muốn nghe tôi chơi không?
(Audience: "Theme of Paganini.")
(Thính giả: "Nhạc hiệu của Paganini")
AO: Paganini. DP: "The Theme of Paganini."
AO: Paganini. DP: "Nhạc hiệu của Paganini"
(Laughter)
(Cười)
(Music: "Theme of Paganini")
(Nhạc: "Nhạc hiệu của Paganini")
(Applause)
(Vỗ tay)
AO: Well done.
Tốt lắm.
Derek's going to L.A. soon, and it's a milestone, because it means that Derek and I will have spent over 100 hours on long-haul flights together, which is quite interesting, isn't it Derek?
Derek sẽ sớm đến Los Angeles, và đó chính là bước ngoặt quan trọng, bởi vì điều đó có nghĩa là tôi và Derek sẽ dành khoảng hơn 100 giờ cùng nhau trên những chuyến bay đường dài và có vẻ khá thú vị, phải không Derek?
DP: Very interesting, Adam, yes. Long-haul flights. Yes.
DP: Rất thú vị, Adam ạ. Chuyến bay đường dài. Đúng.
AO: You may think 13 hours is a long time to keep talking, but Derek does it effortlessly. Now then.
AO: Các bạn có thể nghĩ rằng 13 giờ là khoảng thời gian dài để có thể nói chuyện suốt với nhau nhưng Derek vẫn làm điều đó một cách thản nhiên. Cả hồi trước lẫn bây giờ.
(Laughter)
(Cười)
But in America, they've coined this term, "the human iPod" for Derek, which I think is just missing the point, really, because Derek, you're so much more than an iPod. You're a fantastic, creative musician, and I think that was nowhere clearer to see, really, than when we went to Slovenia, and someone -- in a longer concert we tend to get people joining in, and this person, very, very nervously came onto the stage.
Nhưng ở châu Mỹ, họ đã sáng tạo ra thuật ngữ này, "chiếc máy Ipod con người" dành cho Derek, mà có vẻ như tôi nghĩ là mình không thực sự hiểu lắm, bởi vì Derek, cậu còn hơn cả một chiếc iPod. Cậu là một người nghệ sĩ sáng tạo, tài năng, và tôi nghĩ rằng chẳng nơi nào rõ ràng để hiểu được điều đó hơn khi chúng ta đến Slovenia, và một ai đó - trong buổi hòa nhạc lâu hơn mà chúng tôi định mời mọi người tham gia, và người này, rất, rất là hồi hộp tiến lên sân khấu.
DP: He played "Chopsticks." AO: And played "Chopsticks."
DP: Anh ta chơi bản "Đôi đũa" AO: Và chơi bản "Đôi đũa"
DP: "Chopsticks."
DP: "Đôi đũa"
AO: A bit like this. DP: Like this. Yes.
AO: Đại loại giống thế này. DP: Giống như thế này. Đúng rồi.
(Piano notes)
(Nốt nhạc piano)
AO: I should really get Derek's manager to come and play it. He's sitting there.
AO: Tôi thực ra nên nhờ người quản lý của Derek lên và chơi bản nhạc đó. Anh ta đang ngồi ở kia.
DP: Somebody played "Chopsticks" like this. AO: Just teasing, right? Here we go.
DP: Một người nào đó đã chơi "Đôi đũa" như thế này. AO: Chỉ đùa thôi, phải không? Nào chúng ta tiếp tục.
(Music: "Chopsticks")
(Nhạc: "Đôi đũa")
DP: Let Derek play it.
DP: Hãy để cho Derek chơi nó đi.
AO: What did you do with it, Derek?
AO: Cậu sẽ làm gì với nó, Derek?
DP: I got to improvise with it, Adam.
DP: Con sẽ ngẫu hứng với nó, thầy Adam à.
AO: This is Derek the musician. (Music: "Chopsticks" improvisation)
AO: Đây là Derek một nhạc sĩ. (Nhạc: Ngẫu hứng "Đôi đũa")
(Applause)
(Vỗ tay)
(Music) (Clapping)
(Nhạc) (Vỗ tay theo)
Keep up with Derek.
Hãy tiếp tục hòa nhịp với Derek.
(Music)
(Nhạc)
(Applause)
(Vỗ tay tán thưởng)
The TED people will kill me, but perhaps there's time for one encore.
Những người thực hiện TED sẽ giết tôi mất. nhưng có lẽ còn thời gian cho một bản nữa.
DP: For one encore. AO: One encore, yes.
DP: Cho một bản nữa. AO: Đúng rồi, một bản nữa.
So this is one of Derek's heroes. It's the great Art Tatum -- DP: Art Tatum.
Vâng đây chính là một trong những thần tượng của Derek. Đó là ngài Art Tatum -- DP: Art Tatum.
AO: -- who also was a pianist who couldn't see, and also, I think, like Derek, thought that all the world was a piano, so whenever Art Tatum plays something, it sounds like there's three pianos in the room. And here is Derek's take on Art Tatum's take on "Tiger Rag."
AO: -- một người cũng là nghệ sĩ dương cầm bị khiếm thính. và tôi cũng nghĩ rằng giống như Derek, nghĩ rằng tất cả những điều trên thế giới này chính là môt chiếc đàn piano, vì thế mỗi lần Art Tatum chơi một bản nào đó, giống như có ba chiếc đàn piano trong phòng. Và đây là những gì Derek đã học được từ những gì Art Tatum học được "
DP: "Tiger Rag."
DP: "Tiếng hổ gầm"
(Music: "Tiger Rag")
(Nhạc: "Tiếng hổ gầm")
(Applause)
(Vỗ tay)