In the 17th century, a woman named Giulia Tofana had a very successful perfume business. For over 50 years she ran it. It sort of ended abruptly when she was executed — (Laughter) — for murdering 600 men. You see, it wasn't a very good perfume. In fact, it was completely odorless and tasteless and colorless, but as a poison, it was the best money could buy, so women flocked to her in order to murder their husbands.
Ở thế kỉ 17, một phụ nữ tên Giulia Tofana rất thành công trong kinh doanh nước hoa Việc kinh doanh sau 50 năm bị dừng lại đột ngột khi bà ấy bị xử tử - (Tiếng cười) - vì đã giết 600 người đàn ông. Bạn thấy đó, đây không phải là một loại nước hoa tốt. Thật ra, nó hoàn toàn không mùi, vị và màu những xét về mặt thuốc độc, nó là thứ tốt nhất tiền có thế mua được, vì thế nhiều phụ nữ tìm đến để có thể mưu sát chồng của họ
It turns out that poisoners were a valued and feared group, because poisoning a human being is a quite difficult thing. The reason is, we have sort of a built-in poison detector. You can see this as early as even in newborn infants. If you are willing to do this, you can take a couple of drops of a bitter substance or a sour substance, and you'll see that face, the tongue stick out, the wrinkled nose, as if they're trying to get rid of what's in their mouth. This reaction expands into adulthood and becomes sort of a full-blown disgust response, no longer just about whether or not we're about to be poisoned, but whenever there's a threat of physical contamination from some source. But the face remains strikingly similar. It has expanded more, though, than just keeping us away from physical contaminants, and there's a growing body of evidence to suggest that, in fact, this emotion of disgust now influences our moral beliefs and even our deeply held political intuitions.
Những kẻ đầu độc hóa ra là một nhóm người được coi trọng và đáng sợ bởi vì đầu độc một người là điều khá khó khăn Đó là lý do chúng ta có một hệ thống kiểm tra chất độc Bạn có thể thấy điều này rất sớm ngay khi còn là một đứa trẻ Nếu bạn đồng ý thử nghiệm, bạn có thể nhỏ vài giọt chất gì đó đắng hoặc chua vào miệng, và bạn sẽ thấy khuôn mặt đó, lưỡi lè ra, mũi nhăn lại, giống như đang cố gắng nhổ thứ trong miệng mình ra. Phản xạ này theo ta lớn lên và trở thành một phản ứng chán ghét mãnh liệt, không chỉ là việc chúng ta có bị đầu độc hay không nhưng bất cứ khi nào cũng có nguy cơ về sự nhiễm bẩn vật lý từ một số nguồn. Ngoại trừ các mặt còn lại gây chú ý tương tự. Phản ứng này đã phát triển hơn, dù chỉ là giúp chúng ta tránh xa các tác nhân vật lí gây ô nhiễm, và có một bằng chứng rõ ràng cho thấy rằng, thực tế, cảm xúc của sự chán ghét tác động đến niềm tin về đạo đức của chúng ta và thậm chí là những trực giác sâu sắc về chính trị của chúng ta.
Why this might be the case? We can understand this process by understanding a little bit about emotions in general. So the basic human emotions, those kinds of emotions that we share with all other human beings, exist because they motivate us to do good things and they keep us away from doing bad things. So by and large, they are good for our survival. Take the emotion of fear, for instance. It keeps us away from doing things that are really, really risky. This photo taken just before his death — (Laughter) — is actually a — No, one reason this photo is interesting is because most people would not do this, and if they did, they would not live to tell it, because fear would have kicked in a long time ago to a natural predator. Just like fear offers us protective benefits, disgust seems to do the same thing, except for what disgust does is keeps us away from not things that might eat us, or heights, but rather things that might poison us, or give us disease and make us sick. So one of the features of disgust that makes it such an interesting emotion is that it's very, very easy to elicit, in fact more so than probably any of the other basic emotions, and so I'm going to show you that with a couple of images I can probably make you feel disgust. So turn away. I'll tell you when you can turn back. (Laughter)
Tại sao lại có chuyện như vậy xảy ra? Chúng ta có thể hiểu quá trình này bằng sự hiểu biết một chút về cảm xúc nói chung. Những cảm xúc cơ bản của con người, những cảm xúc mà chúng ta chia sẻ với tất cả những người khác, chúng tồn tại bởi vì chúng thúc đẩy ta làm những việc tốt và giúp ta tránh làm những việc xấu. Nên có thể nói , chúng giúp ích cho sự sống còn của ta. Ví dụ như một cảm xúc sợ hãi. Nó giúp ta tránh làm những điều thực sự, thực sự mạo hiểm. Bức ảnh này được chụp ngay trước khi ông ấy qua đời— (tiếng cười) — thật sự là - à không, một lý do mà bức ảnh này thú vị là bởi vì hầu hết mọi người sẽ không làm điều này, và nếu họ đã làm, họ chẳng còn sống để kể lại vì nỗi sợ hãi sẽ kháng cự trong một thời gian dài trước đó với thú săn mồi hoang Giống như sự sợ hãi mang lại lợi ích bảo vệ, sự chán ghét có vẻ cũng như vậy, ngoại trừ những thứ mà sự chán ghét giữ ta tránh xa những thứ có thể ăn thịt mình, hoặc độ cao, còn có vài thứ có thể đầu độc hoặc lây nhiễm và gây bệnh. Như vậy một trong các đặc điểm của sự chán ghét là làm cho một cảm xúc thú vị cái mà rất, rất dễ bị khơi ra, thực tế là có thể dễ hơn những cảm xúc cơ bản khác, tôi sẽ cho bạn thấy rằng chỉ với vài hình ảnh Tôi có thể làm cho bạn cảm thấy ghê tởm Vì vậy, quay đi nào. Tôi sẽ cho bạn biết khi bạn quay mặt lại. (Tiếng cười)
I mean, you see it every day, right? I mean, come on. (Laughter)
Ý tôi là, bạn nhìn thấy nó mỗi ngày, đúng không? Ý tôi là, thôi nào. (Tiếng cười)
(Audience: Ewww.)
(Khán giả: Ewww.)
Okay, turn back, if you didn't look.
Được rồi, quay mặt lại nào, nếu bạn không nhìn.
Those probably made a lot of you in the audience feel very, very disgusted, but if you didn't look, I can tell you about some of the other things that have been shown sort of across the world to make people disgusted, things like feces, urine, blood, rotten flesh. These are the sorts of things that it makes sense for us to stay away from, because they might actually contaminate us. In fact, just having a diseased appearance or odd sexual acts, these things are also things that give us a lot of disgust.
chúng có thể làm cho nhiều bạn trong số khán giả cảm thấy rất, rất ghê tởm, nhưng nếu bạn không nhìn, Tôi có thể cho bạn biết về vài thứ khác cái mà hầu như trên Thế giới người ta đều ghê sợ những thứ như phân, nước tiểu, máu, thịt thối rữa. Đây là những thứ làm cho chúng ta muốn tránh xa, vì chúng có thể lây nhiễm cho chúng ta. Thực tế, chỉ cần nhìn bề ngoài như mang bệnh hoặc lệch lạc về giới tính, những thứ này cũng khiến cho ta cảm thấy rất ghê tởm.
Darwin was probably one of the first scientists to systematically investigate the human emotions, and he pointed to the universal nature and the strength of the disgust response. This is an anecdote from his travels in South America.
Darwin là một trong những nhà khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về cảm xúc của con người và ông đã chỉ ra bản chất chung và thế mạnh của những phản ứng ghê tởm này. Đây là một câu chuyện từ chuyến đi của ông ấy ở Nam Mỹ.
"In Tierro del Fuego a native touched with his finger some cold preserved meat while I was eating ... and plainly showed disgust at its softness, whilst I felt utter disgust at my food being touched by a naked savage — (Laughter) — though his hands did not appear dirty." He later wrote, "It's okay, some of my best friends are naked savages." (Laughter)
"Ở Tierro del Fuego, có người dân đã chạm tay vào miếng thịt hộp khi tôi đang ăn... và cảm thấy ghê tởm vì sự mềm của nó, trong khi tôi cảm thấy rất ghê khi đồ ăn của tôi bị người man rợ trần truồng chạm vào dù tay của ông ta có vẻ không bẩn" Ông viết, "Không sao, vài người bạn thân của tôi cũng man rợ và trần truồng."
Well it turns out it's not only old-timey British scientists who are this squeamish. I recently got a chance to talk to Richard Dawkins for a documentary, and I was able to disgust him a bunch of times. Here's my favorite.
Vâng, hóa ra là không chỉ những nhà khoa học Anh xưa kia mới khó tính. Mới đây tôi đã có một cơ hội nói chuyện với Richard Dawkins để làm phóng sự, và tôi đã ghê sợ về anh ta hàng lần Đây là phần yêu thích của tôi.
Richard Dawkins: "We've evolved around courtship and sex, are attached to deep-rooted emotions and reactions that are hard to jettison overnight."
Richard Dawkins: "Ta đã tiến triển về sự hiểu biết và tình dục được gắn với những cảm xúc và phản ứng khá sâu sắc chúng thật khó có thể vứt bỏ chỉ sau 1 đêm."
David Pizarro: So my favorite part of this clip is that Professor Dawkins actually gagged. He jumps back, and he gags, and we had to do it three times, and all three times he gagged. (Laughter) And he was really gagging. I thought he might throw up on me, actually.
David Pizarro: Phần yêu thích của tôi trong clip này là Giáo sư Dawkins thật sự đã nôn Ông ấy giật ngược lại và nôn, và chúng tôi phải thử lại 3 lần và ông đã nôn cả ba lần. (Tiếng cười) ông ấy thực sự đã nôn. Tôi nghĩ ông có lẽ sẽ đổ lên người tôi
One of the features, though, of disgust, is not just its universality and its strength, but the way that it works through association. So when one disgusting thing touches a clean thing, that clean thing becomes disgusting, not the other way around. This makes it very useful as a strategy if you want to convince somebody that an object or an individual or an entire social group is disgusting and should be avoided. The philosopher Martha Nussbaum points this out in this quote: "Thus throughout history, certain disgust properties -- sliminess, bad smell, stickiness, decay, foulness -- have been repeatedly and monotonously been associated with ... Jews, women, homosexuals, untouchables, lower-class people -- all of those are imagined as tainted by the dirt of the body." Let me give you just some examples of how, some powerful examples of how this has been used historically. This comes from a Nazi children's book published in 1938: "Just look at these guys! The louse-infested beards, the filthy, protruding ears, those stained, fatty clothes... Jews often have an unpleasant sweetish odor. If you have a good nose, you can smell the Jews." A more modern example comes from people who try to convince us that homosexuality is immoral. This is from an anti-gay website, where they said gays are "worthy of death for their vile ... sex practices." They're like "dogs eating their own vomit and sows wallowing in their own feces." These are disgust properties that are trying to be directly linked to the social group that you should not like.
Một trong các đặc điểm của sự ghê tởm, không chỉ là sự phổ biến và sức mạnh của nó, mà còn là cách nó hoạt động thông qua sự kết hợp. Khi mà một thứ ghê sợ chạm vào một thứ sạch sẽ, thì cái sạch sẽ trở nên ghê sợ, chứ không phải ngược lại. Điều này khiến nó trở thành một chiến lược hữu ích nếu bạn muốn thuyết phục ai đó về một vật hoặc một cá thể hoặc toàn bộ một nhóm xã hội là ghê sợ và nên tránh xa. Nhà triết học Martha Nussbaum chỉ ra điều này trong câu nói: "Trong suốt lịch sử, những đặc tính của sự ghê tởm-sự dơ bẩn, hôi, sự nhầy nhụa, thối rữa, ghê sợ- đã gắn liền một cách lặp lại và đều đặn với người Do Thái, phụ nữ, người đồng tính, tiện dân, người có địa vị xã hội thấp-- tất cả người đó đều bị cho là ô uế bởi sự dơ bẩn trên người" Hãy để tôi cho bạn chỉ một vài ví dụ, một vài ví dụ hùng hồn về cách mà việc này được sử dụng trong lịch sử. Điều này đến từ một quyển sách cho trẻ em Đức Quốc được xuất bản năm 1938: "Hãy nhìn vào những kẻ này! Râu bị rận bu, những cái tai bẩn nhô ra, những bộ quần áo thùng thình bẩn thỉu,... Người Do Thái thường có một mùi hơi ngọt khó chịu. Nếu bạn có một cái mũi thính, bạn có thể ngửi thấy người Do Thái." Một ví dụ hiện đại hơn đến từ những người cố gắng thuyết phục chúng ta rằng đồng tính luyến ái là trái với đạo đức. Điều này là từ một trang web chống đồng tính, nơi họ nói về người đồng tính rằng "xứng đáng phải chết vì hành vi hèn hạ của họ... quan hệ tình dục" Họ giống như: "chó ăn lại chỗ ói của chúng và heo nái đắm mình trong bãi phân của chính chúng" Những đặc tính ghê tởm này đang cố gắng tạo mối liên kết trực tiếp với nhóm xã hội mà bạn không nên thích.
When we were first investigating the role of disgust in moral judgment, one of the things we became interested in was whether or not these sorts of appeals are more likely to work in individuals who are more easily disgusted. So while disgust, along with the other basic emotions, are universal phenomena, it just really is true that some people are easier to disgust than others. You could probably see it in the audience members when I showed you those disgusting images. The way that we measured this was by a scale that was constructed by some other psychologists that simply asked people across a wide variety of situations how likely they are to feel disgust. So here are a couple of examples. "Even if I were hungry, I would not drink a bowl of my favorite soup if it had been stirred by a used but thoroughly washed fly-swatter." "Do you agree or disagree?" (Laughter) "While you are walking through a tunnel under a railroad track, you smell urine. Would you be very disgusted or not at all disgusted?" If you ask enough of these, you can get a general overall score of disgust sensitivity. It turns out that this score is actually meaningful. When you bring people into the laboratory and you ask them if they're willing to engage in safe but disgusting behaviors like eating chocolate that's been baked to look like dog poop, or in this case eating some mealworms that are perfectly healthy but pretty gross, your score on that scale actually predicts whether or not you'll be willing to engage in those behaviors.
Khi chúng tôi lần đầu tiên điều tra vai trò của sự ghê tởm trong việc đánh giá đạo đức, một trong những điều khiến chúng tôi quan tâm là liệu có hay không điều này dễ thấy hơn ở những người dễ cảm thấy ghê tởm hơn. Như vậy trong khi ghê tởm, cùng với những cảm xúc cơ bản khác, là hiện tượng phổ biến, có một sự thật là một số người thì dễ cảm thấy ghê tởm về một cái gì đó hơn những người khác. Bạn có thể thấy điều này ở khán giả khi tôi cho các bạn xem những bức ảnh kinh tởm. Chúng tôi đo nó bằng một thước đo được xây dựng bởi một vài nhà tâm lí học bằng cách hỏi nhiều người ở rất nhiều trường hợp về việc họ có thể cảm thấy kinh tởm như thế nào Đây là một số ví dụ. "Ngay cả khi tôi đói, tôi sẽ không ăn món súp yêu thích nếu như nó đã bị khuấy bởi một cái đập ruồi đang xài và ko được rửa sạch" "bạn đồng ý hay không đồng ý?" (Tiếng cười) "Trong khi bạn đang đi bộ qua một đường hầm dưới một đường ray, Bạn có thể ngửi thấy mùi nước tiểu. Bạn có thể thấy rất ghê tởm hoặc không thấy gì cả ?" Nếu bạn hỏi đủ trong số này, bạn có thể nhận được một số điểm tổng về mức độ nhạy cảm đối với sự ghê sợ Hóa ra số điểm này là thực sự có ý nghĩa. Khi bạn đưa mọi người vào phòng thí nghiệm và bạn hỏi họ rằng họ đang chuẩn bị để tiến hành trong an toàn nhưng mà với những hoạt động ghê tởm như ăn sô cô la được nướng để trông giống như phân chó, hoặc trong trường hợp này ăn một số con dòi hoàn toàn khỏe mạnh nhưng trông khá ghê tởm, điểm số của bạn trên thước đo thực sự dự đoán được việc bạn có sẵn sàng để tham gia vào những hoạt động này hay không.
The first time that we set out to collect data on this and associate it with political or moral beliefs, we found a general pattern -- this is with the psychologists Yoel Inbar and Paul Bloom -- that in fact, across three studies we kept finding that people who reported that they were easily disgusted also reported that they were more politically conservative. Another way to say this, though, is that people who are very liberal are very hard to disgust. (Laughter)
Lần đầu tiên chúng tôi đặt ra để thu thập dữ liệu về điều này và liên kết nó với niềm tin về chính trị hoặc đạo đức, chúng tôi tìm thấy một mô hình tổng quát-- Điều này với nhà tâm lý học Yoel Inbar và Paul Bloom-- trong thực tế, trên ba nghiên cứu chúng tôi tìm được thì những người báo cáo rằng họ dễ dàng bị ghê sợ cũng thông báo rằng họ đã thận trọng khôn khéo hơn. Một cách khác để nói điều này, Tuy nhiên, những người rộng rãi thì rất khó để chán ghét. (Tiếng cười)
In a more recent follow-up study, we were able to look at a much greater sample, a much larger sample. In this case, this is nearly 30,000 U.S. respondents, and we find the same pattern. As you can see, people who are on the very conservative side of answering the political orientation scale are also much more likely to report that they're easily disgusted. This data set also allowed us to statistically control for a number of things that we knew were both related to political orientation and to disgust sensitivity. So we were able to control for gender, age, income, education, even basic personality variables, and the result stays the same.
Trong một nghiên cứu theo dõi gần đây, chúng tôi đã có thể nhìn ra được nhiều mẫu thử lớn hơn, nhiều mẫu thử chi tiết hơn. Trong trường hợp này, là gần 30.000 sự phản hồi ở Mỹ , và chúng tôi tìm thấy cùng một khuôn mẫu. Như bạn thấy, những người có vẻ bảo thủ trong việc trả lời về quy mô định hướng chính trị thì cũng rất có khả năng tố cáo rằng họ rất dễ dàng bị chán ghét. Dữ liệu này cũng cho phép chúng tôi thống kê kiểm soát đối với một số điều mà chúng tôi biết cả hai có liên quan đến sự định hướng chính trị và sự ghê sợ nhạy bén Vì vậy chúng tôi có thể kiểm soát về giới tính, tuổi tác, thu nhập, giáo dục, thậm chí cả sự thay đổi về nhân cách, và kết quả vẫn như nhau.
When we actually looked at not just self-reported political orientation, but voting behavior, we were able to look geographically across the nation. What we found was that in regions in which people reported high levels of disgust sensitivity, McCain got more votes. So it not only predicted self-reported political orientation, but actual voting behavior. And also we were able, with this sample, to look across the world, in 121 different countries we asked the same questions, and as you can see, this is 121 countries collapsed into 10 different geographical regions. No matter where you look, what this is plotting is the size of the relationship between disgust sensitivity and political orientation, and no matter where we looked, we saw a very similar effect. Other labs have actually looked at this as well using different measures of disgust sensitivity, so rather than asking people how easily disgusted they are, they hook people up to physiological measures, in this case skin conductance. And what they've demonstrated is that people who report being more politically conservative are also more physiologically aroused when you show them disgusting images like the ones that I showed you. Interestingly, what they also showed in a finding that we kept getting in our previous studies as well was that one of the strongest influences here is that individuals who are very disgust-sensitive not only are more likely to report being politically conservative, but they're also very much more opposed to gay marriage and homosexuality and pretty much a lot of the socio-moral issues in the sexual domain. So physiological arousal predicted, in this study, attitudes toward gay marriage.
Khi chúng tôi thực sự xem xét không chỉ về việc tự báo cáo định hướng chính trị, mà còn có hành vi bầu cử, chúng tôi đã có thể nhìn về mặt địa lý trên toàn quốc. Những gì chúng tôi tìm được là trong khu vực có người báo cáo cấp cao của sự chán ghét nhạy cảm, McCain có nhiều phiếu. Vì vậy nó không chỉ dự đoán tự báo cáo việc định hướng chính trị, ngoại trừ hành vi biểu quyết thực tế. Và chúng tôi đã có thể, với mẫu thử này, để xem xét trên toàn thế giới, tại 121 quốc gia khác nhau, chúng tôi đã hỏi cùng một câu hỏi, và như bạn thấy đấy, đây là 121 quốc gia bị sụp đổ ở 10 khu vực địa lý khác nhau. Bất cứ nơi nào mà bạn thấy, những thứ này đang âm mưu mở rộng các mối quan hệ giữa sự ghê sợ nhạy bén và định hướng chính trị, và bất cứ nơi nào mà chúng tôi tìm kiếm, chúng tôi đều thấy một hiệu ứng tương tự. Các phòng thí nghiệm khác đã thực sự xem xét điều này cũng sử dụng các biện pháp khác nhau của sự ghê sợ nhạy bén, Vì vậy chứ không phải là yêu cầu mọi người làm thế nào dễ dàng bị ghê sợ, họ treo người lên với những biện pháp sinh lý, trong trường hợp bọc lớp dẫn điện. Và những gì họ đã chứng minh được rằng những người báo cáo đang bảo thủ chính trị hơn thì cũng tỉnh táo nhiều hơn khi bạn cho họ thấy hình ảnh ghê tởm như những cái mà tôi cho bạn thấy. Thật thú vị, những gì họ cho thấy trong một phát hiện mà chúng tôi nhận được trong nghiên cứu trước đây của chúng tôi tốt như là một trong những ảnh hưởng mạnh nhất ở đây đó là những cá nhân rất nhạy cảm với sự ghê tởm không chỉ có nhiều khả năng tố cáo một cách bảo toàn khôn ngoan , mà họ còn rất phản đối hôn nhân đồng tính và đồng tính luyến ái cũng như khá nhiều vấn đề đạo đức xã hội thuộc phạm vi tình dục. Kích thích sinh lý được dự đoán, trong nghiên cứu này, Thái độ đối với hôn nhân đồng tính.
But even with all these data linking disgust sensitivity and political orientation, one of the questions that remains is what is the causal link here? Is it the case that disgust really is shaping political and moral beliefs? We have to resort to experimental methods to answer this, and so what we can do is actually bring people into the lab and disgust them and compare them to a control group that hasn't been disgusted. It turns out that over the past five years a number of researchers have done this, and by and large the results have all been the same, that when people are feeling disgust, their attitudes shift towards the right of the political spectrum, toward more moral conservatism as well. So this is whether you use a foul odor, a bad taste, from film clips, from post-hypnotic suggestions of disgust, images like the ones I've shown you, even just reminding people that disease is prevalent and they should be wary of it and wash up, right, to keep clean, these all have similar effects on judgment.
Nhưng ngay cả với tất cả các dữ liệu liên kết giữa sự kì thị nhạy cảm và định hướng chính trị, một trong những câu hỏi những gì còn lại quan hệ nhân quả ở đây là gì? Có phải nó là trường hợp mà sự kì thị thực sự đang trở thành niềm tin chính trị và đạo đức? Chúng tôi đã phải nhờ đến các phương pháp thực nghiệm để trả lời câu hỏi này, và vì vậy những gì chúng tôi có thể làm là thực sự đưa mọi người vào các phòng thí nghiệm và kì thị họ đồng thời so sánh họ với một nhóm kiểm soát những thứ mà không bị kì thị. Nó chỉ ra rằng hơn năm năm qua một số nhà nghiên cứu đã làm điều này, và với số lượng lớn các kết quả có là như nhau, khi mọi người đang cảm giác ghê tởm, Thái độ của họ thay đổi về phía bên phải của quang phổ chính trị, về hướng chủ nghĩa bảo thủ hơn. Vì vậy, cho dù bạn sử dụng một mùi hôi, một hương vị tệ, từ phim ảnh, từ việc đề nghị thôi miên trong sự ghê tởm, hình ảnh như những cái tôi đã cho bạn xem, thậm chí chỉ cần nhắc nhở mọi người rằng căn bệnh này là phổ biến và họ nên được cảnh giác về nó cũng như gội rửa, chỉnh đốn, giữ trong sạch, Tất cả những điều đó có hiệu lực tương tự như một bản án.
Let me just give you an example from a recent study that we conducted. We asked participants to just simply give us their opinion of a variety of social groups, and we either made the room smell gross or not. When the room smelled gross, what we saw was that individuals actually reported more negative attitudes toward gay men. Disgust didn't influence attitudes toward all the other social groups that we asked, including African-Americans, the elderly. It really came down to the attitudes they had toward gay men. In another set of studies we actually simply reminded people -- this was at a time when the swine flu was going around -- we reminded people that in order to prevent the spread of the flu that they ought to wash their hands. For some participants, we actually had them take questionnaires next to a sign that reminded them to wash their hands. And what we found was that just taking a questionnaire next to this hand-sanitizing reminder made individuals report being more politically conservative. And when we asked them a variety of questions about the rightness or wrongness of certain acts, what we also found was that simply being reminded that they ought to wash their hands made them more morally conservative. In particular, when we asked them questions about sort of taboo but fairly harmless sexual practices, just being reminded that they ought to wash their hands made them think that they were more morally wrong. Let me give you an example of what I mean by harmless but taboo sexual practice. We gave them scenarios. One of them said a man is house-sitting for his grandmother. When his grandmother's away, he has sex with his girlfriend on his grandma's bed. In another one, we said a woman enjoys masturbating with her favorite teddy bear cuddled next to her. (Laughter) People find these to be more morally abhorrent if they've been reminded to wash their hands. (Laughter) (Laughter)
Hãy để tôi chỉ cho bạn một ví dụ từ một nghiên cứu gần đây mà chúng tôi đã thực hiện. Chúng tôi yêu cầu người tham gia chỉ đơn giản là cung cấp cho chúng tôi ý kiến của mình về một loạt các nhóm xã hội, và chúng tôi cũng không làm toàn bộ căn phòng đoán được Khi toàn bộ căn phòng đoán được, những gì chúng tôi thấy được là những cá nhân thực sự phản ứng nhiều thái độ tiêu cực về phía đồng tính nam. Sự kì thị không ảnh hưởng đến thái độ đối với tất cả những nhóm xã hội khác mà chúng tôi yêu cầu, bao gồm cả người Mỹ gốc Phi, người cao tuổi. Nó thực sự đã thất bại với những thái độ mà họ đối với đồng tính nam. Trong một tập hợp các nghiên cứu, chúng tôi thực sự chỉ đơn giản là nhắc nhở người-- đây là khoảng thời gian khi dịch cúm lợn đã đi qua-- chúng tôi nhắc nhở mọi người rằng để ngăn chặn sự lây lan của bệnh cúm thì họ phải rửa tay. Với một số người tham gia, chúng tôi đã đưa ra những câu hỏi bên cạnh một dấu hiệu để nhắc nhở họ để rửa tay. Và những gì chúng tôi tìm thấy rằng chỉ cần làm một bảng câu hỏi cùng với việc nhắc nhở vệ sinh tay đã làm cho các cá nhân trở nên khá bảo thủ. Và khi chúng tôi hỏi họ một loạt các câu hỏi về việc đúng đắn và sai trái, những gì chúng tôi tìm thấy được đó là nhăc nhở họ phải rửa tay để làm họ dùy trì hơn về mặt đạo đức. Đặc biệt, khi chúng tôi hỏi họ về điều cấm kỵ nhưng khá không có hại về mặt tình dục, chỉ cần được nhắc nhở rằng họ phải rửa tay làm cho họ nghĩ rằng họ đã làm trái với đạo lý. Hãy để tôi cung cấp cho bạn một ví dụ mà tôi có nghĩ là vô hại nhưng lại bị cấm kỵ về tình dục. Chúng tôi đã cho họ kịch bản. Một trong số họ cho biết một người đàn ông canh cửa cho bà ngoại của ông ta. Khi bà ngoại của ông ta chết, ông ta đã làm tình với bạn gái trên giường của bà ông ta. Trong một số khác, chúng tôi cho biết một người phụ nữ thích thủ dâm với con gấu bông yêu thích bên cạnh cô ta. (Tiếng cười) Mọi người đi tìm những thứ trở nên trái với đạo đức khi họ đã được nhắc nhở về việc rửa tay. (Tiếng cười) (Tiếng cười)
Okay. The fact that emotions influence our judgment should come as no surprise. I mean, that's part of how emotions work. They not only motivate you to behave in certain ways, but they change the way you think. In the case of disgust, what is a little bit more surprising is the scope of this influence. It makes perfect sense, and it's a very good emotion for us to have, that disgust would make me change the way that I perceive the physical world whenever contamination is possible. It makes less sense that an emotion that was built to prevent me from ingesting poison should predict who I'm going to vote for in the upcoming presidential election.
Ok. Một thực tế cho thấy rằng những cảm xúc ảnh hưởng đến sự phê bình của chúng tôi nên đến như là không có bất ngờ. Ý tôi là đó là một phần của việc cảm xúc hoạt động thế nào. Chúng không chỉ thúc đẩy bạn cư xử theo cách nhất định, mà còn thay đổi cách bạn nghĩ. Trong trường hợp của sự ghê sợ, cái ngạc nhiên hơn một chút là phạm vi ảnh hưởng. Nó tạo ra cảm giác hoàn hảo, và nó mang đến một cảm xúc rất tốt cho chúng ta, sự ghê tởm đó sẽ làm cho tôi thay đổi cách nhận thức về thế giới vật lý bất cứ khi nào sự ô nhiễm xảy ra. Nó làm cho ít cảm nhận được một cảm xúc cái được dựng lên để ngăn tôi khỏi việc ăn phải chất độc nên dự đoán những người tôi sẽ bỏ phiếu cho trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới.
The question of whether disgust ought to influence our moral and political judgments certainly has to be complex, and might depend on exactly what judgments we're talking about, and as a scientist, we have to conclude sometimes that the scientific method is just ill-equipped to answer these sorts of questions. But one thing that I am fairly certain about is, at the very least, what we can do with this research is point to what questions we ought to ask in the first place. Thank you. (Applause)
Các câu hỏi về cho dù ghê tởm cũng phải ảnh hưởng đến sự phê bình về đạo đức và chính trị chắc chắn đã được phức tạp hóa, và có thể phụ thuộc một cách chính xác những gì chúng ta đang nói về, và như là một nhà khoa học, chúng ta phải kết luận theo phương pháp khoa học đó là trang bị ít để trả lời các loại câu hỏi này. Nhưng một điều mà tôi là khá chắc chắn đó là, ít nhất, những gì chúng tôi có thể làm với nghiên cứu này là chỉ ra những câu hỏi mà chúng ta phải hỏi ở nơi đầu tiên. Cảm ơn các bạn. (Vỗ tay)