This is Aunt Zip from Sodom, North Carolina. She was 105 years old when I took this picture. She was always saying things that made me stop and think, like, "Time may be a great healer, but it ain't no beauty specialist." (Laughter) She said, "Be good to your friends. Why, without them, you'd be a total stranger." (Laughter)
Đây là Dì Zip từ Sodom, Bắc Carolina. Khi tôi chụp bức hình này, bà đã 105 tuổi. Bà luôn nói những điều khiến tôi khựng lại suy ngẫm, như là "Thời gian là một thầy thuốc tuyệt vời, nhưng không nó không phải là một chuyên gia về sắc đẹp." (Cười) Bà bảo rằng "Hãy đối xử tốt với bạn mình. Vì sao? Nếu không có họ, thì anh chỉ là một kẻ xa lạ." (Cười)
This is one of her songs. Let's see if we can get into the flow here and all do this one together. And I'm going to have Michael Manring play bass with me. Give him a big old hand. (Applause)
Đây là một trong những bà hát của bà. Hãy xem liệu chúng ta có thể hòa vào bầu không khí và cùng tận hưởng. Và xin giới thiệu Michael Manring sẽ chơi bass cùng tôi. Xin cho một tràng pháo tay. (Vỗ tay)
One, two, three, four.
1, 2, 3, 4.
(Music)
(Âm nhạc)
Well, my true love's a black-eyed daisy; if I don't see her, I go crazy.
Ôi, tình yêu đích thực của tôi, bông hoa dại có đôi mắt đen. Nếu không được thấy nàng chắc tôi sẽ điên mất thôi.
My true love lives up the river; a few more jumps and I'll be with her.
Tình yêu của tôi sông suối cuộn trào; Vài bước bậc nữa là sẽ tới chỗ nàng.
Hey, hey, black-eyed Susie! Hey, hey, black-eyed Susie! Hey, hey black-eyed Susie, hey.
Hey, hey, Susie mắt đen! Hey, hey, Susie mắt đen! Hey, hey Susie mắt đen hey.
Now you've got to picture Aunt Zip at 105 years old in Sodom, North Carolina. I'd go up and learn these old songs from her. She couldn't sing much, couldn't play anymore. And I'd pull her out on the front porch. Down below, there was her grandson plowing the tobacco field with a mule. A double outhouse over here on the side. And we'd sing this old song. She didn't have a whole lot of energy, so I'd sing, "Hey, hey!" and she'd just answer back with, "Black-eyed Susie."
Xin hãy chiếu tấm hình Dì Zip 105 tuổi từ Sodom, Bắc Carolina. Tôi đến và học những bài này từ bà đấy. Bà đã hát hết nổi, cũng không còn chơi nhạc. Tôi kéo bà ra hiên trước. Phía dưới, người cháu trai đang cày đồng thuốc lá với con lừa. Hai gian nhà ngoài hai bên. Và chúng tôi hát bài này. Bà cũng chẳng khỏe lắm. Vậy nên tôi hát, "Hey, hey!" và bà đáp lại với "Susie mắt đen."
Oh, hey, hey, black-eyed Susie! Hey, hey, black-eyed Susie! Hey, hey, black-eyed Susie, hey.
Oh, hey, hey, Susie mắt đen! Hey, hey, Susie mắt đen! Hey, hey, Susie mắt đen, hey.
Well, she and I went blackberry picking. She got mad; I took a licking.
Rồi, nàng và tôi đi hái mâm xôi. Nàng bực tôi; tôi liếm thử chúng.
Ducks on the millpond, geese in the ocean, Devil in the pretty girl when she takes a notion.
Đàn vịt trong ao, đàn ngỗng ngoài khơi. Người đẹp có tâm địa độc khi ý niệm được điều gì.
Hey, hey, black-eyed Susie! Hey, hey, black-eyed Susie! Hey, hey black-eyed Susie, hey.
Hey, hey, Susie mắt đen! Hey, hey, Susie mắt đen! Hey, hey, Susie mắt đen, hey.
Let's have the banjo.
Banjo độc tấu.
Well, we'll get married next Thanksgiving. I'll lay around; she'll make a living.
Rồi, chúng tôi sẽ kết hôn vào Lễ Tạ Ơn. Tôi sẽ nằm nhà còn nàng sẽ kiếm sống.
She'll cook blackjacks, I'll cook gravy; we'll have chicken someday, maybe.
Nàng sẽ nấu cá, tôi thì làm xốt. Có thể sẽ có ngày chúng tôi ăn gà.
Hey, hey, hey, hey. Hey, hey, black-eyed Susie, hey!
Hey, hey, hey hey. Hey, hey,Susie mắt đen, hey!
One more time now. Oh, hey, hey, black-eyed Susie! Hey, hey, black-eyed Susie! Hey, hey, black-eyed Susie, hey.
Thêm lần nữa nào. Oh, hey, hey, Susie mắt đen! Hey, hey, Susie mắt đen! Hey, hey, Susie mắt đen, hey.
(Applause) Thank you, Michael.
(Vỗ tay) Cám ơn Michael.
This is Ralph Stanley. When I was going to college at University of California at Santa Barbara in the College of Creative Studies, taking majors in biology and art, he came to the campus. This was in 1968, I guess it was. And he played his bluegrass style of music, but near the end of the concert, he played the old timing style of banjo picking that came from Africa, along with the banjo. It's called claw-hammer style, that he had learned from his mother and grandmother. I fell in love with that. I went up to him and said, how can I learn that? He said, well, you can go back to Clinch Mountain, where I'm from, or Asheville or Mount Airy, North Carolina -- some place that has a lot of music. Because there's a lot of old people still living that play that old style.
Đây là Ralph Stanley. Khi tôi còn là sinh viên Đại học California. ở Santa Barbara của Cao Đẳng Nghiên Cứu Sáng Tạo., chuyên ngành sinh học và nghệ thuật, ông đã đến học xá. Tôi đoán là năm 1968. Và ông đã chơi phong cách nhạc của ông Bluegrass, nhưng khi chương trình sắp kết thúc, ông lại trình bày phong cách đồng quê cổ điển với cây banjo. nó đến từ Châu Phi, cùng với cây banjo. Nó được gọi là phong cách claw-hammer, ông học được từ bà và mẹ. Tôi đã ngất ngây với nó. Tôi tới chỗ ông, hỏi rằng làm sao để học được nó? Ông nói, rồi, hãy về Clinch Mountain, quê hương ta, hay Asheville hay Mount Airy hay Bắc Carolina-- nơi nào có thật nhiều âm nhạc. Bởi vì còn rất nhiều người già sống ở đó và chơi như thế.
So I went back that very summer. I just fell in love with the culture and the people. And you know, I came back to school, I finished my degrees and told my parents I wanted to be a banjo player. You can imagine how excited they were.
Thế là tôi về đó ngay mùa hè. Tôi đã yêu văn hóa và con người nơi đó. Bạn biết đấy, tôi đi học lại, tốt nghiệp và nói với phụ huynh rằng tôi muốn trở thành một tay chơi banjo. Bạn có thể tưởng tượng họ đã hào hứng như thế nào.
So I thought I would just like to show you some of the pictures I've taken of some of my mentors. Just a few of them, but maybe you'll get just a little hint of some of these folks.
Vì thì tôi nghĩ mình nên cho khán giả xem vài bức ảnh. Tôi lấy từ những người hướng dẫn. Vài người thôi, nhưng bạn có thể ngờ ngợ đoán ra những người này.
And play a little banjo. Let's do a little medley. (Music)
Và chơi chút banjo. Làm một liên khúc nhé. (Âm nhạc)
(Applause) Those last few pictures were of Ray Hicks, who just passed away last year. He was one of the great American folk tale-tellers. The Old Jack tales that he had learned -- he talked like this, you could hardly understand him. But it was really wonderful. And he lived in that house that his great-grandfather had built. No running water, no electricity. A wonderful, wonderful guy.
(Vỗ tay) Các bức ảnh của Ray Hicks, ông mất năm ngoái. Là 1 trong những người kể chuyện hay nhất Hoa Kỳ. Câu chuyện Jack Già của ông -- Ổng kể thế này, Ông kể rất khó hiểu mà lại rất tuyệt vời. Ông sống trong căn nhà từ thời ông cố. Không nước, không điện. Ông già cực kỳ tuyệt vời.
And you can look at more pictures. I've actually got a website that's got a bunch of photos that I've done of some of the other folks I didn't get a chance to show you. This instrument came up in those pictures. It's called the mouth bow. It is definitely the first stringed instrument ever in the world, and still played in the Southern mountains. Now, the old timers didn't take a fancy guitar string and make anything like this. They would just take a stick and a catgut and string it up. It was hard on the cats, but it made a great little instrument. It sounds something like this.
Nhìn thêm hình. Thật ra tôi có 1 website chứa các bức ảnh mình chụp của những người khác nữa mà tôi không có dịp đưa lên. Nhạc cụ này có mặt trong hầu hết các hình. Nó gọi là mouth bow. Khá chắc là nhạc cụ đầu tiên nhất của nhân loại, vẫn còn được chơi ở vùng miền núi phía Nam. Những người hoài cổ không ham loại dây đàn guitar để làm ra nó. Họ chỉ lấy một cành cây, sợi ruột mèo rồi căng lên. Tội cho con mèo, nhưng nhạc cụ làm ra lại rất tuyệt. Nó nghe như thế này.
(Music) Well, have you heard the many stories told by young and old with joy about the many deeds of daring that were done by the Johnson boys?
(Âm nhạc) Bạn đã bao giờ nghe già trẻ kể chuyện đầy vui thú chưa? về những thử thách của các chàng trai Johnson?
You take Kate, I'll take Sal; we'll both have a Johnson gal. You take Kate, I'll take Sal; we'll both have a Johnson gal.
Anh lấy Kate, tôi lấy Sal; 2 ta đều có được cô gái nhà Johnson. Anh lấy Kate, tôi lấy Sal; 2 ta đều có được cô gái nhà Johnson.
Now, they were scouts in the rebels' army, they were known both far and wide.
Giờ họ là do thám cho phiến quân nổi loạn phe mình. Họ được gần xa biết đến.
When the Yankees saw them coming, they'd lay down their guns and hide.
Khi bọn Yankees trông thấy họ, chúng sẽ hạ súng và trốn.
You take Kate, I'll take Sal; we'll both have a Johnson gal. You take Kate, I'll take Sal; we'll both have a Johnson gal.
Anh lấy Kate, tôi lấy Sal; 2 ta đều có được cô gái nhà Johnson. Anh lấy Kate, tôi lấy Sal; 2 ta đều có được cô gái nhà Johnson.
Ain't that a sound? (Applause)
Không tuyệt hay sao? (Vỗ tay)
Well, it was 1954, I guess it was. We were driving in the car outside of Gatesville, Texas, where I grew up in the early part of my life. Outside of Gatesville we were coming back from the grocery store. My mom was driving; my brother and I were in the back seat. We were really mad at my mom. We looked out the window. We were surrounded by thousands of acres of cotton fields. You see, we'd just been to the grocery store, and my mom refused to buy us the jar of Ovaltine that had the coupon for the Captain Midnight decoder ring in it. And, buddy, that made us mad. Well, my mom didn't put up with much either, and she was driving, and she said, "You boys! You think you can have anything you want. You don't know how hard it is to earn money. Your dad works so hard. You think money grows on trees. You've never worked a day in your lives. You boys make me so mad. You're going to get a job this summer."
Tôi đoán là năm 1954. Chúng tôi đang lái xe rời Gatesville, Texas, nơi tôi lớn lên. Ngoài Gatesville, khi ra khỏi tiệm tạp hóa mẹ tôi lái xe, tôi và anh mình ngồi ghế sau. Đang giận mẹ. Chúng tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Chúng tôi bị bao quanh bởi hàng ngàn dải cung của cánh đồng bông. Bạn hiểu đấy, chúng tôi vửa ở tiệm tạp hóa và mẹ thì không mua cho chúng tôi lọ Ovaltine trong đó có phiếu cho chiếc nhẫn giải mã của Captain Midnight À vâng, thế là chúng tôi giận mẹ. Và khi không chịu nổi nữa, bà vừa lái xe vừa la "Con trai! Con nghĩ muốn gì có nấy sao. Các con có biết kiếm tiền khó thế nao không. Bố các con vất vả lắm. Các con nghĩ tiền mọc như lá. Các con có làm việc ngày nào đâu. Mẹ bực rồi đấy. Hè này liệu đi mà kiếm việc làm."
She pulled the car over; she said, "Get out of the car." My brother and I stepped out of the car. We were standing on the edge of thousands of acres of cotton. There were about a hundred black folks out there picking. My mom grabbed us by the shoulders. She marched us out in the field. She went up to the foreman; she said, "I've got these two little boys never worked a day in their lives." Of course, we were just eight and 10. (Laughter) She said, "Would you put them to work?" Well, that must have seemed like a funny idea to that foreman: put these two middle-class little white boys out in a cotton field in August in Texas -- it's hot. So he gave us each a cotton sack, about 10 feet long, about that big around, and we started picking. Now, cotton is soft but the outside of the plant is just full of stickers. And if you don't know what you're doing, your hands are bleeding in no time. And my brother and I started to pick it, and our hands were startin' to bleed, and then -- "Mom!" And Mom was just sitting by the car like this. She wasn't going to give up.
Bà tấp xe vào lề, nói rằng "Ra khỏi xe." Anh và tôi ra khỏi xe. Chúng tôi đứng giữa cánh đồng bông. Có khoản trăm người da đen đang hái bông. Mẹ túm vai chúng tôi. Lôi ra đồng. Tới chỗ ông quản đốc, nói "Tôi có hai thằng nhỏ chưa bao giờ đi làm trong đời." Tất nhiên, chúng tôi chỉ mới 8 và 10 tuổi. (Cười) Bà bảo "Ông giao việc cho chúng chứ?" Ông quản đốc nghĩ đó là một trò đùa hai thằng nhóc trung lưu da trắng giữa cánh đồng bông ở August, Texas--rất nóng. Thế là ông ta đưa mỗi đứa 1 bao đựng dài khoảng 3m, to cỡ này, rồi chúng tôi đi hái Bông thì nhẹ nhưng cây thì toàn gai Và nếu không biết cách tay bạn sẽ chảy máu tức thì. Tôi và anh bắt đầu hái, rồi chảy máu tay, rồi--"Mẹ!" Mẹ thì ngồi cạnh chiếc xe như thế này này. Bà không định từ bỏ.
Well, the foreman could see he was in over his head, I guess. He kind of just snuck up behind us and he sang out in a low voice. He just sang: "Well, there's a long white robe in heaven, I know. Don't want it to leave me behind. Well, there's a long white robe in heaven, I know. Don't want it to leave me behind." And from all around as people started singing and answering back, he sang: "Good news, good news: Chariot's coming. Good news: Chariot's coming. Good news: Chariot's coming. And I don't want it to leave me behind." Now, my brother and I had never heard anything like that in our whole lives. It was so beautiful. We sat there all day picking cotton, without complaining, without crying, while they sang things like: "Oh, Mary, don't you weep, don't you moan" and "Wade in the water," and "I done done," "This little light of mine."
Tôi đoán ông quản đốc có lẽ không bình thường Ông lẻn đi sau chúng tôi và hát với tông giọng trầm. Ông hát "Tôi biết có một tấm áo choàng trắng nơi thiên đường. Không muốn nó bỏ tôi lại. Tôi biết có một tấm áo choàng trắng nơi thiên đường. Không muốn nó bỏ tôi lại." Và mọi người xung quanh bắt đầu hát và đáp lời, ông hát: "Tin tốt, tin tốt: Xe ngựa đang đến. Tin tốt: Xe ngựa đang đến. Tin tốt: Xe ngựa đang đến. Và tôi không muốn bị nó bỏ lại." Hai anh em tôi chưa từng nghe cái gì như thế cả Nó thật đẹp. Chúng tôi hái bông suốt cả ngày, không than phiền, không khóc lóc, họ thì hát: "Ôi, Mary, đừng khóc, đừng rên la", và "Lội nước" và "Tôi như xong", "Ánh sáng nhỏ của tôi."
Finally, by the end of the day, we'd each picked about a quarter of a bag of cotton. But the foreman was kind enough to give us each a check for a dollar, but my mother would never let us cash it. I'm 57; still have the check. Now, my mother hoped that we learned from that the value of hard work. But if you have children, you know it doesn't often work that way. No, we learned something else. The first thing I learned that day was that I never ever wanted to work that hard again. (Laughter) And pretty much never did. But I also learned that some people in this world do have to work that hard every day, and that was an eye-opener. And I also learned that a great song can make hard work go a little easier. And it also can bring the group together in a way that nothing else can.
Cuối cùng, trước khi ngày tàn, mỗi người chúng tôi hái được 1/4 đầy túi Ông quản đốc thật tốt bụng khi trả mỗi đứa tờ séc 1 đô la nhưng mẹ tôi không bao giờ cho chúng tôi đổi thành tiền mặt Năm nay tôi 57 tuổi và còn giữ tờ séc Mẹ hi vọng chúng tôi sẽ hiểu được giá trị của lao động cần cù. Nhưng nếu bạn có con, bạn hiểu là không phải lúc nào cũng làm được Không, chúng tôi học được cái khác. Điều đầu tiên là Tôi không bao giờ muốn lao động cần cù như thế nữa (Cười) Và không bao giờ nữa. Nhưng tôi cũng học được là một vài người phải làm việc như thế mỗi ngày, đúng là mở rộng tầm mắt Tôi cũng học được là âm nhạc có thể khiến công việc nhẹ nhàng hơn. Nó kết nối mọi người lại với nhau.
Now, I was just a little eight-year-old boy that day when my mama put me out of the car in that hot Texas cotton field. I wasn't even aware of music -- not even aware of it. But that day in the cotton field out there picking, when those people started singing, I realized I was in the very heart of real music, and that's where I've wanted to be ever since.
Tôi chỉ là 1 thằng bé 8 tuổi khi mẹ lôi tôi ra khỏi xe ở cánh đồng bông Texas nóng nực đó Tôi không hề có nhận thức âm nhạc - không nhận thức được. Nhưng cái ngày trên cánh đồng bông ấy, khi mọi người hát tôi nhận ra lòng mình dạt dào âm nhạc, và đó là nơi tôi muốn ở lại.
Try this old song with me. I sing: Well, there's a long white robe in heaven, I know.
Thử hát cùng tôi nào. Tôi hát: Tôi biết có một tấm áo choàng trắng nơi thiên đường.
You sing: Don't want it to leave me behind. Well, there's a long white robe in heaven, I know. Don't want it to leave me behind.
Bạn hát: Không muốn nó bỏ lại tôi. Tôi biết có một tấm áo choàng trắng nơi thiên đường. Không muốn nó bỏ lại tôi.
Good news, good news: Chariot's coming. Good news: Chariot's coming. Good news: Chariot's coming. And I don't want it to leave me --
Tin tốt, tin tốt: Xe ngựa đang đến. Tin tốt: Xe ngựa đang đến. Tin tốt: Xe ngựa đang đến. Và tôi không muốn bị nó bỏ lại...
It's been a while since you guys have been picking your last bale of cotton, isn't it? Let's try it one more time.
Lâu rồi mọi người không hái bông phải không? Thử lần nữa nào.
There's a starry crown in heaven, I know. Don't want it to leave me behind. There's a starry crown in heaven, I know. Don't want it to leave me behind.
Tôi biết có một vương miện đầy sao nơi thiên đường. Không muốn nó bỏ lại tôi. Tôi biết có một vương miện đầy sao nơi thiên đường. Không muốn nó bỏ lại tôi.
Good news: Chariot's coming. Good news: Chariot's coming. Good news: Chariot's coming. And I don't want it to leave me behind.
Tin tốt: Xe ngựa đang đến. Tin tốt: Xe ngựa đang đến. Tin tốt: Xe ngựa đang đến. Và tôi không muốn bị nó bỏ lại.
It was a few years ago, but I sort of remembered this story, and I told it at a concert. My mom was in the audience. After the -- she was glad to have a story about herself, of course, but after the concert she came up and she said, "David, I've got to tell you something. I set that whole thing up. I set it up with the foreman. I set it up with the owner of the land. I just wanted you boys to learn the value of hard work. I didn't know it was going to make you fall in love with music though."
Vài năm trước, nhưng tôi chỉ nhớ mài mại câu chuyện, tôi kể trong một buổi diễn Mẹ tôi có tới xem. Sau đó, mẹ rất vui khi tôi kể về bà, tất nhiên, sau buổi diễn, mẹ tới chỗ tôi và nói "David, mẹ phải nói với con một điều. Mẹ đã gài hai đứa đấy. Mẹ sắp đặt trước với ông quản đốc. Mẹ sắp đặt với chủ đất. Mẹ chỉ muốn hai con biết được giá trị của lao động chăm chỉ. Mẹ không ngờ rằng điều đó lại gieo mầm tình yêu âm nhạc trong con."
Let's try. Good news: Chariot's coming. Good news: Chariot's coming. Good news: Chariot's coming. And I don't want it to leave me behind. (Applause)
Thử nào. Tin tốt: Xe ngựa đang đến. Tin tốt: Xe ngựa đang đến. Tin tốt: Xe ngựa đang đến. Và tôi không muốn bị nó bỏ lại. (Vỗ tay)
Well, this is the steel guitar. It's an American-made instrument. It was originally made by the Dopyera Brothers, who later on made the Dobro, which is a wood-bodied instrument with a metal cone for -- where the sound comes from. It's usually played flat on your lap. It was made to play Hawaiian music back in the 1920s, before they had electric guitars, trying to make a loud guitar. And then African-American folks figured out you could take a broken bottle neck, just like that -- a nice Merlot works very well. That wine we had yesterday would have been perfect. Break it off, put it on your finger, and slide into the notes. This instrument pretty much saved my life.
Đây là guitar thép. Một nhạc cụ của nước Mỹ. Nó được tạo ra bởi anh em Dopyera, những người làm ra Dobro, một nhạc cụ thân gỗ với chóp kim loại chỗ âm thanh phát ra. Nó thường được chơi chỗ phẳng trên người. Được làm ra để chơi nhạc Hawaii vão những năm 1920 trước khi có guitar điện, họ cố làm guitar to tiếng. Rồi những người Mỹ gốc Phi tìm ra chỗ cổ chai bể, chỉ vậy-- một Merlot hoạt động tốt. Rượu ta uống hôm qua có thể đã hoàn hảo. Đập bể, để lên tay và trượt vào giấy nhắn. Nhạc cụ này đã cứu vãn đời tôi.
Fifteen years ago, 14 years ago, I guess, this year, my wife and I lost our daughter, Sarah Jane, in a car accident, and it was the most -- it almost took me out -- it almost took me out of this world. And I think I learned a lot about what happiness was by going through such unbelievable grief, just standing on the edge of that abyss and just wanting to jump in. I had to make lists of reasons to stay alive. I had to sit down and make lists, because I was ready to go; I was ready to check out of this world. And you know, at the top of the list, of course, were Jenny, and my son, Zeb, my parents -- I didn't want to hurt them. But then, when I thought about it beyond that, it was very simple things. I didn't care about -- I had a radio show, I have a radio show on public radio, "Riverwalk," I didn't care about that. I didn't care about awards or money or anything. Nothing. Nothing. On the list it would be stuff like, seeing the daffodils bloom in the spring, the smell of new-mown hay, catching a wave and bodysurfing, the touch of a baby's hand, the sound of Doc Watson playing the guitar, listening to old records of Muddy Waters and Uncle Dave Macon. And for me, the sound of a steel guitar, because one of my parents' neighbors just gave me one of these things. And I would sit around with it, and I didn't know how to play it, but I would just play stuff as sad as I could play. And it was the only instrument that, of all the ones that I play, that would really make that connection. This is a song that came out of that.
15 năm trước, 14 năm trước, tôi đoán, năm nay, vợ tôi và tôi mất đi đứa con, Sarah Jane, trong 1 tai nạn giao thông và hầu như -- xém chút giết cả tôi -- bắt tôi lìa xa thế giới. Và tôi nghĩ tôi học được rất nhiều về hạnh phúc khi nếm trải nghịch cảnh, như là đứng ngay bờ vực và chỉ muốn nhảy xuống thôi. Tôi phải làm bảng danh sách lý do để sống. Tôi ngồi lại và làm, vì tôi đã sẵn sàng ra đi. Sẵn sàng rời bỏ thế giới. Bạn biết đấy, ngay đầu danh sách, tất nhiên, là Jenny, và con trai tôi, Zeb, bố mẹ--Tôi không muốn họ phải đau khổ. Rồi sau, khi tôi nghĩ thêm nữa, những điều rất giản đơn. Tôi đã không quan tâm - Tôi có chương trình radio, Tôi có chương trình radio trên đài phát thanh, "Riverwalk", Tôi không quan tâm đến nó. Tôi không quan tâm tiền tài hay giải thưởng hay gì. Không gì cả. Không gì cả. Trong danh sách đều là, ngắm thủy tiên nở vào mùa xuân, mùi hương của cánh đồng mới gặt, đón sóng và lướt sóng, chạm tay vào đứa trẻ, âm guitar của Doc Watson, nghe bản ghi âm cũ của Muddy Waters và Uncle Dave Macon. Và tôi, âm thanh của cây guitar thép, bởi vì hàng xóm của bố mẹ đã tặng nó cho tôi. Tôi ngồi lại với nó, không biết cách chơi, nhưng tôi sẽ chơi buồn nhất có thể. Và đó là nhạc cụ duy nhất, trong số cái tôi chơi, có thể tạo được liên kết ấy. Đây là bài hát được ra đời từ đó.
(Music) Well, I hear you're having trouble. Lord, I hate to hear that news. If you want to talk about it, you know, I will listen to you through.
(Âm nhạc) Tôi nghe rằng anh đang gặp chuyện. Trời ơi, tôi ghét nghe tin ấy lắm. Nếu anh muốn tâm sự, anh biết, tôi sẽ chăm chú lắng nghe.
Words no longer say it; let me tell you what I always do. I just break off another bottleneck and play these steel guitar blues.
Ngôn từ không thể diễn tả hết, để tôi kể nghe điều tôi thường làm. Tôi chỉ đập bể cái cổ lọ và chơi điệu blue guitar thép.
People say, "Oh, snap out of it!" Oh yeah, that's easier said than done. While you can hardly move, they're running around having all kinds of fun.
Mọi người bảo: "Ôi, thôi ngay đi!" Oh yeah, nói thì dễ hơn làm. Trong khi anh hầu như không cử động, họ vui chơi chốn quanh.
Sometimes I think it's better just to sink way down in your funky mood 'til you can rise up humming these steel guitar blues.
Đôi khi tôi nghĩ tốt hơn cứ sa lầy vào tâm trạng sôi nổi đó tới khi nào ngâm nga được điệu blue từ guitar thép.
Now, you can try to keep it all inside with drink and drugs and cigarettes, but you know that's not going to get you where you want to get.
Giờ hãy nén mọi điều vào trong rượu này thuốc này và thuốc lá, nhưng anh biết nó sẽ không giúp anh đi đến đâu cả.
But I got some medicine here that just might shake things loose. Call me in the morning after a dose of these steel guitar blues. Open up now. (Applause)
Nhưng tôi có phương thuốc có thể làm vơi đi phần nào. Sáng ra hãy gọi cho tôi sau khi uống một cử điệu blue từ guitar thép. Mở rộng lòng nào. (Vỗ tay)
Oh, I think I've got time to tell you about this. My dad was an inventor. We moved to California when Sputnik went up, in 1957. And he was working on gyroscopes; he has a number of patents for that kind of thing. And we moved across the street from Michael and John Whitney. They were about my age. John went on, and Michael did too, to become some of the inventors of computer animation. Michael's dad was working on something called the computer. This was 1957, I was a little 10-year-old kid; I didn't know what that was. But he took me down to see one, you know, what they were making. It was like a library, just full of vacuum tubes as far as you could see, just floors and floors of these things, and one of the engineers said, some day you're going to be able to put this thing in your pocket. I thought, damn, those are going to be some big pants! (Laughter)
Ồ, tôi nghĩ vẫn còn thời gian kể cho các bạn nghe về chuyện này. Bố tôi là nhà phát mình. Chúng tôi chuyển đến California khi Sputnik phát triển năm 1957. Ông đang làm việc trên máy con quay; ông có nhiều bằng sáng chế cho loại đó. Chúng tôi đến sống đối diện Michael và John Whitney. Họ trạc tuổi tôi. John sau này, Michael cũng vậy, để trở thành nhà sáng chế hoạt hình máy tính, Bố Michael làm việc trên một thứ gọi là máy vi tính. Năm 1957, tôi 10 tuổi; tôi không biết đó là gì. Những ông đã cho tôi xem nó, bạn biết đấy, thứ họ làm, như là một thư việ, đầy rẫy các ống rỗng, tầng nào cũng như vậy, một kỹ sư nói rằng, Một ngày nào đó cái này có thể bỏ vừa túi quần cháu. Tôi đã nghĩ, quái, cái quần chắc bự lắm. (Cười)
So that Christmas -- maybe I've got time for this -- that Christmas I got the Mister Wizard Fun-o-Rama chemistry set. Well, I wanted to be an inventor just like my dad; so did Michael. His great-granddad had been Eli Whitney, the inventor of the cotton gin. So we looked in that -- this was a commercial chemistry set. It had three chemicals we were really surprised to see: sulfur, potassium nitrate and charcoal. Man, we were only 10, but we knew that made gunpowder. We made up a little batch and we put it on the driveway and we threw a match and phew, it flared up. Ah, it was great.
Giáng sinh năm đó--có lẽ còn thời gian-- Giáng sinh năm đó tôi được bộ hóa học Mister Wizard Fun-o-Rama. Tôi muốn trở thành nhà phát mình như bố, Michael cũng vậy. Ông cố của anh là Eli Whitney, người phát minh ra máy tỉa sợi. Chúng tôi nhìn vào... đó là một bộ hóa học thương mại. Nó có 3 loại hóa chất tôi không ngờ tới: lưu huỳnh, kali nitrat và than. Trời, chúng tôi chỉ 10 tuổi, nhưng chúng tôi biết cái đó để làm thuốc súng. Chúng tôi làm một mẻ nhỏ và đặt ở đường đi chúng tôi ném que diêm và phew, nó bừng sáng. À, Rất tuyệt.
Well, obviously the next thing to do was build a cannon. So we went over into Michael's garage -- his dad had all kinds of stuff, and we put a pipe in the vice there, and screwed a cap on the end of the pipe, drilled a hole in the back of the pipe, took some of our firecrackers, pulled out the fuses, tied them together, put them in the back there, and -- down in that hole -- and then stuffed some of our gunpowder down that pipe and put three ball bearings on the top, in the garage. (Laughter) We weren't stupid: we put up a sheet of plywood about five feet in front of it. We stood back, we lit that thing, and they flew out of there -- they went through that plywood like it was paper. Through the garage. Two of them landed in the side door of his new Citroen. (Laughter) We tore everything down and buried it in his backyard. That was Pacific Palisades; it probably is still there, back there.
Khá rõ ràng là phải làm thêm một khẩu đại bác Nên chúng tôi vào gara nhà Michael bố cậu có đủ đồ nghề, chúng tôi kẹp mấy cái ống lại, đính ốc vào cuối đoạn ống, đục một lỗ sau lưng ống, lấy pháo ra kéo hết dây dẫn, cột lại rồi nhét vào và chỗ đầu lỗ bỏ thuốc súng vào ống rồi đặt 3 trái banh, trong gara (Cười) Chúng tôi đâu có ngu: chúng tôi dựng nên một màng gỗ ván khoảng 1,5m trước nó Chúng tôi lùi lại, châm lửa rồi chúng bay ra khỏi đó, xuyên qua mấy ván gỗ như thể nó là giấy xuyên cả gara Hai trái đậu ở cửa chiếc Citroen mới toanh nhà cậu. (Cười) Chúng tôi tháo dỡ mọi thứ và đem chôn sau vườn nhà cậu ấy. Đó là Pacific Palisades; chắc hẳn vẫn còn ở đó, ngay đó.
Well, my brother heard that we had made gunpowder. He and his buddies, they were older, and they were pretty mean. They said they were going to beat us up if we didn't make some gunpowder for them. We said, well, what are you going to do with it? They said, we're going to melt it down and make rocket fuel. (Laughter) Sure. We'll make you a big batch. (Laughter) So we made them a big batch, and it was in my -- now, we'd just moved here. We'd just moved to California. Mom had redone the kitchen; Mom was gone that day. We had a pie tin. It became Chris Berquist's job to do the melting down. Michael and I were standing way at the side of the kitchen. He said, "Yeah, hey, it's melting. Yeah, the sulfur's melting. No problem. Yeah, you know." It just flared up, and he turned around, and he looked like this. No hair, no eyelashes, no nothing. There were big welts all over my mom's kitchen cabinet; the air was the just full of black smoke. She came home, she took that chemistry set away, and we never saw it again. But we thought of it often, because every time she'd cook tuna surprise it made -- tasted faintly of gunpowder.
Anh tôi nghe ngóng được chúng tôi làm thuốc súng, nên gọi bạn bè mình, lớn hơn và xấu tính nữa. Họ nói sẽ đánh chúng tôi nếu không làm cho họ một ít. Chúng tôi hỏi, các anh định làm gì với chúng? Họ nói:"Bọn tao sẽ nấu chảy chúng làm nhiên liệu tên lửa." (Cười) Thế bọn em sẽ làm thật nhiều cho. (Cười) Chúng tôi làm rất nhiều, nó ở trong... giờ, chúng tôi chuyển đến đây. Mới chuyển đến California. Mẹ mới xây lại nhà bếp; mẹ phải đi công chuyện hôm đó. Chúng tôi có một cái khung bánh Chris Berquist đảm nhiệm việc nấu chảy Michael và tôi đứng tránh xa nhà bếp. Cậu nói:"Yeah, này, nó chãy kìa. Yeah, lưu huỳnh tan chảy. Không sao cả. Yeah, cậu biết mà." Nó chỉ cháy sáng, cậu ấy quay lại, trông thế này. Không tóc. Không lông mi, không gì cả. Nhà bếp của mẹ loạn cả lên; khói đen mịt mù Mẹ về nhà, tịch thu bộ hóa học và nó mãi biến mất. Nhưng chúng tôi vẫn thường nghĩ về nó, vì mỗi lần mẹ nấu cá ngừ, ngạc nhiên chưa nó như có dư vị thuốc súng trong đó.
So I like to invent things too, and I think I'll close out my set with something I invented a good while back. When drum machines were new, I got to thinking, why couldn't you take the oldest form of music, the hambone rhythms, and combine it with the newest technology? I call this Thunderwear. At that time, drum triggers were new. And so I put them all together and sewed 12 of them in this suit. I showed you some of the hambone rhythms yesterday; I'm going to be doing some of the same ones. I have a trigger here, trigger here, here, here. Right there. It's going to really hurt if I don't take that off. Okay. Now, the drum triggers go out my tail here, into the drum machine, and they can make various sounds, like drums. So let me put them all together. And also, I can change the sounds by stepping on this pedal right here, and -- let me just close out here by doing you a little hambone solo or something like this.
Tôi cũng thích chế đồ lắm, và tôi nghĩ tôi gần đạt thành món đồ mình sáng chế thời gian trước Khi máy đánh trống còn mới mẻ, tôi nghĩ sao mình không chơi loại nhạc cổ xưa nhất, điệu hambone, và kết hợp với công nghệ mới nhất? Tôi gọi nó là Thunderwear. Lúc đó, trống kích hoạt còn mới. Thế là tôi kết hợp lại và may hết 12 cái vào bộ đồ này. Tôi đã cho mọi người nghe điệu hambone hôm qua; tôi sẽ làm gần như vậy. Tôi có 1 cái khích hoạt ở đây, đây, đây. Ở đây. Tôi mà không cởi ra là đau lắm. Ok. Giờ, trống kích hoạt chỗ cái đuổi, tới máy đánh trống, và tạo ra nhiều âm thanh khác nhau, như trống. Để tôi chỉnh lại. Và tôi cũng thay đổi được âm thanh. bằng cách đạp lên bàn đạp này, và để tôi kết thúc bằng việc trình diễn chút điệu hambone solo hay như này.
Thank you, folks. (Applause)
Cám ơn, đồng chí. (Vỗ tay)