The Olympic motto is "Citius, Altius, Fortius." Faster, Higher, Stronger. And athletes have fulfilled that motto rapidly. The winner of the 2012 Olympic marathon ran two hours and eight minutes. Had he been racing against the winner of the 1904 Olympic marathon, he would have won by nearly an hour and a half. Now we all have this feeling that we're somehow just getting better as a human race, inexorably progressing, but it's not like we've evolved into a new species in a century. So what's going on here? I want to take a look at what's really behind this march of athletic progress.
Khẩu hiệu của Olympic là "Citius, Altius, Fortius" Nhanh hơn, Cao hơn, Mạnh hơn. Các vận động viên thực hiện khẩu hiệu đó nhanh chóng. Người chiến thắng cuộc chạy marathon Olympic 2012 đã chạy trong 2 giờ và 8 phút. Nếu anh chạy đua với người chiến thắng marathon Olympic 1904, hẳn anh đã thắng hơn được gần 1 tiếng rưỡi đồng hồ. Và giờ đây, chúng ta đều có cảm giác rằng chúng ta, bằng cách nào đó trở nên tốt hơn như là cuộc chạy đua của con người, không thể lay chuyển sự tiến bộ, nhưng nó không giống như chúng ta đã phát triển thành một loài mới trong một thế kỷ. Thế thì cái gì đang diễn ra ở đây? Tôi muốn nhìn vào thứ thật sự ở đằng sau sự tiến triển này của sự tiến bộ trong thể thao.
In 1936, Jesse Owens held the world record in the 100 meters. Had Jesse Owens been racing last year in the world championships of the 100 meters, when Jamaican sprinter Usain Bolt finished, Owens would have still had 14 feet to go. That's a lot in sprinter land. To give you a sense of how much it is, I want to share with you a demonstration conceived by sports scientist Ross Tucker. Now picture the stadium last year at the world championships of the 100 meters: thousands of fans waiting with baited breath to see Usain Bolt, the fastest man in history; flashbulbs popping as the nine fastest men in the world coil themselves into their blocks. And I want you to pretend that Jesse Owens is in that race. Now close your eyes for a second and picture the race. Bang! The gun goes off. An American sprinter jumps out to the front. Usain Bolt starts to catch him. Usain Bolt passes him, and as the runners come to the finish, you'll hear a beep as each man crosses the line. (Beeps) That's the entire finish of the race. You can open your eyes now. That first beep was Usain Bolt. That last beep was Jesse Owens. Listen to it again. (Beeps) When you think of it like that, it's not that big a difference, is it? And then consider that Usain Bolt started by propelling himself out of blocks down a specially fabricated carpet designed to allow him to travel as fast as humanly possible. Jesse Owens, on the other hand, ran on cinders, the ash from burnt wood, and that soft surface stole far more energy from his legs as he ran. Rather than blocks, Jesse Owens had a gardening trowel that he had to use to dig holes in the cinders to start from. Biomechanical analysis of the speed of Owens' joints shows that had been running on the same surface as Bolt, he wouldn't have been 14 feet behind, he would have been within one stride. Rather than the last beep, Owens would have been the second beep. Listen to it again. (Beeps) That's the difference track surface technology has made, and it's done it throughout the running world.
Năm 1936, Jesse Owens giữ kỷ lục thế giới ở cự ly chạy 100 mét. Có phải Jesse Owens đã chạy đua trong năm trước ở giải vô địch thế giới 100 mét, khi Jamaican sprinter Usain Bolt kết thúc, Owens vẫn còn 14 feet phải đi tiếp. Chừng đó là rất nhiều trong bộ môn chạy nước rút. Để giúp bạn hiểu được nó nhiều như thế nào, tôi muốn chia sẻ với bạn một minh họa được tạo bởi nhà khoa học thể thao Ross Tucker. Bây giờ, hãy hình dung sân vận động vào năm trước, tại giải vô địch thế giới 100 mét: hàng ngàn người hâm mộ đang nín thở chờ đợi để thấy Usain Bolt, người đàn ông nhanh nhất trong lịch sử; tiếng nháy của đèn flash như thể 9 người đàn ông nhanh nhất thế giới cuộn mình trong đám đông của họ. Và tôi muốn bạn giả vờ là Jesse Owens ở trong cuộc đua đó. Và bây giờ, hãy nhắm mắt lại vài giây và hình dung ra cuộc đua. Bang! Súng nổ. Và vận động viên chạy nước rút người Mỹ nhảy ra phía trước. Usain Bolt bắt đầu đuổi theo anh ta. Usain Bolt đã vượt qua anh ta, và khi vận động viên đến vạch đích, bạn sẽ nghe được tiếng beep mỗi khi có người vượt qua vạch. (Beeps) Đó là toàn bộ kết thúc của cuộc đua. Và bây giờ bạn có thể mở mắt ra. Tiếng beep đầu tiên là Usain Bolt. Và tiếng beep cuối cùng là của Jesse Owens. Hãy nghe lại lần nữa. (Beeps) Khi bạn nghĩ về chúng như thế, đó không phải là một khác biệt lớn, phải không? Và sau đó hãy xem xét rằng Usain Bolt đã bắt đầu bằng cách tự đẩy mình ra khỏi đám đông xuống một tấm thảm đặc biệt được thiết kế để cho anh ta di chuyển nhanh như con người có thể. Mặt khác, Jesse Owens chạy trên đám tro, tro bụi từ gỗ cháy, và bề mặt mềm đó đã lấy đi nhiều năng lượng hơn từ chân khi anh ta chạy. Thay vì là đám đông, Jesse Owens đã có một chiếc bay làm vườn mà anh ta phải sử dụng để đào một cái lỗ trong đống tro bụi để bắt đầu. Phân tích cơ học của tốc độ của các khớp xương của Owens cho thấy anh ta đã chạy trên một bề mặt giống như Bolt, anh ta không thể bị bỏ lại phía sau 14 feet, anh ta phải ở trong khoảng 1 sải chân. Thay vì là tiếng beep cuối cùng, anh ta phải ở vị trí tiếng beep thứ 2. Hãy nghe lại nó lần nữa. (Beeps) Đó là sự khác biệt mà kỹ thuật bề mặt đường đua đã làm, và nó đã được thực hiện trên toàn thế giới chạy đua.
Consider a longer event. In 1954, Sir Roger Bannister became the first man to run under four minutes in the mile. Nowadays, college kids do that every year. On rare occasions, a high school kid does it. As of the end of last year, 1,314 men had run under four minutes in the mile, but like Jesse Owens, Sir Roger Bannister ran on soft cinders that stole far more energy from his legs than the synthetic tracks of today. So I consulted biomechanics experts to find out how much slower it is to run on cinders than synthetic tracks, and their consensus that it's one and a half percent slower. So if you apply a one and a half percent slowdown conversion to every man who ran his sub-four mile on a synthetic track, this is what happens. Only 530 are left. If you look at it from that perspective, fewer than ten new men per [year] have joined the sub-four mile club since Sir Roger Bannister. Now, 530 is a lot more than one, and that's partly because there are many more people training today and they're training more intelligently. Even college kids are professional in their training compared to Sir Roger Bannister, who trained for 45 minutes at a time while he ditched gynecology lectures in med school. And that guy who won the 1904 Olympic marathon in three in a half hours, that guy was drinking rat poison and brandy while he ran along the course. That was his idea of a performance-enhancing drug. (Laughter)
Hãy xem xét một sự kiện dài hơn. Năm 1954, Sir Roger Bannister đã trở thành người đàn ông đầu tiên chạy 1 dặm trong chưa tới 4 phút. Ngày nay, những sinh viên đại học là điều đó mỗi năm. Trong những trường hợp hiếm hoi, 1 học sinh trung học làm được điều đó. Tính đến cuối năm ngoái, 1314 người đàn ông đã chạy 1 dặm dưới 4 phút, nhưng cũng như Jesse Owens, Sir Roger Bannister đã chạy trên tro mềm điều đó làm mất đi nhiều năng lượng từ chân anh ta hơn là đường chạy tổng hợp ngày nay. Vì thế, tôi đã tham khảo ý kiến các chuyên gia cơ sinh học để tìm ra xem nó sẽ chậm hơn thế nào khi chạy trên tro so với đường chạy tổng hợp, và họ nhất trí là nó chậm hơn 1.5%. Và nếu bạn cộng thêm 1.5% chuyển đổi sự chậm lại cho mỗi người đàn ông đã chạy dưới 4 phút 1 dặm trên đường chạy tổng hợp, đây là cái xảy ra. Chỉ còn lại 530 người. Nếu bạn nhìn vào nó từ quan điểm đó, sẽ có ít hơn 10 người mỗi năm gia nhập vào câu lạc bộ những người chạy 1 dặm dưới 4 phút kể từ Sir Roger Bannister. Bây giờ, 530 thì vẫn rất nhiều hơn so với 1, và đó một phần là do ngày càng có nhiều người luyện tập và họ luyện tập một cách thông minh hơn. Ngay cả những sinh viên đại học cũng là chuyên gia trong luyện tập so với Sir Roger Bannister, người đã luyện tập 45 phút 1 lần trong khi anh ta trốn tiết những bài giảng phụ khoa ở trường y. Và người đó đã chiến thắng cuộc thi marathon Olympic 1904 trong 3 tiếng rưỡi, người đó đã uống thuốc diệt chuột và rượu mạnh khi anh ta chạy suốt vòng đua. Đó là ý tưởng của anh ta về một loại thuốc tăng cường hiệu suất. (Cười lớn)
Clearly, athletes have gotten more savvy about performance-enhancing drugs as well, and that's made a difference in some sports at some times, but technology has made a difference in all sports, from faster skis to lighter shoes. Take a look at the record for the 100-meter freestyle swim. The record is always trending downward, but it's punctuated by these steep cliffs. This first cliff, in 1956, is the introduction of the flip turn. Rather than stopping and turning around, athletes could somersault under the water and get going right away in the opposite direction. This second cliff, the introduction of gutters on the side of the pool that allows water to splash off, rather than becoming turbulence that impedes the swimmers as they race. This final cliff, the introduction of full-body and low-friction swimsuits.
Rõ ràng, các vận động viên đã có nhiều hiểu biết hơn cũng như về các loại thuốc tăng cường hiệu suất, và điều đó làm nên sự khác biệt trong một vài môn thể thao một vài lần, nhưng công nghệ đã làm nên sự khác biệt trong mọi môn thể thao, từ ván trượt nhanh hơn đến giày nhẹ hơn. Hãy nhìn vào kỷ lục bơi tự do 100 mét. Bảng kỷ lục luôn có xu hướng đi xuống, nhưng nó bị ngắt quãng bởi những tảng đá dựng đứng. Đây là vách đá đầu tiên, vào năm 1956, là sự ra đời của sự đảo chiều. Thay vì dừng lại và quay lại, các vận động viên phải nhào lộn dưới nước và ngay lập tức bơi theo hướng ngược lại. Vách đá thứ hai, sự ra đời của các máng xối bên cạnh hồ bơi để nước văng ra, thay vì trở thành những bất ổn để làm cản trở người bơi khi họ đang trong cuộc đua. Vách đá cuối cùng, sự ra đời của đồ bơi toàn cơ thể và ma sát thấp.
Throughout sports, technology has changed the face of performance. In 1972, Eddy Merckx set the record for the longest distance cycled in one hour at 30 miles, 3,774 feet. Now that record improved and improved as bicycles improved and became more aerodynamic all the way until 1996, when it was set at 35 miles, 1,531 feet, nearly five miles farther than Eddy Merckx cycled in 1972. But then in 2000, the International Cycling Union decreed that anyone who wanted to hold that record had to do so with essentially the same equipment that Eddy Merckx used in 1972. Where does the record stand today? 30 miles, 4,657 feet, a grand total of 883 feet farther than Eddy Merckx cycled more than four decades ago. Essentially the entire improvement in this record was due to technology.
Trong khắp các môn thể thao, công nghệ đã làm thay đổi bộ mặt của thành tích. Năm 1972, Eddy Merckx đã lập kỷ lục cho quãng đường đạp xe dài nhất trong 1 giờ với 30 dặm và 3774 feet. Và bây giờ, kỷ lục đó đã được cải thiện và cải thiện hơn vì xe đạp được cải thiện và trở nên khí động học hơn chỉ cho đến năm 1996, khi kỷ lục mới xác lập với 35 dặm và 1531 feet, nhanh hơn gần 5 dặm so với Eddy Merckx đã làm năm 1972. Nhưng vào năm 2000, Liên minh Đạp xe Quốc tế đã quyết định rằng, bất cứ ai muốn giữ kỷ lục đó phải làm điều đó với cùng 1 thiết bị mà Eddy Merckx đã sử dụng năm 1972. Kỷ lục ngày nay đang ở mức nào? 30 dặm và 4657 feet, nhiều hơn tổng cộng 883 feet so với Eddy Merckx đã làm cách đây hơn 4 thập kỷ. Về cơ bản, mọi sự thay đổi trong bảng kỷ lục này là do công nghệ.
Still, technology isn't the only thing pushing athletes forward. While indeed we haven't evolved into a new species in a century, the gene pool within competitive sports most certainly has changed. In the early half of the 20th century, physical education instructors and coaches had the idea that the average body type was the best for all athletic endeavors: medium height, medium weight, no matter the sport. And this showed in athletes' bodies. In the 1920s, the average elite high-jumper and average elite shot-putter were the same exact size. But as that idea started to fade away, as sports scientists and coaches realized that rather than the average body type, you want highly specialized bodies that fit into certain athletic niches, a form of artificial selection took place, a self-sorting for bodies that fit certain sports, and athletes' bodies became more different from one another. Today, rather than the same size as the average elite high jumper, the average elite shot-putter is two and a half inches taller and 130 pounds heavier. And this happened throughout the sports world.
Tuy nhiên, công nghệ không phải là thứ duy nhất thúc đẩy các vận động viên về phía trước. Trong khi sự thật là chúng ta đã không phát triển thành một loài mới trong suốt một thế kỷ, nguồn gen trong cạnh tranh các môn thể thao chắc chắn đã thay đổi. Trong nửa đầu của thế kỷ 20, những giáo viên hướng dẫn và huấn luyện viên thể dục thể thao đã có ý tưởng rằng các dạng cơ thể trung bình là tốt nhất cho các nỗ lực thể thao: cân nặng trung bình, chiều cao trung bình, không có vấn đề gì với các môn thể thao. Và điều này thể hiện trên cơ thể của các vận động viên. Vào những năm 1920, mức trung bình của các vận động viên nhảy cao ưu tú và các vận động viên đẩy tạ có kích cỡ như nhau. Nhưng ý tưởng đó bắt đầu mờ dần, vì các nhà khoa học thể thao và các huấn luyện viên nhận ra rằng thay vì là dạng cơ thể trung bình, bạn muốn có một dạng cơ thể đặc biệt hơn cao hơn để phù hợp với một số môn thể thao, một hình thức lựa chọn nhân tạo đã xảy ra, một sự tự phân loại cơ thể sao cho phù hợp với các môn thể thao cụ thể, và cơ thể các vận động viên trở nên khác nhau với những người khác. Thay vì có cùng kích cỡ như vận động viên nhảy cao, vận động viên đẩy tạ cao hơn 2.5 inches và nặng hơn 130 pounds. Và điều này xảy ra trong thế giới thể thao.
In fact, if you plot on a height versus mass graph one data point for each of two dozen sports in the first half of the 20th century, it looks like this. There's some dispersal, but it's kind of grouped around that average body type. Then that idea started to go away, and at the same time, digital technology -- first radio, then television and the Internet -- gave millions, or in some cases billions, of people a ticket to consume elite sports performance. The financial incentives and fame and glory afforded elite athletes skyrocketed, and it tipped toward the tiny upper echelon of performance. It accelerated the artificial selection for specialized bodies. And if you plot a data point for these same two dozen sports today, it looks like this. The athletes' bodies have gotten much more different from one another. And because this chart looks like the charts that show the expanding universe, with the galaxies flying away from one another, the scientists who discovered it call it "The Big Bang of Body Types."
Sự thật là, nếu bạn vẽ đồ thị chiều cao và khối lượng mỗi điểm dữ liệu cho khoảng 24 môn thể thao trong nửa đầu thế kỷ 20, nó sẽ trông như thế này. Có một vài sự phân tán ở đây, nhưng nó trông như tập trung ở xung quanh dạng cơ thể trung bình. Và thế là ý tưởng đó bắt đầu biến mất, và cùng lúc đó, công nghệ kỹ thuật số -- đầu tiên là đài phát thanh, rồi đến ti vi và mạng internet -- cho phép hàng triệu, hay hàng tỷ người trong vài trường hợp một tấm vé để có mặt trong các màn trình diễn thể thao ưu tú. Các ưu đãi tài chính, danh tiếng dành cho các vận động viên ưu tú tăng vọt, và nó nghiêng về một phần nhỏ các cấp bậc phía trên của buổi diễn. Nó làm tăng sự lựa chọn có chọn lọc của các tổ chức chuyên môn. Và nếu bạn vẽ một điểm dữ liệu cho cùng 24 môn thể thao đó ngày hôm nay, nó sẽ trông như thế này. Cơ thể các vận động viên đã có nhiều sự khác biệt với những vận động viên khác. Và bởi vì biểu đồ này trông giống như một biểu đồ cho thấy vũ trụ mở rộng, với các thiên hà bay cách xa các thiên hà khác, những nhà khoa học đã phát hiện ra nó, gọi là "The Big Bang of Body Types." (Vụ nổ Big Bang của các dạng cơ thể)
In sports where height is prized, like basketball, the tall athletes got taller. In 1983, the National Basketball Association signed a groundbreaking agreement making players partners in the league, entitled to shares of ticket revenues and television contracts. Suddenly, anybody who could be an NBA player wanted to be, and teams started scouring the globe for the bodies that could help them win championships. Almost overnight, the proportion of men in the NBA who are at least seven feet tall doubled to 10 percent. Today, one in 10 men in the NBA is at least seven feet tall, but a seven-foot-tall man is incredibly rare in the general population -- so rare that if you know an American man between the ages of 20 and 40 who is at least seven feet tall, there's a 17 percent chance he's in the NBA right now. (Laughter) That is, find six honest seven footers, one is in the NBA right now. And that's not the only way that NBA players' bodies are unique. This is Leonardo da Vinci's "Vitruvian Man," the ideal proportions, with arm span equal to height. My arm span is exactly equal to my height. Yours is probably very nearly so. But not the average NBA player. The average NBA player is a shade under 6'7", with arms that are seven feet long. Not only are NBA players ridiculously tall, they are ludicrously long. Had Leonardo wanted to draw the Vitruvian NBA Player, he would have needed a rectangle and an ellipse, not a circle and a square.
Trong các môn thể thao đánh giá cao chiều cao như bóng rổ các vận động viên đã cao lại cao hơn. Năm 1983, giải bóng rổ nhà nghề Mỹ (National Basketball Association - NBA) đã ký một thỏa thuận đột phá làm cho các đội chơi trong giải đấu, được hưởng cổ phần doanh thu bán vé và các hợp đồng truyền hình. Đột nhiên, bất cứ ai cũng có thể là một cầu thủ NBA nếu họ muốn, các đội chơi bắt đầu lùng sục khắp nơi để tìm ra những cơ thể có thể giúp họ giành chức vô địch. Gần như chỉ qua một đêm, tỷ lệ nam giới trong NBA những người cao ít nhất 7 feet (khoảng 2,13 mét) đã tăng gấp đôi lên 10%. Ngày nay, 1 trong 10 cầu thủ ở NBA cao ít nhất 7 feet, nhưng những người cao 7 feet thì thật sự rất hiếm trong dân số, nói chung -- hiếm tới nỗi nếu bạn biết rằng đàn ông Mỹ trong độ tuổi 20 và 40 mà cao ít nhất 7 feet thì chỉ có khoảng 17% anh ta đang ở NBA ngay lúc này. (Cười lớn) Có nghĩa là, tìm ra 6 người thật sự cao 7 feet thì có 1 người đang ở NBA lúc này. Và đó không phải là cách duy nhất mà cơ thể những cầu thủ NBA là duy nhất. Đây là bức vẽ "Vitruvian Man" của Leonardo da Vinci, những tỷ lệ lý tưởng, với sải tay tương đương với chiều cao Sải tay của tôi chính xác là bằng với chiều cao của tôi Và của bạn cũng sẽ như vậy. Nhưng không phải là với các cầu thủ trung bình ở NBA. Các cầu thủ trung bình ở NBA dưới 6,7 feet với cánh tay dài 7 feet. Không chỉ cao một cách kì cục, họ dài một cách khôi hài. Leonardo nếu từng muốn vẽ bức tranh Vitruvian NBA Player, ông ấy sẽ cần đến 1 hình chữ nhật và 1 hình ê-lip, chứ không phải là 1 hình tròn và 1 hình vuông.
So in sports where large size is prized, the large athletes have gotten larger. Conversely, in sports where diminutive stature is an advantage, the small athletes got smaller. The average elite female gymnast shrunk from 5'3" to 4'9" on average over the last 30 years, all the better for their power-to-weight ratio and for spinning in the air. And while the large got larger and the small got smaller, the weird got weirder. The average length of the forearm of a water polo player in relation to their total arm got longer, all the better for a forceful throwing whip. And as the large got larger, small got smaller, and the weird weirder. In swimming, the ideal body type is a long torso and short legs. It's like the long hull of a canoe for speed over the water. And the opposite is advantageous in running. You want long legs and a short torso. And this shows in athletes' bodies today. Here you see Michael Phelps, the greatest swimmer in history, standing next to Hicham El Guerrouj, the world record holder in the mile. These men are seven inches different in height, but because of the body types advantaged in their sports, they wear the same length pants. Seven inches difference in height, these men have the same length legs.
Vì thế, trong các môn thể thao khi mà kích cỡ được đánh giá cao, thì các vận động viên đã to cao lại càng cao lớn hơn. Ngược lại, trong những môn mà thân hình nhỏ bé chiếm ưu thế, thì các vận động viên đã nhỏ sẽ nhỏ hơn. Các nữ vận động viên thể dục dụng cụ ưu tú trung bình giảm từ 5,3 xuống 4,9 feet trong hơn 30 năm qua, tất cả là để tốt cho tỷ lệ công suất - trọng lượng của họ và cho việc xoay trong không khí. Và mọi thứ lớn thì ngày càng lớn hơn nhỏ thì ngày càng nhỏ hơn, những thứ kì lạ lại trở nên kì lạ hơn. Độ dài trung bình cẳng tay của cầu thủ bóng nước trong mối tương quan với cả cánh tay trở nên dài hơn, tất cả để cho một cú ném bóng thật mạnh mẽ. Và vì mọi thứ lớn thì ngày càng lớn hơn, nhỏ thì ngày càng nhỏ hơn, những thứ kì lạ lại trở nên kì lạ hơn. Trong bộ môn bơi lội, thân hình lý tưởng là phần thân dài và chân ngắn. Nó giống như một thân tàu dài của chiếc ca-nô để tăng tốc trên mặt nước. Và hướng ngược lại là lợi thế cho môn chạy bộ. Bạn cần chân dài và cơ thể ngắn. Và điều này cho thấy thân hình của các vận động viên ngày nay. Đây là Michael Phelps, vận động viên bơi lội xuất sắc nhất trong lịch sử, đứng kế bên Hicham El Guerrouj, người giữ kỷ lục thế giới trong 1 dặm. Hai người này khác nhau 7 inch về chiều cao, nhưng bởi vì hình dạng cơ thể chiếm ưu thế trong môn thể thao của họ, họ mặc những chiếc quần có chiều dài ngang nhau. Khác nhau 7 inch về chiều cao, mặc chung 1 kích thước quần.
Now in some cases, the search for bodies that could push athletic performance forward ended up introducing into the competitive world populations of people that weren't previously competing at all, like Kenyan distance runners. We think of Kenyans as being great marathoners. Kenyans think of the Kalenjin tribe as being great marathoners. The Kalenjin make up just 12 percent of the Kenyan population but the vast majority of elite runners. And they happen, on average, to have a certain unique physiology: legs that are very long and very thin at their extremity, and this is because they have their ancestry at very low latitude in a very hot and dry climate, and an evolutionary adaptation to that is limbs that are very long and very thin at the extremity for cooling purposes. It's the same reason that a radiator has long coils, to increase surface area compared to volume to let heat out, and because the leg is like a pendulum, the longer and thinner it is at the extremity, the more energy-efficient it is to swing. To put Kalenjin running success in perspective, consider that 17 American men in history have run faster than two hours and 10 minutes in the marathon. That's a four-minute-and-58-second-per-mile pace. Thirty-two Kalenjin men did that last October. (Laughter) That's from a source population the size of metropolitan Atlanta.
Và trong một số trường hợp, việc tìm kiếm các dạng cơ thể có thể đẩy thành tích của vận động viên lên phía trước thành ra là việc bước chân vào thế giới cạnh tranh của những người mà trước đây không cạnh tranh gì cả, giống như những cầu thủ chạy cự ly dài người Kenya. Chúng ta nghĩ về người Kenya là những vận động viên marathon tuyệt vời. Người Kenya nghĩ về bộ tộc Kalenjin như là những người chạy marathon nhanh nhất. Bộ tộc Kalenjin chỉ chiếm 12% dân số Kenya nhưng chiếm phần lớn các vận động viên ưu tú. Và điều đó xảy ra, trung bình để có một chức năng sinh lý độc đáo nhất định: chân rất dài và rất ốm ở mức cùng cực, đó là bởi vì họ có tổ tiên ở vùng vĩ độ thấp với khí hậu rất nóng và khô, và việc tiến hóa để thích nghi với điều đó làm cho tứ chi rất dài và ốm một cách cùng cực cho mục đích làm mát. Cùng lý do tại sao bộ tản nhiệt thường có cuộn dây dài, là để tăng diện tích bề mặt tiếp xúc để tản nhiệt, và vì cái chân giống như một con lắc, nên nó càng dài và ốm thì năng lượng sẽ càng được tiết kiệm để đu đưa. Đặt việc chạy thành công của bộ tộc người Kalenjin trong quan điểm đó, xem như 17 người đàn ông Mỹ trong lịch sử đã chạy nhanh hơn 2 giờ 10 phút trong cuộc đua marathon. Tốc độ là 4 phút 58 giây mỗi dặm. 32 người đàn ông Kalenjin đã làm điều đó vào tháng 10 năm trước. (Cười lớn) Đó là từ nguồn dân số của thành phố Atlanta.
Still, even changing technology and the changing gene pool in sports don't account for all of the changes in performance. Athletes have a different mindset than they once did. Have you ever seen in a movie when someone gets an electrical shock and they're thrown across a room? There's no explosion there. What's happening when that happens is that the electrical impulse is causing all their muscle fibers to twitch at once, and they're throwing themselves across the room. They're essentially jumping. That's the power that's contained in the human body. But normally we can't access nearly all of it. Our brain acts as a limiter, preventing us from accessing all of our physical resources, because we might hurt ourselves, tearing tendons or ligaments. But the more we learn about how that limiter functions, the more we learn how we can push it back just a bit, in some cases by convincing the brain that the body won't be in mortal danger by pushing harder. Endurance and ultra-endurance sports serve as a great example. Ultra-endurance was once thought to be harmful to human health, but now we realize that we have all these traits that are perfect for ultra-endurance: no body fur and a glut of sweat glands that keep us cool while running; narrow waists and long legs compared to our frames; large surface area of joints for shock absorption. We have an arch in our foot that acts like a spring, short toes that are better for pushing off than for grasping tree limbs, and when we run, we can turn our torso and our shoulders like this while keeping our heads straight. Our primate cousins can't do that. They have to run like this. And we have big old butt muscles that keep us upright while running. Have you ever looked at an ape's butt? They have no buns because they don't run upright. And as athletes have realized that we're perfectly suited for ultra-endurance, they've taken on feats that would have been unthinkable before, athletes like Spanish endurance racer Kílian Jornet. Here's Kílian running up the Matterhorn. (Laughter) With a sweatshirt there tied around his waist. It's so steep he can't even run here. He's pulling up on a rope. This is a vertical ascent of more than 8,000 feet, and Kílian went up and down in under three hours. Amazing. And talented though he is, Kílian is not a physiological freak. Now that he has done this, other athletes will follow, just as other athletes followed after Sir Roger Bannister ran under four minutes in the mile.
Tuy nhiên, thậm chí công nghệ thay đổi và các nguồn gen trong thể thao thay đổi không tính đến tất cả sự thay đổi trong hiệu năng. Các vận động viên có những ý thức khác nhau với những gì họ đã làm. Bạn đã từng xem trong một bộ phim khi mà một người bị giật điện và họ bị ném băng qua căn phòng chưa? Chẳng có vụ nổ nào ở đó. Việc đã xảy ra khi điều đó xảy ra là các xung điện làm cho tất cả các sợi cơ của họ co giật cùng một lúc, và họ tự ném mình băng qua căn phòng. Cơ bản là họ đang nhảy. Nguồn năng lượng đó có trong cơ thể con người. Nhưng bình thường, chúng ta không thể tiếp cận chúng. Não của chúng ta làm việc như một bộ hạn chế, ngăn cản chúng ta tiếp cận tất cả các nguồn lực vật chất của mình, bởi vỉ chúng ta có thể làm tổn thương chính mình, xé rách các dây chằng hay các sợi gân. Nhưng chúng ta càng biết nhiều về tác dụng của bộ giới hạn đó, chúng ta càng biết cách để chống lại nó chỉ một ít, trong vài trường hợp, bằng cách thuyết phục não rằng cơ thể sẽ không gặp nguy hiểm chết người khi cố gắng thêm chút xíu. Những môn thể thao sức bền và siêu bền là một ví dụ tuyệt vời. Những môn siêu bền từng được cho là có hại cho sức khỏe con người, nhưng bây giờ chúng ta nhận ra chúng ta có tất cả những tính trạng hoàn hảo cho sự siêu bền bỉ: không có lông cơ thể và rất nhiều tuyến mồ hôi để giữ cho chúng ta mát mẻ trong khi chạy; vòng eo hẹp và đôi chân dài so với cơ thể; diện tích bền mặt của các khớp xương lớn để chống sốc. Chúng ta có một kiến trúc ngay tại chân của mình và nó làm nhiệm vụ như một động cơ, những ngón chân ngắn sẽ tốt hơn cho việc đẩy mạnh hơn là bám vào cành cây, và khi chúng ta chạy, chúng ta có thể biến cơ thể và vai chúng ta như thế này trong khi vẫn giữ thẳng đầu. Anh em họ linh trưởng của chúng ta không thể làm điều đó. Họ phải chạy như thế này. Và chúng ta có cơ mông lớn giữ cho chúng ta đứng thẳng khi chạy. Bạn đã bao giờ nhìn vào mông một con khỉ? Chúng không có mông bởi vì chúng không chạy thẳng. Và vì các vận động viên đã nhận ra rằng chúng ta hoàn toàn phù hợp cho các môn siêu bền, họ đã đưa vào những chiến công mà trước đây chúng ta không thể tưởng tượng được, như tay đua sức bền người Tây Ban Nha - Kílian Jornet. Đây là Kílian chạy lên đỉnh Matterhorn. (Cười lớn) Với một chiếc áo buộc quanh eo của mình. Nó rất dốc, anh ta thậm chí không thể chạy ở đây. Anh ta kéo lên trên một sợi dây thừng. Đây là một đường dốc thẳng đứng hơn 8,000 feet, và Kílian đã leo lên và xuống trong chưa tới 3 giờ. Tuyệt vời. Và tài năng, mặc dù Kílian không phải là một con quái vật sinh lý. Và vì anh ta đã làm được, những vận động viên khác sẽ làm theo, cũng giống như những vận động viên khác làm theo Sir Roger Bannister chạy 1 dặm dưới 4 phút.
Changing technology, changing genes, and a changing mindset. Innovation in sports, whether that's new track surfaces or new swimming techniques, the democratization of sport, the spread to new bodies and to new populations around the world, and imagination in sport, an understanding of what the human body is truly capable of, have conspired to make athletes stronger, faster, bolder, and better than ever.
Công nghệ thay đổi, bộ gen thay đổi, và suy nghĩ thay đổi. Sự đổi mới trong thể thao, cho dù là bề mặt đường đua hay kỹ thuật bơi mới, sự dân chủ hóa thể thao, sự lan truyền các dạng cơ thể mới và dân cư mới trên toàn thế giới, và trí tưởng tượng trong thể thao, một sự hiểu biết về những gì cơ thể con người thật sự có khả năng làm được, đã làm cho các vận động viên mạnh hơn, nhanh hơn, táo bạo hơn, và giỏi hơn bao giờ hết.
Thank you very much.
Cảm ơn rất nhiều.
(Applause)
(Vỗ tay)