We are built out of very small stuff, and we are embedded in a very large cosmos, and the fact is that we are not very good at understanding reality at either of those scales, and that's because our brains haven't evolved to understand the world at that scale.
Chúng ta được tạo ra không để cảm nhận những thứ rất nhỏ, và chúng ta lạc lõng giữa vũ trụ bao la. Thực tế là chúng ta không thật giỏi hiểu về tính xác thực ở cả hai mức độ kể trên, và đó là vì não chúng ta chưa đạt đến mức để hiểu thế giới ở mức độ đó.
Instead, we're trapped on this very thin slice of perception right in the middle. But it gets strange, because even at that slice of reality that we call home, we're not seeing most of the action that's going on. So take the colors of our world. This is light waves, electromagnetic radiation that bounces off objects and it hits specialized receptors in the back of our eyes. But we're not seeing all the waves out there. In fact, what we see is less than a 10 trillionth of what's out there. So you have radio waves and microwaves and X-rays and gamma rays passing through your body right now and you're completely unaware of it, because you don't come with the proper biological receptors for picking it up. There are thousands of cell phone conversations passing through you right now, and you're utterly blind to it.
Thay vào đó, chúng ta bị giới hạn trong sự nhận biết mỏng manh này ngay ở giữa. Nhưng lạ thay, ngay cả khi ở mảng tính xác thực đó mà ta gọi là nhà, ta cũng không thấy hết được những gì đang diễn ra. Vì thế hãy đón nhận nhiều màu sắc của thế giới. Đây là sóng ánh sáng, bức xạ điện từ phát ra từ các vật thể và nó tác động lên những thụ quan chuyên biệt sau mắt chúng ta. Chúng ta không thấy hết mọi làn sóng ở quanh đây. Thật ra, những gì chúng ta thấy được chưa bằng một phần 10 tỉ tỉ những gì ngoài kia. Chúng ta có sóng vô tuyến và sóng vi ba, có tia X quang và tia Gamma xuyên qua người chúng ta ngay lúc này nhưng ta hoàn toàn không nhận biết được điều đó, bởi vì chúng ta không trang bị những thụ quan sinh học thích hợp để đón nhận nó. Có hàng ngàn cuộc nói chuyện điện thoại xuyên qua người bạn ngay lúc này, mà bạn hoàn toàn không hề hay biết.
Now, it's not that these things are inherently unseeable. Snakes include some infrared in their reality, and honeybees include ultraviolet in their view of the world, and of course we build machines in the dashboards of our cars to pick up on signals in the radio frequency range, and we built machines in hospitals to pick up on the X-ray range. But you can't sense any of those by yourself, at least not yet, because you don't come equipped with the proper sensors.
Đây không là những thứ vốn không thể thấy được. Rắn gom nhiều tia hồng ngoại vào khả năng nhận biết tính xác thực của nó, còn ong mật gom được tia tử ngoại trong mắt của nó khi nhìn thế giới, dĩ nhiên chúng ta làm những cái máy gắn trong xe của chúng ta để thu tín hiệu từ dãi sóng vô tuyến, và chúng ta làm những cái máy ở bệnh viện để nhận dãi tia X quang. Nhưng ta không thể tự nhận biết bất cứ tia sóng nào, hay ít nhất là chưa làm được, bởi vì ta không được trang bị những cảm biến thích hợp.
Now, what this means is that our experience of reality is constrained by our biology, and that goes against the common sense notion that our eyes and our ears and our fingertips are just picking up the objective reality that's out there. Instead, our brains are sampling just a little bit of the world.
Điều đó có nghĩa là trải nghiệm của chúng ta về tính xác thực bị ràng buộc bởi cơ chế sinh học của chúng ta, và nó đi ngược lại quan niệm phổ biến rằng mắt, tai và đầu ngón tay của chúng ta cảm nhận được tính xác thực của vật thể ngoài kia. Thay vào đó, não chúng ta chỉ hiện thị một phần nhỏ thế giới.
Now, across the animal kingdom, different animals pick up on different parts of reality. So in the blind and deaf world of the tick, the important signals are temperature and butyric acid; in the world of the black ghost knifefish, its sensory world is lavishly colored by electrical fields; and for the echolocating bat, its reality is constructed out of air compression waves. That's the slice of their ecosystem that they can pick up on, and we have a word for this in science. It's called the umwelt, which is the German word for the surrounding world. Now, presumably, every animal assumes that its umwelt is the entire objective reality out there, because why would you ever stop to imagine that there's something beyond what we can sense. Instead, what we all do is we accept reality as it's presented to us.
Ở thế giới động vật, mỗi động vật khác nhau nhận biết phần khác nhau trong tính xác thực. Trong thế giới không nghe, không thấy của loài ve dấu hiệu quan trọng nhận biết là nhiệt độ và axit butyric; Trong thế giới của cá dao ma đen, thế giới cảm giác của chúng được tô đầy màu sắc bằng điện trường; và đối với loài dơi phản âm định vị, tính xác thực được tạo bằng được những làn sóng không khí bị ép lại với nhau. Đó là phần nhỏ trong hệ sinh học mà chúng có thể nhận biết được, mà ta có một từ trong trong khoa học. Nó được gọi là "umwelt," tiếng Đức có nghĩa là thế giới xung quanh. Tất nhiên, giả thiết là mỗi loài động vật đều khẳng định rằng môi trường quanh chúng là toàn bộ vật thể nhận biết được ngoài kia, vậy tại sao có khi ta lại ngừng tưởng tượng rằng có thứ ngoài những gì ta có thể cảm nhận được. Thay vào đó, những gì ta làm là chấp nhận tính xác thực đã tạo sẵn cho chúng ta.
Let's do a consciousness-raiser on this. Imagine that you are a bloodhound dog. Your whole world is about smelling. You've got a long snout that has 200 million scent receptors in it, and you have wet nostrils that attract and trap scent molecules, and your nostrils even have slits so you can take big nosefuls of air. Everything is about smell for you. So one day, you stop in your tracks with a revelation. You look at your human owner and you think, "What is it like to have the pitiful, impoverished nose of a human? (Laughter) What is it like when you take a feeble little noseful of air? How can you not know that there's a cat 100 yards away, or that your neighbor was on this very spot six hours ago?" (Laughter)
Hãy làm thử nghiệm nâng cao sự nhận biết về vấn đề này. Tưởng tượng bạn là một con chó đánh hơi. Cả thế giới của bạn toàn mùi vị. Bạn có chiếc mũi hếch dài với 200 triệu cơ quan thụ cảm bên trong, và bạn có lỗ mũi ướt để thu hút và giữ lại nhiều mùi hương, và lỗi mũi có nhiều khe hở để bạn có thể hít đầy không khí vào mũi. Mọi thứ với bạn đều là mùi vị. Một ngày kia, bạn dừng công việc đánh hơi của bạn với một phát hiện. Bạn nhìn người chủ và nghĩ, "Sẽ như thế nào nếu có cái mũi nhỏ xíu, kém cỏi như loài người? (Cười) Mọi chuyện ra sao khi bạn hít luồng không khí bằng cái mũi nhỏ yếu ớt? Làm sao bạn không thể biết được có con mèo cách 100 yards, hay hàng xóm của bạn đã ở mỗi chổ này 6 tiếng trước? (Cười)
So because we're humans, we've never experienced that world of smell, so we don't miss it, because we are firmly settled into our umwelt. But the question is, do we have to be stuck there? So as a neuroscientist, I'm interested in the way that technology might expand our umwelt, and how that's going to change the experience of being human.
Bởi vì chúng ta là con người, chúng ta chưa bao giờ trải qua thế giới mùi vị ấy, chúng ta không bỏ lỡ nó, bởi chúng ta hoàn toàn an bài trong thế giới xung quanh của chúng ta. Nhưng câu hỏi là, chúng ta có bị dính chặt vào đó không? Với vai trò là nhà thần kinh học, tôi quan tâm tới cách mà công nghệ mở rộng thế giới xung quanh của chúng ta, và cách nó sẽ thay đổi trải nghiệm của loài con người.
So we already know that we can marry our technology to our biology, because there are hundreds of thousands of people walking around with artificial hearing and artificial vision. So the way this works is, you take a microphone and you digitize the signal, and you put an electrode strip directly into the inner ear. Or, with the retinal implant, you take a camera and you digitize the signal, and then you plug an electrode grid directly into the optic nerve. And as recently as 15 years ago, there were a lot of scientists who thought these technologies wouldn't work. Why? It's because these technologies speak the language of Silicon Valley, and it's not exactly the same dialect as our natural biological sense organs. But the fact is that it works; the brain figures out how to use the signals just fine.
Ta đều biết rằng ta có thể kết hợp công nghệ vào sinh học, bởi vì có hằng trăm nghìn người đi bộ ngoài kia với thính giác và thị giác nhân tạo. Cách nó hoạt động là bạn dùng micro và bạn mã số hóa tín hiệu, và bạn cấy dãi điện cực trực tiếp vào tai trong. Với võng mạc được ghép, bạn dùng một máy thu hình bạn mã số hóa tín hiệu, và rồi bạn cắm lưới điện trực tiếp vào thần kinh thị giác. Và vừa mới cách đây 15 năm, có nhiều nhà khoa học đã từng nghĩ rằng những công nghệ này sẽ không hoạt động. Tại sao? Bởi những công nghệ này nói ngôn ngữ của Thung lũng Silicon, mà không phải là tiếng của những giác quan sinh học tự nhiên của chúng ta. Nhưng thật sự nó hoạt động; não tìm ra được cách sử dụng tín hiệu.
Now, how do we understand that? Well, here's the big secret: Your brain is not hearing or seeing any of this. Your brain is locked in a vault of silence and darkness inside your skull. All it ever sees are electrochemical signals that come in along different data cables, and this is all it has to work with, and nothing more. Now, amazingly, the brain is really good at taking in these signals and extracting patterns and assigning meaning, so that it takes this inner cosmos and puts together a story of this, your subjective world.
Cách nào chúng ta hiểu điều đó? Vâng, đây là bí mật lớn: Não của ta không nghe không thấy gì về điều này, Não của ta bị nhốt trong vòm im lặng và bóng tối của hộp sọ. Tất cả những gì nó thấy được là những tín hiệu điện hóa từ những đường truyền dữ liệu khác nhau, và đây là tất cả những gì nó phải làm việc, không có gì hơn. Ngạc nhiên thay, não lại rất giỏi đón nhận những tín hiệu này rồi rút ra cách thức và đặt ý nghĩa, để mà nó gom điều này bên trong vũ trụ và kết nối thành một câu chuyện về điều này, tạo thế giới chủ quan trong bạn.
But here's the key point: Your brain doesn't know, and it doesn't care, where it gets the data from. Whatever information comes in, it just figures out what to do with it. And this is a very efficient kind of machine. It's essentially a general purpose computing device, and it just takes in everything and figures out what it's going to do with it, and that, I think, frees up Mother Nature to tinker around with different sorts of input channels.
Nhưng đây là chìa khóa của vấn đề: não của bạn không biết và cũng không quan tâm, nó lấy thông tin từ đâu. Khi nào thông tin đến, nó chỉ tìm cách xử lý. Đây là một loại máy móc rất hiệu quả. Nó chủ yếu là một công cụ điện toán với mục đích chung chung, và nó chỉ là nhận hết mọi thứ và tính toán xem nó sẽ làm gì với dữ liệu đó. điều đó làm tôi nghĩ, thoát khỏi Quy luật Tự nhiên để chắp vá những đường tiếp nhận khác.
So I call this the P.H. model of evolution, and I don't want to get too technical here, but P.H. stands for Potato Head, and I use this name to emphasize that all these sensors that we know and love, like our eyes and our ears and our fingertips, these are merely peripheral plug-and-play devices: You stick them in, and you're good to go. The brain figures out what to do with the data that comes in. And when you look across the animal kingdom, you find lots of peripheral devices. So snakes have heat pits with which to detect infrared, and the ghost knifefish has electroreceptors, and the star-nosed mole has this appendage with 22 fingers on it with which it feels around and constructs a 3D model of the world, and many birds have magnetite so they can orient to the magnetic field of the planet. So what this means is that nature doesn't have to continually redesign the brain. Instead, with the principles of brain operation established, all nature has to worry about is designing new peripherals.
Tôi gọi nó P.H mô hình của sự phát triển, tôi không muốn đi sâu quá về kỹ thuật ở đây, nhưng P.H viết tắt của Potato Head, tôi dùng tên này để nhấn mạnh rằng tất cả các giác quan mà chúng ta biết và yêu thích, như mắt, tai, và đầu ngón tay chúng ta, những thứ này gần như là những thiết bị ngoại vi cắm-và-chạy: Bạn gắn những thứ này vào, và bạn đi đâu cũng được. Não tìm cách xử lý những dữ liệu nhận được. Và khi bạn nhìn qua thế giới động vật, bạn tìm thấy nhiều thiết bị ngoại vi. Rắn có thụ thể nhạy nhiệt để dò tìm tia hồng ngoại, cá mao da đen có cơ quan thụ điện, ở chuột chũi mũi sao, trên chiếc mũi có 22 tua trên đó giúp nó cảm nhận xung quanh và xây dựng mô hình thế giới 3 chiều, nhiều loại chim có từ tính để chúng có thể định hướng theo từ trường của trái đất. Điều này có nghĩa là tự nhiên không cần phải liên tục thiết kế lại bộ não. Thay vào đó, khi những nguyên tắc hoạt động của não được thiết lập, tất cả sự tự nhiên phải lo là thiết kế những vành ngoài mới.
Okay. So what this means is this: The lesson that surfaces is that there's nothing really special or fundamental about the biology that we come to the table with. It's just what we have inherited from a complex road of evolution. But it's not what we have to stick with, and our best proof of principle of this comes from what's called sensory substitution. And that refers to feeding information into the brain via unusual sensory channels, and the brain just figures out what to do with it.
Được rồi. Điều đó có nghĩa là: Bài học rõ ràng là không có thứ gì đặc biệt hay nền tảng về sinh học mà chúng ta đã đề cập. Đó chỉ là những gì chúng ta thừa hưởng từ quá trình tiến hóa phức tạp. Nhưng đó không là những gì chúng ta phải mang theo mãi, chứng cứ tốt nhất của chúng ta về quy tắc này rút ra từ thứ gọi là thay thế giác quan. Điều đó đề cập tới việc cung cấp thông tin cho não thông qua kênh cảm giác không theo cách thông thường, và não sẽ chỉ tìm cách xử lý nó.
Now, that might sound speculative, but the first paper demonstrating this was published in the journal Nature in 1969. So a scientist named Paul Bach-y-Rita put blind people in a modified dental chair, and he set up a video feed, and he put something in front of the camera, and then you would feel that poked into your back with a grid of solenoids. So if you wiggle a coffee cup in front of the camera, you're feeling that in your back, and amazingly, blind people got pretty good at being able to determine what was in front of the camera just by feeling it in the small of their back. Now, there have been many modern incarnations of this. The sonic glasses take a video feed right in front of you and turn that into a sonic landscape, so as things move around, and get closer and farther, it sounds like "Bzz, bzz, bzz." It sounds like a cacophony, but after several weeks, blind people start getting pretty good at understanding what's in front of them just based on what they're hearing. And it doesn't have to be through the ears: this system uses an electrotactile grid on the forehead, so whatever's in front of the video feed, you're feeling it on your forehead. Why the forehead? Because you're not using it for much else.
Điều đó nghe thật ngoạn mục, nhưng bài báo đầu tiên mô tả điều này được đăng tải trong tạp chí Nature năm 1969. Nhà khoa học tên là Paul Bach-y-Rita cho người khiếm thị ngồi vào ghế nha sĩ đã được sửa đổi, và ông lắp đặt một máy quay phim, và ông để thứ gì đó trước ống kính, và rồi bạn sẽ có cảm giác bị chọc sau lưng bằng một nam châm điện solenoid. Nên nếu bạn nhúc nhích tách cà phê phía trước camera, thì bạn cảm giác được nó ở sau lưng, ngạc nhiên thay, người khiếm thị khá tốt trong việc xác định thứ gì ở phía trước camera chỉ bằng cách cảm nhận nó ở phía sau lưng. Hiện nay có nhiều mô phỏng hiện đại của thử nghiệm này. Loại mắt kính âm thanh thu một cảnh phim ngay trước mặt bạn rồi chuyển nó thành một phong cảnh có âm thanh, khi mọi thứ di chuyển qua lại, thì thành gần hơn hay xa hơn, nó nghe như "Bzz, bzz, bzz." giống tạp âm vậy, nhưng sau vài tuần, người khiếm thị bắt đầu cảm nhận tốt hơn trong việc hiểu những gì trước mặt họ chỉ dựa những gì họ đang nghe. Nhưng nó không nhất thiết phải qua tai: Hệ thống này sử dụng mạng lưới điện tiếp xúc trước trán, nên bất cứ thứ gì trước ống kính máy quay bạn sẽ cảm giác nó ở trán. Tại sao lại trán? Vì bạn không dùng nó nhiều cho việc khác.
The most modern incarnation is called the brainport, and this is a little electrogrid that sits on your tongue, and the video feed gets turned into these little electrotactile signals, and blind people get so good at using this that they can throw a ball into a basket, or they can navigate complex obstacle courses. They can come to see through their tongue. Now, that sounds completely insane, right? But remember, all vision ever is is electrochemical signals coursing around in your brain. Your brain doesn't know where the signals come from. It just figures out what to do with them.
Mô phỏng loại này hiện đại nhất được gọi là cổng não, đây là lưới điện nhỏ đặt trên lưỡi, và máy quay được chuyển thành tín hiệu điện tiếp xúc yếu như vậy, và người mù dùng nó thành thạo để họ có thể ném banh vào rổ, hoặc họ có thể định hướng những đường đi có chướng ngại vật phức tạp. Họ có thể thấy thông qua lưỡi của họ. Điều đó nghe thật điền rồ, đúng không? Nhưng nhớ rằng, tất cả thị lực là tín hiệu điện hóa chuyển động xung quanh não bạn. Não không biết tín hiệu đến từ đâu. nó chỉ hiểu là làm gì với chúng.
So my interest in my lab is sensory substitution for the deaf, and this is a project I've undertaken with a graduate student in my lab, Scott Novich, who is spearheading this for his thesis. And here is what we wanted to do: we wanted to make it so that sound from the world gets converted in some way so that a deaf person can understand what is being said. And we wanted to do this, given the power and ubiquity of portable computing, we wanted to make sure that this would run on cell phones and tablets, and also we wanted to make this a wearable, something that you could wear under your clothing. So here's the concept. So as I'm speaking, my sound is getting captured by the tablet, and then it's getting mapped onto a vest that's covered in vibratory motors, just like the motors in your cell phone. So as I'm speaking, the sound is getting translated to a pattern of vibration on the vest. Now, this is not just conceptual: this tablet is transmitting Bluetooth, and I'm wearing the vest right now. So as I'm speaking -- (Applause) -- the sound is getting translated into dynamic patterns of vibration. I'm feeling the sonic world around me.
Quan tâm của tôi trong phòng thí nghiệm là thay thế giác quan cho người khiếm thính và đây là đề án tôi thực hiện với Scott Novich, sinh viên sau đại học, trong phòng thí nghiệm, là người đi đầu về điều này trong luận án của anh. Đây là những gì chúng ta muốn làm: ta muốn làm điều này để âm thanh trên thế giới được chuyển hóa theo cách mà người khiếm thính có thể hiểu nó đang nói gì. Ta muốn làm điều này, truyền năng lượng và sự hiện diện mọi nơi của máy tính nhỏ gọn, ta muốn chắc rằng nó sẽ chạy trên điện thoại di động và máy tính bản, cũng như ta muốn làm nó có thể mặc vào được là thứ bạn có thể mặc dưới quần áo của bạn. Đây là ý tưởng. Lúc tôi đang nói, âm thanh của tôi được máy tính bản thu lại, và nó vẽ lên áo khoát được phủ bằng những động cơ rung động, như là động cơ trong điện thoại di động. Lúc tôi đang nói, âm thanh được dịch thành những mẫu rung động trên áo. Giờ thì tiều này không chỉ là lý thuyết: máy tính bản này đang truyền qua Bluetooth và tôi giờ đây đang mặc chiếc áo đó. Đúng như tôi nói (Vỗ tay) âm thanh đang được dịch sang những mẫu rung động thực. Tôi đang cảm nhận thế giới âm thanh quanh tôi.
So, we've been testing this with deaf people now, and it turns out that after just a little bit of time, people can start feeling, they can start understanding the language of the vest.
Chúng tôi thử nghiệm nó với người khiếm thính ngay bây giờ, điều này sẽ xuất hiện chỉ sau chút thời gian, mọi người có thể bắt đầu cảm thấy họ có thể bắt đầu hiểu ngôn ngữ của chiếc áo này.
So this is Jonathan. He's 37 years old. He has a master's degree. He was born profoundly deaf, which means that there's a part of his umwelt that's unavailable to him. So we had Jonathan train with the vest for four days, two hours a day, and here he is on the fifth day.
Đây là Jonathan, 37 tuổi. Anh ấy có bằng thạc sĩ. Anh bị điếc ngay từ lúc chào đời, có nghĩa là có một phần của thế giới xunh quanh anh không dành cho anh. Chúng tôi đã tập Jonathan mặc áo này trong bốn ngày, mỗi ngày hai tiếng, và đây là anh ấy trong ngày thứ năm.
Scott Novich: You.
Scott Novich: Bạn.
David Eagleman: So Scott says a word, Jonathan feels it on the vest, and he writes it on the board.
David Eagleman: khi Scott nói một từ Jonathan cảm nhận nó bằng cái áo, anh sẽ viết từ đó trên bảng.
SN: Where. Where.
SN: Ở đâu. Ở đâu.
DE: Jonathan is able to translate this complicated pattern of vibrations into an understanding of what's being said.
DE: Jonathan có khả năng dịch những rung động của mẫu phức tạp này thành thứ có thể hiểu được của điều được nói.
SN: Touch. Touch.
SN: Chạm. Chạm.
DE: Now, he's not doing this -- (Applause) -- Jonathan is not doing this consciously, because the patterns are too complicated, but his brain is starting to unlock the pattern that allows it to figure out what the data mean, and our expectation is that, after wearing this for about three months, he will have a direct perceptual experience of hearing in the same way that when a blind person passes a finger over braille, the meaning comes directly off the page without any conscious intervention at all. Now, this technology has the potential to be a game-changer, because the only other solution for deafness is a cochlear implant, and that requires an invasive surgery. And this can be built for 40 times cheaper than a cochlear implant, which opens up this technology globally, even for the poorest countries.
DE: Bây giờ, anh ấy không làm điều đó -- (Vỗ tay) Jonathan không chủ ý làm điều này, bởi những mẫu câu quá phức tạp, nhưng não anh ấy bắt đầu mở khoá những mẫu câu cho phép nó tìm ra ý nghĩa của dữ liệu, và theo dự kiến của chúng tôi thì, sau khi mặc áo khoảng 3 tháng, anh ấy sẽ có một kinh nghiệm vĩnh viễn trực tiếp về thính giác giống cách một người khiếm thị chạm ngón tay vào chữ nổi, ý nghĩa đến ngay mà không có bất kỳ sự can thiệp có chủ ý nào. Công nghệ này tiềm năng trở thành người đổi trò, bởi vì chỉ có giải pháp duy nhất khác cho khiếm thính là máy trợ thính, và đòi hỏi có một ca phẫu thuật bên trong. Cái áo này có thể chế tạo rẻ hơn 40 lần so với máy trợ thính, mở công nghệ này ra toàn cầu, cho cả những nước nghèo nhất.
Now, we've been very encouraged by our results with sensory substitution, but what we've been thinking a lot about is sensory addition. How could we use a technology like this to add a completely new kind of sense, to expand the human umvelt? For example, could we feed real-time data from the Internet directly into somebody's brain, and can they develop a direct perceptual experience?
Chúng tôi rất phấn chấn với những kết quả thay thế cảm giác này của chúng tôi, nhưng điều chúng tôi suy nghĩ nhiều đến là cảm xúc hỗ trợ. Làm sao ta có thể sử dụng một công nghệ thế này để thêm vào cảm giác mới hoàn toàn, để mở rộng vùng nhận biết xung quanh con người? Ví dụ, chúng ta có thể cung cấp dữ liệu thực tế từ Internet trực tiếp vào não người, và có thể họ phát triển một kinh nghiệm nhận thức trực tiếp?
So here's an experiment we're doing in the lab. A subject is feeling a real-time streaming feed from the Net of data for five seconds. Then, two buttons appear, and he has to make a choice. He doesn't know what's going on. He makes a choice, and he gets feedback after one second. Now, here's the thing: The subject has no idea what all the patterns mean, but we're seeing if he gets better at figuring out which button to press. He doesn't know that what we're feeding is real-time data from the stock market, and he's making buy and sell decisions. (Laughter) And the feedback is telling him whether he did the right thing or not. And what we're seeing is, can we expand the human umvelt so that he comes to have, after several weeks, a direct perceptual experience of the economic movements of the planet. So we'll report on that later to see how well this goes. (Laughter)
Đây là một thí nghiệm chúng tôi đang làm. Người thử nghiệm đang cảm giác thời gian thực được cung cấp từ mạng lưới thông tin trong năm giây, Sau đó hai nút xuất hiện, anh ấy phải đưa ra lựa chọn. Anh không biết điều gì đang xảy ra. Anh chọn và anh có câu trả lời sau một giây. Đây là điều cần biết: Người thử nghiệm không biết về tất cả những mẫu đưa ra, nhưng ta thấy rằng anh ngày càng giỏi hơn trong việc tìm ra nút nào để bấm. Anh không biết những gì chúng ta đưa vào là dữ liệu thực tế từ thị trường chứng khoán, và anh đang quyết định việc mua và bán. (Tiếng cười) Và câu trả lời nói cho anh biết liệu anh đã chọn đúng hay sai. Những gì ta thấy là ta có thể mở rộng vùng nhận thức con người để mà anh ấy có, sau vài tuần, một kinh nghiệm tri giác trực tiếp về sự chuyển động kinh tế trên toàn cầu. Chúng tôi sẽ báo cáo sau để thấy nó hoạt động tốt thế nào. (Tiếng cười)
Here's another thing we're doing: During the talks this morning, we've been automatically scraping Twitter for the TED2015 hashtag, and we've been doing an automated sentiment analysis, which means, are people using positive words or negative words or neutral? And while this has been going on, I have been feeling this, and so I am plugged in to the aggregate emotion of thousands of people in real time, and that's a new kind of human experience, because now I can know how everyone's doing and how much you're loving this. (Laughter) (Applause) It's a bigger experience than a human can normally have.
Đây là một việc khác chúng tôi đang làm: Suốt buổi nói chuyện sáng nay, chúng tôi tự động loại bỏ trên Twitter dấu phân cách đề tài #TED2015 chúng tôi đang làm một phân tích quan điểm tự động, nghĩa là, người ta đang dùng từ tích cực hay tiêu cực hay chung chung? Trong khi điều này đang diễn ra, tôi có thể cảm nhận nó, tôi được kết nối tập hợp cảm xúc của hàng ngàn người trong thực tế, và đây là một loại trải nghiệm mới của con người, vì bây giờ tôi có thể biết cách mọi người làm việc và bạn yêu thích điều đó bao nhiêu. (Tiếng cười) (Vỗ tay) Đây là trãi nghiệm lớn hơn những gì người bình thường có.
We're also expanding the umvelt of pilots. So in this case, the vest is streaming nine different measures from this quadcopter, so pitch and yaw and roll and orientation and heading, and that improves this pilot's ability to fly it. It's essentially like he's extending his skin up there, far away.
Chúng tôi cũng mở rộng vùng nhận biết của phi công. Trong trường hợp này, áo khoát trải qua chín cách đo lường khác từ máy bay điều khiển này, độ cao, lệch hướng, xoay vòng và định hướng và quay đầu, điều này cải thiện khả năng của phi công để lái máy bay đó. Điều này rất cần như anh đang mở rộng da mình ra đó, xa đằng kia.
And that's just the beginning. What we're envisioning is taking a modern cockpit full of gauges and instead of trying to read the whole thing, you feel it. We live in a world of information now, and there is a difference between accessing big data and experiencing it.
Và đây chỉ mới là bắt đầu. Những gì chúng tôi hình dung là làm một buồng lái hiện đại với đầy đủ đo lường thay vì phải cố gắng đọc toàn bộ, bạn cảm nhận nó. Chúng ta đang sống trong thế giới của thông tin, và có sự khác biệt giữa truy cập dữ liệu khổng lồ và trải nghiệm nó.
So I think there's really no end to the possibilities on the horizon for human expansion. Just imagine an astronaut being able to feel the overall health of the International Space Station, or, for that matter, having you feel the invisible states of your own health, like your blood sugar and the state of your microbiome, or having 360-degree vision or seeing in infrared or ultraviolet.
Tôi nghĩa không có điểm kết thúc cho khả năng mở rộng tầm nhìn của con người. Thử tưởng tượng một phi hành gia có thể cảm nhận toàn bộ sức khỏe của Trạm Vũ trụ Quốc tế, hoặc, bạn có thể cảm nhận trạng thái vô hình của sức khỏe của chính bạn, như đường trong máu và trạng thái của vi khuẩn hay có tầm nhìn 360 độ hoặc nhìn thấy được tia tử ngoại và tia hồng ngoại
So the key is this: As we move into the future, we're going to increasingly be able to choose our own peripheral devices. We no longer have to wait for Mother Nature's sensory gifts on her timescales, but instead, like any good parent, she's given us the tools that we need to go out and define our own trajectory. So the question now is, how do you want to go out and experience your universe?
Vì vậy đây là mấu chốt: khi chúng ta bước vào tương lai, chúng ta sẽ tăng khả năng lựa chọn thiết bị ngoại vi cho riêng mình. Chúng ta không còn chờ món quà giác quan của Đấng Tự Nhiên theo trình tự thời gian của Người, thay vào đó, như bất kỳ cha mẹ tốt nào, Người cho công cụ mà chúng ta cần đề tìm hiểu và khám phá đúng quỹ đạo của mình. Vậy nên thắc mắc bây giờ là làm sao bước ra và trải nghiệm được thế giới của bạn?
Thank you.
Cảm ơn.
(Applause)
(Vỗ tay)
Chris Anderson: Can you feel it? DE: Yeah.
Chris Anderson: Bạn cảm nhận nó không? DE: Yeah
Actually, this was the first time I felt applause on the vest. It's nice. It's like a massage. (Laughter)
Thật ra, đây là lần đầu tiên tôi nhận được tiếng vỗ tay trên chiếc áo. Nó thật tuyệt. Nó như một lời nhắn. (Cười)
CA: Twitter's going crazy. Twitter's going mad. So that stock market experiment. This could be the first experiment that secures its funding forevermore, right, if successful?
CA: Twitter đang phấn khích. Twitter đang điên dại lên. Đây là thử nghiệm thị trường chứng khoán. Đây có thể là thử nghiệm đầu tiên bảo đảm tiền bảo trợ lâu dài, phải không, nếu thành công?
DE: Well, that's right, I wouldn't have to write to NIH anymore.
DE: Đúng vậy, tôi không cần phải viết thư cho NIH nữa.
CA: Well look, just to be skeptical for a minute, I mean, this is amazing, but isn't most of the evidence so far that sensory substitution works, not necessarily that sensory addition works? I mean, isn't it possible that the blind person can see through their tongue because the visual cortex is still there, ready to process, and that that is needed as part of it?
CA: Nhìn này, để xem trong ít phút Ý tôi là thật tuyệt vời, nhưng không phải đến nay mọi chứng cứ thấy rằng thiết bị thay thế cảm giác này hoạt động, mà không cần thiết bị cảm giác phụ hoạt động? Nghĩa là, có phải người khiếm thị có thể thấy nhờ vào lưỡi của họ khi vỏ não thị giác vẫn ở đó, sẵn sàng tiếp nhận, và nó cần thiết là một phần của điều đó?
DE: That's a great question. We actually have no idea what the theoretical limits are of what kind of data the brain can take in. The general story, though, is that it's extraordinarily flexible. So when a person goes blind, what we used to call their visual cortex gets taken over by other things, by touch, by hearing, by vocabulary. So what that tells us is that the cortex is kind of a one-trick pony. It just runs certain kinds of computations on things. And when we look around at things like braille, for example, people are getting information through bumps on their fingers. So I don't think we have any reason to think there's a theoretical limit that we know the edge of.
DE: Một câu hỏi hay! Chúng tôi thật sự chưa có ý tưởng giới hạn lý thuyết nào về những loại dữ liệu nào não có thể tiếp nhận. Câu chuyện thông thường, dù vậy, là não có sự uyển chuyển lạ lùng. Vì vậy khi một người bị mù,những gì chúng ta gọi chức năng vỏ não thị giác bị lấn át bởi những thứ khác, như bằng xúc giác, thính giác, hay từ vựng. Những điều đó nói với chúng ta là vỏ não là một dạng tài năng chuyên biệt. Nó chỉ chạy bằng những tính toán rõ ràng về mọi thứ. Khi chúng ta nhìn xung quanh những thứ như chữ nổi chẳng hạn, ta lấy thông tin bằng những gờ nổi ở ngón tay. Tôi nghĩ chúng ta không có lí do gì cho là có sự tồn tại giới hạn lí thuyết mà ta đến được bờ vực của nó.
CA: If this checks out, you're going to be deluged. There are so many possible applications for this. Are you ready for this? What are you most excited about, the direction it might go? DE: I mean, I think there's a lot of applications here. In terms of beyond sensory substitution, the things I started mentioning about astronauts on the space station, they spend a lot of their time monitoring things, and they could instead just get what's going on, because what this is really good for is multidimensional data. The key is this: Our visual systems are good at detecting blobs and edges, but they're really bad at what our world has become, which is screens with lots and lots of data. We have to crawl that with our attentional systems. So this is a way of just feeling the state of something, just like the way you know the state of your body as you're standing around. So I think heavy machinery, safety, feeling the state of a factory, of your equipment, that's one place it'll go right away.
CA: Nếu điều này thành hiện thực, chúng ta sẽ bị ngập lụt. Có rất nhiều ứng dụng cho điều này. Anh có sẵn sàng cho điều này chưa? Điều gì anh hứng thú nhất, hướng nào có thể đi? DE: Tôi nghĩ có nhiều ứng dụng ở đây. Ngoài việc thay thế cảm giác, điều mà tôi bắt đầu để ý về nhà du hành vũ trụ ở Trạm không gian, là họ dành rất nhiều thời gian điều khiển mọi thứ, thay vào đó họ chỉ cần biết điều gì đang xảy ra, vì đây thật sự tốt cho những thứ là dữ liệu đa chiều. Mấu chốt là:hệ thống thị giác của chúng ta giỏi việc tìm ra điểm chấm và cạnh, nhưng nó tệ về nhận biết ý nghĩa tạo thành, đó là tấm màn với rất nhiều dữ liệu. Ta phải mò mẫn ra nó với hệ thống chú ý của chúng ta. Đây chỉ là cách cảm nhận trạng thái của mọi vật, giống như cách bạn biết trạng thái cơ thể khi bạn đang đứng. Tôi nghĩ máy móc nặng nhọc, an toàn, cảm giác trạng thái của nhà máy, của thiết bị, ở cùng một chổ nó sẽ tiến thắng tới.
CA: David Eagleman, that was one mind-blowing talk. Thank you very much.
CA: David Eagleman, Đây là buổi nói chuyện đầy ấn tượng. Cảm ơn ông rất nhiều.
DE: Thank you, Chris. (Applause)
DE: Cảm ơn, Chris. (Vỗ tay)