We've been told to go out on a limb and say something surprising. So I'll try and do that, but I want to start with two things that everyone already knows. And the first one, in fact, is something that has been known for most of recorded history, and that is, that the planet Earth, or the solar system, or our environment or whatever, is uniquely suited to sustain our evolution -- or creation, as it used to be thought -- and our present existence, and most important, our future survival.
Chúng ta đã được bảo hãy ra ngoài và nói điều gì đó đáng ngạc nhiên. Và tôi sẽ cố để làm điều đó. Nhưng tôi muốn bắt đầu với hai điều mà ai cũng biết. Và điều đầu tiên, thực ra, là một điều đã được biết đến trong suốt lịch sử. Và đó là hành tinh của chúng ta, hoặc là hệ mặt trời, hoặc môi trường của chúng ta, vân vân, là duy nhất phù hợp cho sự tiến hóa của chúng ta -- hoặc cho sự hình thành -- và cho sự tồn tại hiện nay của chúng ta, và quan trọng nhất, cho sự tồn tại trong tương lai của chúng ta.
Nowadays, this idea has a dramatic name: Spaceship Earth. And the idea there is that outside the spaceship, the universe is implacably hostile, and inside is all we have, all we depend on, and we only get the one chance: if we mess up our spaceship, we've got nowhere else to go. Now, the second thing that everyone already knows is that, contrary to what was believed for most of human history, human beings are not, in fact, the hub of existence. As Stephen Hawking famously said, we're just a chemical scum on the surface of a typical planet that's in orbit around a typical star, which is on the outskirts of a typical galaxy, and so on.
Ngày nay quan niệm này có một cái tên đầy kịch tính: tàu vũ trụ Trái đất. Và quan niệm rằng bên ngoài tàu vũ trụ, vũ trụ rất khắc nghiệt, và bên trong là toàn bộ những gì chúng ta có, dựa vào. Và chúng ta chỉ có một cơ hội: nếu chúng ta làm hỏng tàu của mình, chúng ta chẳng còn nơi nào để đi. Bây giờ, điều thứ hai mà mọi người đều biết là ngược với những gì được tin trong suốt lịch sử loài người, loài người thực ra không phải là cái nôi của sự tồn tại. Như một câu nói nổi tiếng của Stephen Hawking, chúng ta chỉ là một mẩu hóa chất trên bề mặt của một hành tinh điển hình chuyển động theo quỹ đạo quanh một ngôi sao điển hình, ở rìa của một thiên hà điển hình, vân vân.
Now, the first of those two things that everyone knows is kind of saying that we're at a very untypical place, uniquely suited and so on. And the second one is saying that we're at a typical place. And, especially if you regard these two as deep truths to live by and to inform your life decisions, then they seem a little bit to conflict with each other. But that doesn't prevent them from both being completely false.
Bây giờ điều đầu tiên trong hai điều ai cũng biết đó nói rằng chúng ta ở một nơi rất không điển hình, phù hợp duy nhất và vân vân trong khi điều thứ hai nói rằng chúng ta ở một nơi điển hình. Và nếu đó là 2 lẽ sống của bạn, giúp bạn đưa ra các quyết định sống còn, thì chúng có vẻ hơi mâu thuẫn lẫn nhau. Nhưng điều này không có nghĩa là cả hai không hoàn toàn sai (Tiếng cười)
(Laughter)
Và chúng sai. để tôi bắt đầu với điều thứ hai:
And they are. So let me start with the second one: typical. Well, is this a typical place? Well, let's look around, you know, look in a random direction, and we see a wall and chemical scum --
Điển hình. ừm, liệu đây có phải là một nơi điển hình? Hãy nhìn quanh, bạn biết đấy, và nhìn vào những hướng bất kỳ, và chúng ta thấy một bức tường và mảnh vụn hóa chất -- (Tiếng cười)
(Laughter)
-- và đó hoàn toàn không phải là điển hình của vũ trụ.
and that's not typical of the universe at all. All you've got to do is go a few hundred miles in that same direction and look back, and you won't see any walls or chemical scum at all -- all you see is a blue planet. And if you go further than that, you'll see the Sun, the solar system and the stars and so on, but that's still not typical of the universe, because stars come in galaxies. And most places in the universe, a typical place in the universe, is nowhere near any galaxies.
Tất cả những gì bạn cần làm là đi vài trăm dặm theo hướng đó và nhìn lại, và bạn không thấy bức tường hay mẩu hóa chất nào cả -- tất cả những gì bạn thấy là một hành tinh xanh. Và nếu bạn đi xa hơn thế, bạn sẽ thấy mặt trời, hệ mặt trời, và các ngôi sao. Nhưng đó vẫn không phải là điển hình của vũ trụ, bởi vì các ngôi sao đến từ các thiên hà. Và ở hầu khắp các nơi trong vũ trụ, một nơi điển hình trong vũ trụ, không hề gần bất cứ thiên hà nào.
So let's go out further, till we're outside the galaxy, and look back, and yeah, there's the huge galaxy with spiral arms laid out in front of us. And at this point, we've come 100,000 light-years from here. But we're still nowhere near a typical place in the universe. To get to a typical place, you've got to go 1,000 times as far as that, into intergalactic space. And so, what does that look like -- "typical?" What does a "typical" place in the universe look like? Well, at enormous expense, TED has arranged a high-resolution immersion virtual reality rendering of the view from intergalactic space. Can we have the lights off, please, so we can see it?
Hãy tiến xa hơn, tới khi chúng ta ra ngoài thiên hà, và nhìn lại, và ừ, có cả một thiên hà rộng lớn với những nút xoắn trước mặt chúng ta. Và ở thời điểm này chúng ta đã cách Trái đất 100,000 năm ánh sáng. Nhưng chúng ta vẫn chưa hề gần một nơi điển hình nào trong vũ trụ. Để tới một nơi điển hình, bạn phải đi xa gấp 1000 lần như thế vào không gian liên thiên hà. Và nó trông như thế nào? Điển hình. Một nơi điển hình trong vũ trụ trong như thế nào? Với một chi phí khổng lồ, TED đã bày trí một không gian biểu trưng có độ phân giải lớn cho không gian liên ngân hà. -- góc nhìn từ không gian liên thiên hà. Vậy chúng ta có thể tắt đèn đi để nhìn cho rõ được không ạ?
Well, not quite, not quite perfect.
Không hẳn, không hẳn là hoàn hảo, bạn có thể thấy, ở không gian liên thiên hà
You see, intergalactic space is completely dark, pitch dark. It's so dark, that if you were to be looking at the nearest star to you, and that star were to explode as a supernova, and you were to be staring directly at it at the moment when its light reached you, you still wouldn't be able to see even a glimmer. That's how big and how dark the universe is. And that's despite the fact that a supernova is so bright, so brilliant an event, that it would kill you stone dead at a range of several light-years.
-- không gian liên thiên hà hoàn toàn chìm trong bóng tối. Tối đến độ nếu bạn nhìn vào ngôi sao gần bạn nhất, và nó bùng nổ trong một vụ siêu tân tinh, và bạn đang nhìn trực tiếp vào nó khi ánh sáng hướng về bạn, bạn vẫn chẳng thể thấy một vệt sáng, dù là lờ mờ. Vũ trụ rộng lớn và tăm tối như thế đó. Và mặc dù một vụ nổ siêu tân tinh rất sáng đến mức nó sẽ giết chết bạn ngay tại chỗ trong bán kính vài năm ánh sáng.
(Laughter)
And yet, from intergalactic space, it's so far away you wouldn't even see it. It's also very cold out there -- less than three degrees above absolute zero. And it's very empty. The vacuum there is one million times less dense than the highest vacuum that our best technology on Earth can currently create. So that's how different a typical place is from this place. And that is how untypical this place is. So can we have the lights back on please? Thank you.
Vậy mà trong không gian liên ngân hà, nó xa tới độ bạn sẽ chẳng nhìn thấy nó. Ngoài đó cũng rất lạnh -- chỉ hơn nhiệt độ 0 tuyệt đối vài 3 độ. Và rất trống trải. Khoảng chân không ở đó có mật độ chỉ bằng một phần triệu của khoảng chân không tối ưu được tạo từ kỹ thuật tiên tiến nhất hiện nay trên Trái Đất. Đó là điểm khác biệt giữa môt nơi điển hình và Trái Đất. Và nó cho thấy nơi đây không hề điển hình. Bật đèn lên được không ạ? Cảm ơn.
Now, how do we know about an environment that's so far away and so different and so alien from anything we're used to? Well, the Earth -- our environment, in the form of us -- is creating knowledge. Well, what does that mean? Well, look out even further than we've just been -- I mean from here, with a telescope -- and you'll see things that look like stars, they're called quasars. "Quasars" originally meant "quasi-stellar object," which means "things that look a bit like stars."
Bây giờ bằng cách nào chúng ta biết đến một môi trường ở rất xa, rất khác biệt, và rất biệt lập so với mọi thứ ta đã quen với? Trái đất -- môi trường của chúng ta, dưới dạng là chính chúng ta -- đang tạo ra kiến thức. Điều này có nghĩa là gì? Hãy nhìn ra xa hơn -- Từ đây với một chiếc kính viễn vọng -- và bạn sẽ nhìn thấy các vật thể trông như những ngôi sao. Chúng được gọi là các chuẩn tinh. Nghĩa gốc là vật thể gần giống sao. Vật thể trông hơi giống sao. (Tiếng cười) Nhưng chúng không phải là các ngôi sao.
(Laughter)
But they're not stars. And we know what they are. Billions of years ago and billions of light-years away, the material at the center of a galaxy collapsed towards a supermassive black hole. And then intense magnetic fields directed some of the energy of that gravitational collapse and some of the matter back out in the form of tremendous jets, which illuminated lobes with the brilliance of -- I think it's a trillion -- suns.
Và chúng ta biết chúng là gì. Hàng tỉ năm trước, cách chúng ta hàng tỉ năm ánh sáng, vật chất tại tâm của một thiên hà đổ sập hướng tới một hố đen siêu lớn. Và khi đó trường lực từ siêu mạnh định hướng một phần năng lượng của trường trọng lực đó sụp đổ. Và một phần vật chất, có dạng như những tia đồ sộ tỏa ra những thùy sáng có độ sáng như một ngàn tỷ mặt trời.
Now, the physics of the human brain could hardly be more unlike the physics of such a jet. We couldn't survive for an instant in it. Language breaks down when trying to describe what it would be like in one of those jets. It would be a bit like experiencing a supernova explosion, but at point-blank range and for millions of years at a time.
Vật lý học của não người sẽ khó mà khác được so với vật lý học của một tia đó. Chúng ta chẳng thể sống nổi một khắc trong tình trạng ấy. Ngôn ngữ rạn vỡ khi cố gắng mô tả tình trạng xảy ra trong một trong những tia ấy. Nó sẽ gần giống như trải nghiệm một vụ nổ siêu tân tinh, nhưng ở một tầm trực tiếp với vụ nổ kéo dài suốt hàng triệu năm. (Tiếng cười)
(Laughter)
Và chưa kể, tia sáng đó xuất hiện một cách chính xác để sau đó hàng tỉ năm,
And yet, that jet happened in precisely such a way that billions of years later, on the other side of the universe, some bit of chemical scum could accurately describe and model and predict and explain, above all -- there's your reference -- what was happening there, in reality. The one physical system, the brain, contains an accurate working model of the other, the quasar. Not just a superficial image of it, though it contains that as well, but an explanatory model, embodying the same mathematical relationships and the same causal structure.
ở bên kia của vũ trụ, vài mẩu hóa chất có thể mô tả, tái tạo mẫu, dự đoán và giải thích chính xác -- bạn có thể thấy ở đây -- điều đã thực sự xảy ra ở đó. Hệ thống vật lý học của bộ não chứa một mẫu hoạt động chính xác của vật lý học của chuẩn tinh, Không chỉ là một hình ảnh hời hợt, mà còn là một mô hình giải thích, chứa đựng quan hệ toán học tương tự và cấu trúc hệ quả tương tự. Đó là kiến thức. Và nếu điều đó chưa đủ tuyệt vời,
Now, that is knowledge. And if that weren't amazing enough, the faithfulness with which the one structure resembles the other is increasing with time. That is the growth of knowledge. So, the laws of physics have this special property, that physical objects as unlike each other as they could possibly be can, nevertheless, embody the same mathematical and causal structure and to do it more and more so over time.
sự chính xác mà với đó một cấu trúc tượng trưng cho cấu trúc khác tăng theo thời gian. Đó là sự phát triển của kiến thức. Vậy, các định luật vật lý có tính năng đặc biệt này: Vật thể lý học, dù có khác nhau đến mấy, vẫn không thể tránh khỏi chứa đựng cấu trúc toán học và hệ quả tương tự nhau và theo thời gian càng giống nhau hơn.
So we are a chemical scum that is different. This chemical scum has universality. Its structure contains, with ever-increasing precision, the structure of everything. This place, and not other places in the universe, is a hub which contains within itself the structural and causal essence of the whole of the rest of physical reality. And so, far from being insignificant, the fact that the laws of physics allow this or even mandate that this can happen is one of the most important things about the physical world.
Vậy chúng ta là một mẩu vụn hóa chất khác biệt. Mẩu hóa chất này có tính phổ biến. Cấu trúc của nó bao gồm, với sự chính xác càng ngày càng cao, cấu trúc của mọi thứ. Nơi này, chứ không phải các nơi khác trong vũ trụ, là một cái nôi chứa cốt lõi của cấu trúc và hệ quả của toàn bộ các thực thế lý học khác. Và vì vậy, thay vì nhỏ bé, sự thật là các định luật vật lý cho phép điều này, hay thậm chí quy định rằng điều này có thể xảy ra, là một trong những điều quan trọng nhất về thế giới vật chất.
Now, how does the solar system -- our environment, in the form of us -- acquire this special relationship with the rest of the universe? Well, one thing that's true about Stephen Hawking's remark -- I mean, it is true, but it's the wrong emphasis -- one thing that's true about it is that it doesn't do it with any special physics, there's no special dispensation, no miracles involved. It does it simply with three things that we have here in abundance. One of them is matter, because the growth of knowledge is a form of information processing. Information processing is computation, computation requires a computer, and there's no known way of making a computer without matter. We also need energy to make the computer, and most important, to make the media, in effect, onto which we record the knowledge that we discover.
Vậy làm cách nào mà hệ mặt trời -- và môi trường của chúng ta, dưới dạng là chính chúng ta -- có được mối quan hệ đặc biệt này với phần còn lại của vũ trụ? Một điều đúng về quan điểm của Stephen Hawking -- ý tôi là nó đúng, nhưng được nhấn mạnh sai. Một điều đúng là nó không can hệ tới bất kỳ môn vật lý riêng rẽ nào. Không có trường hợp đặc biệt nào, không có phép màu nào liên quan. Nó làm được với 3 thứ mà chúng ta có thừa. Một trong số đó là vật chất, bởi vì sự phát triển tri thức là một dạng xử lý thông tin. Xử lý thông tin là sự tính toán, và tính toán thì cần máy tính -- chưa hề có cách nào để tạo ra máy tính mà không cần vật chất. Chúng ta cũng cần năng lượng để làm ra máy tính, và điều quan trọng nhất, để tạo ra phương tiện mà trên đó chúng ta lưu lại kiến thức mà ta khám phá ra.
And then thirdly, less tangible but just as essential for the open-ended creation of knowledge, of explanations, is evidence. Now, our environment is inundated with evidence. We happened to get round to testing, let's say, Newton's law of gravity, about 300 years ago. But the evidence that we used to do that was falling down on every square meter of the Earth for billions of years before that, and we'll continue to fall for billions of years afterwards. And the same is true for all the other sciences. As far as we know, evidence to discover the most fundamental truths of all the sciences is here just for the taking, on our planet.
Và thứ ba, khó hình dung hơn, nhưng quan trọng không kém cho sự sáng tạo chưa có hồi kết của kiến thức, của phân tích, là bằng chứng, là vết tích. Hiện nay môi trường của chúng ta đang chứa đầy vết tích. Chúng ta thử kiểm tra -- ví dụ như là Định luật Newton về lực hấp dẫn -- khoảng 300 năm trước. Nhưng bằng chứng mà chúng ta sử dụng để thực hiện thí nghiệm đó đã rơi xuống trên mỗi mét vuông của trái đất suốt hàng tỉ năm trước, và sẽ tiếp tục rơi trong hàng tỉ năm sau. Và điều tương tự cũng đúng với tất cả các môn khoa học khác. Như chúng ta biết, bằng chứng để khám phá những chân lý cơ bản nhất của tất cả các môn khoa học đang nằm trên chính hành tinh này. Vị trí của chúng ta chứa đựng toàn bộ bằng chứng, và cũng với vật chất và năng lượng.
Our location is saturated with evidence and also with matter and energy. Out in intergalactic space, those three prerequisites for the open-ended creation of knowledge are at their lowest possible supply -- as I said, it's empty, it's cold and it's dark out there. Or is it? Now actually, that's just another parochial misconception.
Ở bên ngoài không gian liên ngân hà, 3 điều căn bản đó cho sự sáng tạo không hồi kết của kiến thức đang không có đủ nguồn cung cấp. Như tôi đã nói, nó trống trơn, lạnh, và tối. Có thật vậy không? Thực ra, đó chỉ là một quan niệm sai lầm và thiển cận. (Tiếng cười)
(Laughter)
Bởi vì tưởng tượng có một khối lập phương ở ngoài kia trong không gian liên ngân hà, có kích thước tương đương
Because imagine a cube out there in intergalactic space, the same size as our home, the solar system. Now, that cube is very empty by human standards, but that still means that it contains over a million tons of matter. And a million tons is enough to make, say, a self-contained space station, on which there's a colony of scientists that are devoted to creating an open-ended stream of knowledge, and so on.
ngôi nhà của húng ta, hệ mặt trời. Hiện nay khối đó vẫn còn rất trống theo tiêu chuẩn con người, nhưng vẫn có nghĩa là nó chứa hàng triệu tấn vật chất. Và hàng triệu tấn là đủ để tạo ra một trạm không gian ở đó có một nhóm các nhà khoa học tận tụy làm việc để tạo ra một dòng chảy kiến thức không hồi kết, vân vân.
Now, it's way beyond present technology to even gather the hydrogen from intergalactic space and form it into other elements and so on. But the thing is, in a comprehensible universe, if something isn't forbidden by the laws of physics, then what could possibly prevent us from doing it, other than knowing how? In other words, it's a matter of knowledge, not resources. If we could do that, we'd automatically have an energy supply, because this transmutation would be a fusion reactor.
Kỹ thuật hiện nay chưa đủ để thậm chí gom lại khí hydro từ không gian liên ngân hà và biến chúng thành các nguyên tố khác. Nhưng vấn đề là, trong một vũ trụ có nguyên tắc, nếu điều gì đó không bị cản trở bởi các quy luật vật lý, thì điều gì có thế ngăn chúng ta làm được nó, ngoài việc tìm hiểu cách thức thực hiện? Nói cách khác, đó là vấn đề về kiến thức chứ không phải tài nguyên. Và điều tương tự -- nếu chúng ta có thể làm được điều này chúng ta có một nguồn cung năng lượng, bởi vì sự đột biến có thể là một tác nhân quan trong -- và bằng chứng?
And evidence? Well, again, it's dark out there to human senses, but all you've got to do is take a telescope, even one of present-day design, look out, and you'll see the same galaxies as we do from here. And with a more powerful telescope, you'll be able to see stars and planets in those galaxies, you'll be able to do astrophysics and learn the laws of physics. And locally there, you could build particle accelerators and learn elementary particle physics and chemistry, and so on. Probably the hardest science to do would be biology field trips --
Có thể ở đó tối đối với giác quan của con người. Nhưng tất cả những gì bạn phải làm là dùng một chiếc kính viễn vọng, có thể là thiết kế của ngày hôm nay, nhìn ra ngoài, và bạn sẽ thấy thiên hà mà chúng ta thấy từ đây. Và với chiếc kính tốt hơn, bạn có thể nhìn thấy những ngôi sao, những hành tinh. Và trong những nhân hà ấy, bạn sẽ có thể làm vât lý thiên thể, và học các quy luật vật lý. Và tại đây bạn có thể dựng các máy gia tốc nguyên tử, và học về vật lý nguyên tử cơ bản, và hóa học, vân vân. Có thể khoa học khó với tới nhất là sinh học thực nghiệm, vì sẽ cần
(Laughter)
because it would take several hundred million years to get to the nearest life-bearing planet and back. But I have to tell you -- and sorry, Richard -- but I never did like biology field trips much --
vài trăm triệu năm ánh sáng để đến hành tinh có sự sống gần nhất và quay trở lại. Nhưng tôi phải nói với các bạn -- và xin lỗi Richard -- tôi chả hề thích các chuyến thực tế sinh học lắm,
(Laughter)
và tôi nghĩ chúng ta chỉ cần làm 1 chuyến trong vài trăm triệu năm anh sáng.
and I think we can just about make do with one every few hundred million years.
(Tiếng cười)
(Laughter)
Như vậy thực ra không gian liên ngân hà chứa mọi yêu cầu cho sự sáng tạo
So, in fact, intergalactic space does contain all the prerequisites for the open-ended creation of knowledge. Any such cube anywhere in the universe could become the same kind of hub that we are, if the knowledge of how to do so were present there. So, we're not in a uniquely hospitable place. If intergalactic space is capable of creating an open-ended stream of explanations, then so is almost every other environment, so is the Earth. So is a polluted Earth. And the limiting factor, there and here, is not resources -- because they're plentiful -- but knowledge, which is scarce.
không hồi kết của tri thức. Và bất kể khối lập phương nào, bất kể nơi đâu trong vũ trụ, có thể trở thành chiếc nôi như chúng ta, nếu kiến thức tồn tại ở đó. Vì thế chúng ta không phải là nơi duy nhất. Nếu không gian liên ngân hà có thể tạo ra một dòng kiến thức không hồi kết, thì mọi môi trường khác đều có thể. Trái Đất cũng có thể. Một Trái đất ô nhiễm cũng có thể. Và yếu tố ngăn cản, ở mọi nơi, không phải là tài nguyên - chúng có thừa, mà bởi kiến thức ít ỏi.
Now, this cosmic knowledge-based view may -- and, I think, ought to -- make us feel very special. But it should also make us feel vulnerable, because it means that without the specific knowledge that's needed to survive the ongoing challenges of the universe, we won't survive them. All it takes is for a supernova to go off a few light-years away, and we'll all be dead!
Bây giờ kiến thức khổng lồ này có thể khiến chúng ta cảm thấy rất đặc biệt. Nhưng nó cũng khiến chúng ta cảm thấy yếu ớt. bởi vì nó có nghĩa là nếu không có kiến thức cần thiết để sinh tồn những thử thách tiếp theo của vũ trụ, chúng ta sẽ không sinh tồn. Tất cả những gì cần là một siêu tân tinh nổ ra cách ta vài năm ánh sáng, và chúng ta sẽ chết hêt! Martin Rees gần đây viêt một cuốn sách về khả năng bị đánh bại của chúng ta với đủ mọi thứ,
Martin Rees has recently written a book about our vulnerability to all sorts of things, from astrophysics, to scientific experiments gone wrong, and most importantly, to terrorism with weapons of mass destruction. And he thinks that civilization has only a 50 percent chance of surviving this century. I think he's going to talk about that later in the conference.
từ vật lý thiên thể cho tới những thí nghiệm khoa học sai hướng, và quan trọng nhất với khủng bố và các vũ khí chết người hàng loạt. Ông cho rằng nền văn minh của chúng ta chỉ có 50% cơ hội sống sót trong thế kỷ này. Tôi nghĩ ông định nói về điều này trong phần sau của hội thảo.
Now, I don't think that probability is the right category to discuss this issue in, but I do agree with him about this: we can survive and we can fail to survive. But it depends, not on chance, but on whether we create the relevant knowledge in time. The danger is not at all unprecedented. Species go extinct all the time. Civilizations end. The overwhelming majority of all species and all civilizations that have ever existed are now history. And if we want to be the exception to that, then logically, our only hope is to make use of the one feature that distinguishes our species and civilization from all the others, namely, our special relationship with the laws of physics, our ability to create new explanations, new knowledge -- to be a hub of existence.
Bây giờ tôi không nghĩ rằng cái khả năng đó là thích hợp để thảo luận bây giờ. Nhưng tôi đồng ý với ông về điều này. Chúng ta có thể sinh tồn, hoặc có thể thất bại trong việc sinh tồn. Nhưng nó không phụ thuộc vào cơ may, mà vào việc liệu chúng ta có thể tạo ra kiến thức cần thiết đúng lúc. Nguy hiểm không phải chưa từng xảy ra. Các loài vẫn bị tuyệt chủng. Các nền văn minh kết thúc. Đa số các loài và các nền văn minh từng tồn tại đều đã thuộc về quá khứ. Và nếu chúng ta muốn trở thành ngoại lệ, thì hy vọng duy nhất của chúng ta là tận dụng nét đặc trưng đã phân loại giống loài của chúng ta, và nền văn minh của chúng ta. Cụ thể là mối quan hệ đặc biệt của ta với các định luật vật lý. Khả năng của chúng ta để đưa ra những phân tích mới, kiến thức mới -- để có thể trở thành một chiếc nôi của sự tồn tại.
So let me now apply this to a current controversy, not because I want to advocate any particular solution, but just to illustrate the kind of thing I mean. And the controversy is global warming. Now, I'm a physicist, but I'm not the right kind of physicist. In regard to global warming, I'm just a layman. And the rational thing for a layman to do is to take seriously the prevailing scientific theory. And according to that theory, it's already too late to avoid a disaster, because, if it's true that our best option at the moment is to prevent CO2 emissions with something like the Kyoto Protocol, with its constraints on economic activity and its enormous cost of hundreds of billions of dollars, or whatever it is, then that is already a disaster by any reasonable measure. And the actions that are advocated are not even purported to solve the problem, merely to postpone it by a little. So it's already too late to avoid it, and it probably has been too late to avoid it ever since before anyone realized the danger. It was probably already too late in the 1970s, when the best available scientific theory was telling us that industrial emissions were about to precipitate a new ice age, in which billions would die.
Vậy để tôi ứng dụng điều này vào một cuộc tranh luận hiện nay, không phải bởi vì tôi muốn ủng hộ bên nào, mà chỉ để tượng trưng cho cái mà tôi muốn nói. Và điều gây tranh cãi là sự ấm lên toàn cầu. Tôi là một nhà vật lý, nhưng tôi không phải là kiểu nhà vật lý thực sự. Về sự ấm lên toàn cầu, tôi chỉ là một người không có chuyên môn. Và điều mà một người không chuyên nên làm là tin vào những thuyết khoa học hiện hành. Và theo như thuyết ấy, đã quá muộn để tránh một thảm họa. Bởi vì nếu đúng là sự lựa chọn tốt nhất lúc này là ngăn chặn sự thải khí CO2 bằng một thứ tương tự như Nghị định thư Kyoto, với sự trói buộc lên hoạt động kinh tế và sự tốn kém khổng lồ hàng trăm triệu dollar, thì đó đã là một thảm họa trên bất kỳ thang đo nào. Và các hành động được cổ vũ không hề có ý nghĩa trong việc giải quyết vấn đề, mà chỉ kéo dài nó thêm chút ít. Vậy là đã quá muộn để tránh nó, và nó có thể cũng đã quá muộn để tránh từ trước cả khi ai đó nhận thấy nguy hiểm. Có thể đã quá muộn từ những năm 1970, khi mà những lý thuyết khoa học tốt nhất thời bấy giờ cho thấy khi thải công nghiệp có thể gây ra một kỷ băng hà mới mà hàng tỉ người sẽ chết.
Now, the lesson of that seems clear to me, and I don't know why it isn't informing public debate. It is that we can't always know. When we know of an impending disaster and how to solve it at a cost less than the cost of the disaster itself, then there's not going to be much argument, really. But no precautions and no precautionary principle can avoid problems that we do not yet foresee.
Bài học đó khá rõ ràng đối với tôi và tôi không hiểu sao nó lại không gây ra tranh cãi công khai. Đó là điều mà không phải lúc nào ta cũng hiểu được. Khi ta biết về một thảm họa đang tới gần, và cách giải quyết đỡ tốn kém hơn chính bản thân thảm họa đó, thì không có gì phải tranh cãi. Nhưng không cảnh báo nào, hay quy tắc cảnh báo nào, có thể tránh được những vấn đề mà ta chưa thấy được.
Hence, we need a stance of problem-fixing, not just problem-avoidance. And it's true that an ounce of prevention equals a pound of cure, but that's only if we know what to prevent. If you've been punched on the nose, then the science of medicine does not consist of teaching you how to avoid punches.
Vì thế chúng ta cần có tư thế sẵn sàng sửa chữa sai lầm chứ không chỉ trốn tránh nó. Và đúng là phòng bệnh hơn chữa bệnh, nhưng đó là khi ta biết phải phòng tránh cái gì. Nếu bạn đã bị đấm vào mũi thì y khoa không bao gồm việc dạy bạn phải tránh những cú đấm như thế nào.
(Laughter)
If medical science stopped seeking cures and concentrated on prevention only, then it would achieve very little of either.
Nếu y khoa ngừng việc tìm phương thức chữa bệnh mà chỉ tập trung vào phòng ngừa, thì nó chẳng thế đạt được bước tiến nào trong cả 2 lĩnh vực.
The world is buzzing at the moment with plans to force reductions in gas emissions at all costs. It ought to be buzzing with plans to reduce the temperature and with plans to live at the higher temperature -- and not at all costs, but efficiently and cheaply. And some such plans exist, things like swarms of mirrors in space to deflect the sunlight away and encouraging aquatic organisms to eat more carbon dioxide. At the moment, these things are fringe research; they're not central to the human effort to face this problem or problems in general. And with problems that we are not aware of yet, the ability to put right -- not the sheer good luck of avoiding indefinitely -- is our only hope, not just of solving problems, but of survival.
Thế giới xôn xao với những kế hoạch để cắt giảm lượng khí thải bằng mọi giá. Thế giới nên xôn xao với các kế hoạc để giảm nhiệt độ, và với các kế hoạch để sinh sống ở nhiệt độ cao hơn. Và không phải là với mọi giá mà phải hiệu quả và tiết kiệm. Và một số kế hoạch như vậy là khả thi, như là dựng các hệ gương trong không gian để phản xạ ánh sáng mặt trời, hay thúc đẩy các hệ sinh thái đại dương tiêu hóa nhiều cacbon đioxit hơn. Ngay lúc này, những nghiên cứu như vậy chỉ là nghiên cứu râu ria. Chúng không phải là trọng tâm trong nỗ lực của con người để đối mặt với vấn đề này. Và với những vấn đề mà chúng ta chưa ngờ tới, khả năng để đưa ra đúng -- không chỉ phụ thuộc hoàn toàn vào may mắn để tránh điều không thể -- đó là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta, không chỉ để giải quyết vấn đề, mà để sinh tồn.
So, take two stone tablets and carve on them. On one of them, carve: "Problems are soluble." And on the other one, carve: "Problems are inevitable."
Chọn 2 phiến đá và khắc lên chúng. Tấm thứ nhất, khắc "Vấn đề có thể giải quyết được." Và tấm khác khắc "Vấn đề không tránh khỏi."
Thank you.
Cảm ơn. (Vỗ tay)
(Applause)