This is the venue where, as a young man, some of the music that I wrote was first performed. It was, remarkably, a pretty good sounding room. With all the uneven walls and all the crap everywhere, it actually sounded pretty good. This is a song that was recorded there. (Music) This is not Talking Heads, in the picture anyway. (Music: "A Clean Break (Let's Work)" by Talking Heads) So the nature of the room meant that words could be understood. The lyrics of the songs could be pretty much understood. The sound system was kind of decent. And there wasn't a lot of reverberation in the room. So the rhythms could be pretty intact too, pretty concise. Other places around the country had similar rooms. This is Tootsie's Orchid Lounge in Nashville. The music was in some ways different, but in structure and form, very much the same. The clientele behavior was very much the same too. And so the bands at Tootsie's or at CBGB's had to play loud enough -- the volume had to be loud enough to overcome people falling down, shouting out and doing whatever else they were doing.
Đây là nơi mà, khi còn trẻ, những sáng tác của tôi được lần đầu biểu diễn. Đó là một căn phòng có chất lượng âm thanh tuyệt vời. Trông những bức tường thì lồi lõm và có vẻ vớ vẩn thật đấy, nhưng âm thanh thực sự là rất tốt. Đây là một bản nhạc được thu âm lại trong căn phòng này. (Âm nhạc) Trong bức hình này không phải là ban nhạc Talking Heads. (Âm nhạc: "A Clean Break (Let's Work)" trình bày bởi Talking Heads) Vậy là tính chất của cái phòng đã giúp truyền tải ngôn từ tới người nghe. Lời bài hát rất dễ hiểu. Hệ thống âm thanh rất tốt. Không có nhiều phản âm trong căn phòng. Vậy nên nhịp điệu của bài nhạc được giữ lại khá trọn vẹn, rất ngắn gọn. Có nhiều căn phòng cũng tương tự trên đất nước này. Đây là Orchid Lounge ở Tootsie ở Nashville. Âm nhạc trong căn phòng này có vài phần khác biệt, nhưng xét về cấu trúc và chỉnh thể, chúng khá giống nhau. Hành xử của người nghe cũng khá giống. Những ban nhạc biểu diễn ở Tootsie's hay CBGB's đều phải chơi với âm lượng đủ lớn -- sao cho có thể át được tiếng mọi người nhảy múa, gào thét hay làm bất cứ điều gì mà họ đang làm.
Since then, I've played other places that are much nicer. I've played the Disney Hall here and Carnegie Hall and places like that. And it's been very exciting. But I also noticed that sometimes the music that I had written, or was writing at the time, didn't sound all that great in some of those halls. We managed, but sometimes those halls didn't seem exactly suited to the music I was making or had made. So I asked myself: Do I write stuff for specific rooms? Do I have a place, a venue, in mind when I write? Is that a kind of model for creativity? Do we all make things with a venue, a context, in mind?
Kể từ đó, tôi đã chơi nhạc ở nhiều nơi khác với chất lượng tốt hơn. Tôi đã chơi trong hội trường Disney và hội trường Carnegie và những nơi tương tự. Tất cả đều rất thú vị. Nhưng tôi cũng để ý rằng đôi khi những sáng tác mà tôi đã viết, hay đang viết tại thời điểm đó, nghe chẳng hay ho đến vậy ở một vài hội trường nhất định. Chúng tôi đã cố gắng hết sức, nhưng đôi khi những hội trường đó không thực sự phù hợp với loại âm nhạc mà tôi đang viết hay đã viết. Vậy nên tôi tự hỏi bản thân mình Tôi có viết nhạc cho những phòng biểu diễn nhất định? Trong đầu tôi liệu có một địa điểm, một không gian, cụ thể khi tôi viết nhạc? Có phải đó là một mô hình sáng tạo? Có phải chúng ta sáng tạo nên mọi thứ với một địa điểm, một bối cảnh nhất định trong đầu?
Okay, Africa. (Music: "Wenlenga" / Various artists) Most of the popular music that we know now has a big part of its roots in West Africa. And the music there, I would say, the instruments, the intricate rhythms, the way it's played, the setting, the context, it's all perfect. It all works perfect. The music works perfectly in that setting. There's no big room to create reverberation and confuse the rhythms. The instruments are loud enough that they can be heard without amplification, etc., etc. It's no accident. It's perfect for that particular context. And it would be a mess in a context like this. This is a gothic cathedral. (Music: "Spem In Alium" by Thomas Tallis) In a gothic cathedral, this kind of music is perfect. It doesn't change key, the notes are long, there's almost no rhythm whatsoever, and the room flatters the music. It actually improves it. This is the room that Bach wrote some of his music for. This is the organ. It's not as big as a gothic cathedral, so he can write things that are a little bit more intricate. He can, very innovatively, actually change keys without risking huge dissonances. (Music: "Fantasia On Jesu, Mein Freunde" by Johann S. Bach)
Lấy ví dụ, châu Phi. (Âm nhạc: "Wenlenga"/Nhiều nghệ sĩ) Đa phần âm nhạc mà chúng ta biết ngày nay có cội nguồn từ Tây Phi. Và âm nhạc ở đó, tôi cho rằng, những nhạc cụ, và những nhịp điệu rắc rối, cái cách mà âm nhạc được chơi, bối cảnh, không gian, tất cả đều hoàn hảo. Tất cả phải phối hợp nhịp nhàng với nhau. Và âm nhạc cất lên tuyệt hảo trong bối cảnh nhất định đó. Ở đó chẳng có căn phòng lớn nào để mà có sự dội lại âm thanh khiến nhịp điệu bị rối loạn. Nhạc cụ đủ vang để có thể nghe thấy được mà không cần khuếch đại âm thanh, vân vân. Đó chẳng phải là một sự tình cờ. Thứ âm thanh này hoàn hảo trong bối cảnh nhất định đó. Và nó sẽ hỏng cả nếu đặt vào địa điểm như thế này. Đây là một nhà thờ kiểu gothic. (Âm nhạc: "Spem in Alium" bởi Thomas Tallis) Trong một nhà thờ gothic, thứ âm nhạc này mới là hoàn hảo. Những nốt nhạc không đổi, kéo dài. gần như chẳng có nhịp điệu gì, và căn phòng giúp làm tôn lên âm nhạc. Và không gian ấy thực sự giúp cải thiện thật. Đây là căn phòng mà Bach viết một số bản nhạc. Đây là chiếc đàn organ. Nó không lớn như chiếc trong nhà thờ gothic, vậy nên Bach có thể viết nên thứ âm nhạc có phần phức tạp hơn. Ông ấy có thể, một cách rất sáng tạo, thay đổi gam nhạc mà không mạo hiểm gây ra sự nhiễu âm. (Âm nhạc: "Fantasia On Jesu, Mein Freunde" bởi Johann S. Bach)
This is a little bit later. This is the kind of rooms that Mozart wrote in. I think we're in like 1770, somewhere around there. They're smaller, even less reverberant, so he can write really frilly music that's very intricate -- and it works. (Music: "Sonata in F," KV 13, by Wolfgang A. Mozart) It fits the room perfectly. This is La Scala. It's around the same time, I think it was built around 1776. People in the audience in these opera houses, when they were built, they used to yell out to one another. They used to eat, drink and yell out to people on the stage, just like they do at CBGB's and places like that. If they liked an aria, they would holler and suggest that it be done again as an encore, not at the end of the show, but immediately. (Laughter) And well, that was an opera experience. This is the opera house that Wagner built for himself. And the size of the room is not that big. It's smaller than this. But Wagner made an innovation. He wanted a bigger band. He wanted a little more bombast, so he increased the size of the orchestra pit so he could get more low-end instruments in there. (Music: "Lohengrin / Prelude to Act III" by Richard Wagner)
Còn đây là vào thời đại ít lâu sau đó. Đây là kiểu căn phòng mà tại đó Mozart đã viết nhạc. Tôi nghĩ rằng đó là vào khoảng năm 1770. Những căn phòng như thế này nhỏ hẹp hơn, ít có sự dội âm hơn, thế nên Mozart có thể viết nên thứ âm nhạc khá rườm rà khá phức tạp - và nó thực sự rất tuyệt. (Âm nhạc: "Sonata in F," KV 13, Wolfgang A. Mozart) Nó phù hợp hoàn hảo với căn phòng. Và đây là La Scala. cũng gần vào thời kỳ này, tôi nghĩ nó được xây dựng vào khoảng năm 1776. Khán giả trong những nhà hát này, vào thời điểm chúng được xây dựng, họ thường hò hét với nhau. Họ ăn uống và gào thét với những người đang biểu diễn trên sàn diễn, cũng giống như những khán giả ở CBGB hay những nơi tương tự. Nếu họ thích một bản nhạc, họ sẽ kêu la và yêu cầu bản nhạc được chơi lại, không chờ tới cuối buổi biểu diễn, mà phải là ngay lập tức kia. (Cười) Và thực ra đó là một trải nghiệm ở một buổi nhạc kịch. Đây là nhà hát kịch mà Wagner đã tự xây cho chính mình. Kích cỡ của căn phòng không to tới mức này. Nó nhỏ hơn thế. Nhưng Wagner đã cải tiến. Ông ấy muốn có một ban nhạc lớn hơn. Ông ấy muốn có thêm sự hoành tráng, vậy nên ông ấy tăng kích cỡ của khu vực cho dàn nhạc để có thể đưa thêm vào những nhạc cụ khác. (Âm nhạc: "Lohengrin/Prelude to Act III" bởi Richard Wagner)
Okay. This is Carnegie Hall. Obviously, this kind of thing became popular. The halls got bigger. Carnegie Hall's fair-sized. It's larger than some of the other symphony halls. And they're a lot more reverberant than La Scala. Around the same, according to Alex Ross who writes for the New Yorker, this kind of rule came into effect that audiences had to be quiet -- no more eating, drinking and yelling at the stage, or gossiping with one another during the show. They had to be very quiet. So those two things combined meant that a different kind of music worked best in these kind of halls. It meant that there could be extreme dynamics, which there weren't in some of these other kinds of music. Quiet parts could be heard that would have been drowned out by all the gossiping and shouting. But because of the reverberation in those rooms like Carnegie Hall, the music had to be maybe a little less rhythmic and a little more textural. (Music: "Symphony No. 8 in E Flat Major" by Gustav Mahler) This is Mahler. It looks like Bob Dylan, but it's Mahler. That was Bob's last record, yeah.
Vậy rồi, đây là hội trường Carnegie. Rõ ràng là, những căn phòng rộng lớn trở nên được ưa chuộng hơn. Những hội trường càng này càng được mở rộng. Kích cỡ của hội trường Carnegie khá vừa phải. Nó lớn hơn một vài hội trường nhạc giao hưởng. Và chúng gây nên nhiều dội âm hơn nhiều so với La Scala. Có kích cỡ tương tự, theo như Alex Ross, phóng viên cho tờ New Yorker, một điều luật không lời bắt đầu hình thành đó là khán giả phải giữ yên lặng -- không còn ăn, uống, hò hét ở sân khấu, hay tán gẫu với nhau trong suốt buổi biểu diễn. Khán giả phải thực sự yên tĩnh. Hai thứ này kết hợp với nhau mang đến một thứ âm nhạc khác một thứ âm nhạc mới để phù hợp với kiểu hội trường này. Điều đó có nghĩa rằng giờ đây có thể tạo nên thứ âm nhạc, vốn không thể tồn tại trong những loại nhạc trước đó. Những khoảng lặng có thể được lắng nghe mà đáng lẽ ra trước kia sẽ bị nhấn chìm bởi những lời tán gẫu và hò hét. Thế nhưng bởi vì sự dội âm trong những căn phòng như hội trường Carnegie, âm nhạc luôn luôn phải có ít nhịp điệu hơn và có thêm kết cấu phức tạp. (Âm nhạc: "Giao hưởng số 8 Cung Mi Trưởng" bởi Gustav Mahler) Đây là Mahler. Có thể bạn tưởng đó là Bob Dylan, nhưng thực ra là Mahler. Và đó là bản thu âm gần nhất của Bob, đúng vậy.
(Laughter)
(Cười)
Popular music, coming along at the same time. This is a jazz band. According to Scott Joplin, the bands were playing on riverboats and clubs. Again, it's noisy. They're playing for dancers. There's certain sections of the song -- the songs had different sections that the dancers really liked. And they'd say, "Play that part again." Well, there's only so many times you can play the same section of a song over and over again for the dancers. So the bands started to improvise new melodies. And a new form of music was born. (Music: "Royal Garden Blues" by W.C. Handy / Ethel Waters) These are played mainly in small rooms. People are dancing, shouting and drinking. So the music has to be loud enough to be heard above that. Same thing goes true for -- that's the beginning of the century -- for the whole of 20th-century popular music, whether it's rock or Latin music or whatever. [Live music] doesn't really change that much.
Nhạc pop, xuất hiện cùng vào thời kỳ này. Đây là một ban nhạc jazz. Theo như Scott Joplin, các ban nhạc chơi trên những chiếc thuyền và trong các câu lạc bộ. Đúng vậy, ồn ào lắm. Họ đang chơi nhạc cho người ta nhảy theo. Có những trường đoạn nhất định trong bản nhạc -- bản nhạc có nhiều phần khác nhau -- mà những người nhảy thực sự yêu thích. Và họ sẽ nói, "Hãy chơi lại đoạn nhạc đó đi." Và đương nhiên, bạn chỉ có thể chơi đi chơi lại một đoạn nhạc cho những người trên sàn nhảy bằng ấy lần. Vậy nên các ban nhạc bắt đầu sáng tác nên những giai đoạn mới. Và một loại hình âm nhạc mới ra đời. (Âm nhạc: "Royal Garden Blues" bởi W.C. Handy/Ethel Waters) Những bản nhạc như thế này được chơi trong những căn phòng nhỏ. Mọi người nhảy múa, hò hét, uống rượu. Vậy nên âm nhạc phải đủ vang để có thể át những tiếng ồn đó. Đó là đầu thế kỉ 20, và điều tương tự cũng xảy ra với nền âm nhạc của cả thế kỷ 20, bất kể đó là nhạc rock, nhạc Latin hay gì khác nữa. [Nhạc sống] không thay đổi nhiều tới mức đó.
It changes about a third of the way into the 20th century, when this became one of the primary venues for music. And this was one way that the music got there. Microphones enabled singers, in particular, and musicians and composers, to completely change the kind of music that they were writing. So far, a lot of the stuff that was on the radio was live music, but singers, like Frank Sinatra, could use the mic and do things that they could never do without a microphone. Other singers after him went even further. (Music: "My Funny Valentine" by Chet Baker) This is Chet Baker. And this kind of thing would have been impossible without a microphone. It would have been impossible without recorded music as well. And he's singing right into your ear. He's whispering into your ears. The effect is just electric. It's like the guy is sitting next to you, whispering who knows what into your ear.
Nó thay đổi khi thế kỷ 20 đi được khoảng 1/3 chặng đường, khi những căn phòng nhỏ như thế này trở thành những địa điểm chính tổ chức âm nhạc Và đây là một cách khiến cho âm nhạc thay đổi được như vậy. Micrô giúp cho đặc biệt là ca sĩ cũng như nhạc công và nhạc sĩ, thay đổi hoàn toàn phong cách âm nhạc mà họ đang viết. Cho tới nay, đa phần những thứ được phát trên đài là nhạc sống, nhưng những ca sĩ, như Frank Sinatra, có thể dùng micrô để làm những việc mà trước đó họ không thể làm nếu thiếu micrô. Những ca sĩ khác sau đó còn tiến xa hơn. (Âm nhạc: "My Funny Valentine" bởi Chet Baker) Đây là Chet Baker. Và thứ âm nhạc này không thể thành hiện thực nếu không có micrô. Và nó cũng không thể thành hiện thực nếu không có công nghệ thu âm. Và anh ta hát ngay vào tai bạn. Anh ta thì thầm vào tai bạn. Hiệu ứng của nó là không ngờ. Cứ như thể là chàng ca sĩ đang ngồi ngay cạnh bạn, thì thầm điều gì đó vào tai bạn.
So at this point, music diverged. There's live music, and there's recorded music. And they no longer have to be exactly the same. Now there's venues like this, a discotheque, and there's jukeboxes in bars, where you don't even need to have a band. There doesn't need to be any live performing musicians whatsoever, and the sound systems are good. People began to make music specifically for discos and for those sound systems. And, as with jazz, the dancers liked certain sections more than they did others. So the early hip-hop guys would loop certain sections. (Music: "Rapper's Delight" by The Sugarhill Gang) The MC would improvise lyrics in the same way that the jazz players would improvise melodies. And another new form of music was born.
Và thế là, tại thời điểm này, âm nhạc chia làm hai hướng. Nhạc sống, và nhạc thu âm. Và chúng không còn hoàn toàn giống nhau nữa. Thế là có những địa điểm như thế này, một vũ trường, hay là những máy hát tự động trong quán bar, nơi mà bạn chằng cần có ban nhạc sống. Chẳng cần có bất kỳ một nhạc công nào cả, và hệ thống âm thanh thì đủ tốt. Mọi người bắt đầu tự viết nhạc đặc biệt là cho các vũ trường và các hệ thống âm thanh đó. Và, như với nhạc jazz, những người nhảy yêu thích một vài đoạn nhạc nhất định hơn là những đoạn nhạc khác. Vậy nên những ca sĩ nhạc hip hop thời kỳ đầu sẽ lặp đi lặp lại một số đoạn nhất định. (Âm nhạc: "Rapper's Delight" bởi The Sugarhill Gang) MC sẽ ứng tấu lời bài hát theo cái cách tương tự với nhạc jazz khi họ ứng tấu nhạc điệu. Và một loại hình nhạc mới ra đời.
Live performance, when it was incredibly successful, ended up in what is probably, acoustically, the worst sounding venues on the planet: sports stadiums, basketball arenas and hockey arenas. Musicians who ended up there did the best they could. They wrote what is now called arena rock, which is medium-speed ballads. (Music: "I Still Haven't Found What I'm Looking For" by U2) They did the best they could given that this is what they're writing for. The tempos are medium. It sounds big. It's more a social situation than a musical situation. And in some ways, the music that they're writing for this place works perfectly.
Nhạc sống, khi mà nó cực kỳ thành công, rút cục lại rơi vào, có lẽ là, xét về mặt âm thanh, những không gian âm thanh tệ hại nhất trên hành tinh này: các khán đài thể thao, những trận bóng rổ và khúc côn cầu. Nhạc công thế là buộc phải cố gắng làm tốt nhất họ có thể. Họ viết nên ca khúc mà giờ người ta gọi là nhạc rock trên vũ đài mà thực ra chính là các bản ballad tốc độ trung bình. (Âm nhạc: "I Still Haven't Found What I'm Looking For" của U2) Họ cố gắng hết sức bởi vì đây là nơi âm nhạc của họ sẽ được biểu diễn. Tốc độ vừa phải. Âm lượng lớn. Âm nhạc giờ đây được đặt trong một bối cảnh xã hội hơn là một bối cảnh âm điệu. Và theo một vài cách nào đó, thứ âm nhạc mà họ viết cho những địa điểm như thế này lại vừa vặn phù hợp.
So there's more new venues. One of the new ones is the automobile. I grew up with a radio in a car. But now that's evolved into something else. The car is a whole venue. (Music: "Who U Wit" by Lil' Jon & the East Side Boyz) The music that, I would say, is written for automobile sound systems works perfectly on it. It might not be what you want to listen to at home, but it works great in the car -- has a huge frequency spectrum, you know, big bass and high-end and the voice kind of stuck in the middle. Automobile music, you can share with your friends.
Vậy chúng ta thấy đó là ngày càng có những địa điểm mới cho âm nhạc. Một trong những địa điểm đó là trong xe hơi. Tôi lớn lên cái thời mà những chiếc xe ô tô đã có gắn đài. Thế nhưng giờ thứ âm nhạc đó đang phát triển thêm. Chiếc xe là một không gian hoàn toàn mới. (Âm nhạc: "Who U Wit" bởi Lil' Jon và The Eat Side Boyz) Thứ âm nhạc mà, tôi cho rằng, được viết cho hệ thống âm thanh trong xe ô tô thực sự rất hợp. Đó có lẽ không phải là thứ nhạc bạn sẽ nghe khi ở nhà, nhưng nó trở nên hoàn hảo trong những chiếc xe -- nó có tần số cao, bạn biết đấy, bass lớn và chất giọng có vẻ như lơ lửng ở giữa. Âm nhạc của xe hơi, bạn có thể chia sẻ với bạn bè.
There's one other kind of new venue, the private MP3 player. Presumably, this is just for Christian music. (Laughter) And in some ways it's like Carnegie Hall, or when the audience had to hush up, because you can now hear every single detail. In other ways, it's more like the West African music because if the music in an MP3 player gets too quiet, you turn it up, and the next minute, your ears are blasted out by a louder passage. So that doesn't really work. I think pop music, mainly, it's written today, to some extent, is written for these kind of players, for this kind of personal experience where you can hear extreme detail, but the dynamic doesn't change that much.
Có một địa điểm mới của âm nhạc nữa, đó là chiếc máy nghe nhạc cá nhân MP3. Có lẽ, nó chỉ dành cho nhạc Công giáo. (Cười) Và xét trên một vài phương diện, nó giống như hội trường Carnegie, hay khi mà khán giả phải yên lặng, bởi vì giờ đây bạn có thể lắng nghe từng chi tiết nhỏ. Nói theo cách khác, nó giống với âm nhạc Tây Phi bởi vì nếu âm thanh trong chiếc MP3 quá yên tĩnh, bạn tăng âm lượng lên, và chỉ trong một phút sau, tai của bạn bị nhập tràn bởi một trường đoạn ầm ĩ hơn nhiều. Thế nên âm nhạc không thể chạy theo cách đó. Tôi nghĩ nhạc pop, hầu như, được viết ngày nay, ở một mức độ nào đó, được viết dành cho những loại máy nghe nhạc này, cho loại trải nghiệm cá nhân như thế này khi mà bạn có thể lắng nghe từng chi tiết nhỏ một, thế nhưng sự sống động không thay đổi quá nhiều.
So I asked myself: Okay, is this a model for creation, this adaptation that we do? And does it happen anywhere else? Well, according to David Attenborough and some other people, birds do it too -- that the birds in the canopy, where the foliage is dense, their calls tend to be high-pitched, short and repetitive. And the birds on the floor tend to have lower pitched calls, so that they don't get distorted when they bounce off the forest floor. And birds like this Savannah sparrow, they tend to have a buzzing (Sound clip: Savannah sparrow song) type call. And it turns out that a sound like this is the most energy efficient and practical way to transmit their call across the fields and savannahs. Other birds, like this tanager, have adapted within the same species. The tananger on the East Coast of the United States, where the forests are a little denser, has one kind of call, and the tananger on the other side, on the west (Sound clip: Scarlet tanager song) has a different kind of call. (Sound clip: Scarlet tanager song) So birds do it too.
Vậy nên tôi tự hỏi bản thân: Thôi được, vậy thì có phải đây là một mô hình cho sự sáng tạo, có phải đây là một sự thích ứng của chúng ta? Và nó còn xảy ra ở đâu nữa? Theo David Attenborough và một vài người khác, loài chim cũng có sự thay đổi như vậy, loài chim ở dưới tán cây, nơi mà tán lá dày đặc, tiếng gọi của chúng có xu hướng có cao độ cao, ngắn và hay lặp đi lặp lại. Những chú chim ở gần mặt đất có tiếng hót trầm hơn, để âm thanh không bị bóp méo khi nó va chạm vào nền đất trong rừng. Những loài chim như chim sẻ Savannah, chúng có tiếng rì rầm, (Âm thanh: tiếng hót của chim sẻ Savannah) vù vù. Và hóa ra là âm thanh như vậy là cách tiết kiệm năng lượng và hiệu quả nhất để truyền tải tiếng gọi của chúng xuyên qua những cánh đồng và rặng savannahs. Những loài chim khác, như loài tanager, cũng thích ứng ngay trong loài của chúng. Loài tanager ở bờ Đông nước Mỹ, khi rừng có phần rậm rạp hơn, có tiếng hót khác so với loài tananger ở phía bên kia, phía tây (Âm thanh: tiếng loài tanager đỏ) vậy là chúng rất khác nhau. (Âm thanh: tiếng loài tanager đỏ) Vậy là chim cũng có sự thay đổi như vậy.
And I thought: Well, if this is a model for creation, if we make music, primarily the form at least, to fit these contexts, and if we make art to fit gallery walls or museum walls, and if we write software to fit existing operating systems, is that how it works? Yeah. I think it's evolutionary. It's adaptive. But the pleasure and the passion and the joy is still there. This is a reverse view of things from the kind of traditional Romantic view. The Romantic view is that first comes the passion and then the outpouring of emotion, and then somehow it gets shaped into something. And I'm saying, well, the passion's still there, but the vessel that it's going to be injected into and poured into, that is instinctively and intuitively created first. We already know where that passion is going. But this conflict of views is kind of interesting.
Và tôi nghĩ, Chà, vậy nếu đây là một mô hình sáng tạo, nếu chúng ta tạo nên âm nhạc, ít nhất là về mặt cấu trúc, để phù hợp với bối cảnh, và nếu ta sáng tạo ra nghệ thuật cho hợp với bức tường của những phòng triển lãm hay bảo tàng và nếu chúng ta viết các phầm mềm cho hợp với những hệ điều hành hiện tại, đó có phải là cách mọi thứ diễn ra? Vâng. Tôi cho rằng đó là sự tiến bộ. Đó là sự thích ứng. Thế nhưng niềm vui thích, niềm đam mê và hạnh phúc vẫn tồn tại ở đó. Đây là một cách nhìn nhận sự việc hơi ngược so với cái nhin Lãng mạn thông thường. Quan điểm Lãng mạn là đam mê là thứ đến đầu tiên và sau đó là sự dâng trào của cảm xúc, và cuối cùng hình thù mới được tạo nên. Và tôi thì đang nỏi rằng, vâng, sự đam mê vẫn có ở đó, nhưng chiếc bình kia cái thứ mà đam mê sẽ được tiêm vào, đổ vào đó, thực ra mới là thứ, một cách bản năng và vô thức, được tạo ra trước. Chúng ta biết sẵn rằng đam mê đó sẽ đi về đâu. Nhưng sự đối nghịch trong quan điểm này khá thú vị.
The writer, Thomas Frank, says that this might be a kind of explanation why some voters vote against their best interests, that voters, like a lot of us, assume, that if they hear something that sounds like it's sincere, that it's coming from the gut, that it's passionate, that it's more authentic. And they'll vote for that. So that, if somebody can fake sincerity, if they can fake passion, they stand a better chance of being selected in that way, which seems a little dangerous. I'm saying the two, the passion, the joy, are not mutually exclusive.
Nhà văn, Thomas Frank, nói rằng có lẽ đó là một cách giải thích tại sao một số cử tri đối nghịch với những lợi ích của họ, những cử tri, như rất nhiều người trong chúng ta, giả định rằng, nếu họ nghe thấy một thứ gì có vẻ thật thà, thứ gì đến từ ruột gan, nếu nó đầy nhiệt huyết, đam mê, thì tức là nó đáng tin cậy hơn. Và họ sẽ bầu cho những thứ như thế. Vậy là, nếu ai đó có thể làm giả sự thành thật, nếu họ có thể làm giả đam mê, họ có cơ hội được chọn lớn hơn. Điều này nghe thật nguy hiểm. Ý của tôi là hai thứ, niềm đam mê, và sự yêu thích, không phải hoàn toàn tách biệt nhau.
Maybe what the world needs now is for us to realize that we are like the birds. We adapt. We sing. And like the birds, the joy is still there, even though we have changed what we do to fit the context.
Có lẽ điều mà thế giới cần lúc này đó là nhận ra chúng ta cũng như những loài chim. Chúng ta thích ứng. Chúng ta hát. Và như loài chim, niềm yêu thích vẫn ở đó, mặc dù chúng ta đã thay đổi cách cái cách mà chúng ta làm để phù hợp với hoàn cảnh.
Thank you very much.
Cảm ơn vì đã lắng nghe.
(Applause)
(Vỗ tay)