When I got my current job, I was given a good piece of advice, which was to interview three politicians every day. And from that much contact with politicians, I can tell you they're all emotional freaks of one sort or another. They have what I called "logorrhea dementia," which is they talk so much they drive themselves insane. (Laughter) But what they do have is incredible social skills. When you meet them, they lock into you, they look you in the eye, they invade your personal space, they massage the back of your head.
Khi bắt đầu công việc hiện tại, tôi nhận được khá nhiều lời khuyên, đó là hãy phỏng vấn 3 chính trị gia mỗi ngày. Và từ đó sẽ có nhiều mối quan hệ với các chính trị gia. Tôi có thể nói với bạn rằng họ đều là "quái vật" cảm xúc, bằng cách này hay cách khác. Họ có cái mà tôi gọi là chứng nói nhiều, họ nói quá nhiều đến nỗi họ tự làm cho mình trở nên mất trí. (Tiếng cười) Nhưng cái mà họ có là những kĩ năng xã hội tuyệt vời. Khi bạn gặp họ, họ kìm hãm bạn, nhìn thẳng vào mắt bạn, họ xâm chiếm những khoảng trống riêng tư của bạn, và họ xoa dịu phía sau đầu bạn nữa.
I had dinner with a Republican senator several months ago who kept his hand on my inner thigh throughout the whole meal -- squeezing it. I once -- this was years ago -- I saw Ted Kennedy and Dan Quayle meet in the well of the Senate. And they were friends, and they hugged each other and they were laughing, and their faces were like this far apart. And they were moving and grinding and moving their arms up and down each other. And I was like, "Get a room. I don't want to see this." But they have those social skills.
Tôi từng dùng bữa tối với 1 thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa vài tháng trước người đã để tay ông ta trên đùi tôi suốt cả bữa ăn -- và siết chặt nó. Cũng từng 1 lần -- đó là nhiều năm về trước -- tôi nhìn thấy Ted Kennedy và Dan Quayle gặp nhau tại cầu thang của Thượng Nghị viện. Là bạn bè, họ ôm chầm lấy nhau rồi họ cùng cười phá lên, và mặt họ chỉ cách xa nhau từng này thôi. Sau đó họ cùng bước đi và họ di chuyển bàn tay mình lên và xuống. Và tôi cảm thấy đó như là, "Hãy đặt 1 phòng nào đó. Tôi không muốn nhìn thấy cảnh này." Nhưng họ có những kĩ năng xã hội đó.
Another case: Last election cycle, I was following Mitt Romney around New Hampshire, and he was campaigning with his five perfect sons: Bip, Chip, Rip, Zip, Lip and Dip. (Laughter) And he's going into a diner. And he goes into the diner, introduces himself to a family and says, "What village are you from in New Hampshire?" And then he describes the home he owned in their village. And so he goes around the room, and then as he's leaving the diner, he first-names almost everybody he's just met. I was like, "Okay, that's social skill."
Một trường hợp khác: Trong vòng bỏ phiếu kì trước, tôi đã dõi theo Mitt Romney quanh vùng New Hampshire. Và ông ta đã vận động tranh cử với 5 đứa con trai hoàn hảo nhất: Bip, Chip (Tiền), Zip, Lip (Môi) và Dip (Ngoại giao). (Tiếng cười) Và rồi ông ta tham gia 1 bữa tối. Khi đến đó, ông ta giới thiệu bản thân với gia đinh kia và nói, "Các bạn đến từ làng nào của New Hampshire vậy?" Sau đó ông đã miêu ta căn nhà mà ông sở hữu trong ngôi làng của họ. Ông ấy đã đi xung quanh căn phòng, vì chuẩn bị phải rời bữa tiệc, ông ấy đã chỉ tên của hầu hết mọi người mà ông chỉ vừa mới gặp. Tôi nghĩ thế này, "Thế đấy, đó chính là kĩ năng xã hội."
But the paradox is, when a lot of these people slip into the policy-making mode, that social awareness vanishes and they start talking like accountants. So in the course of my career, I have covered a series of failures. We sent economists in the Soviet Union with privatization plans when it broke up, and what they really lacked was social trust. We invaded Iraq with a military oblivious to the cultural and psychological realities. We had a financial regulatory regime based on the assumptions that traders were rational creatures who wouldn't do anything stupid. For 30 years, I've been covering school reform and we've basically reorganized the bureaucratic boxes -- charters, private schools, vouchers -- but we've had disappointing results year after year. And the fact is, people learn from people they love. And if you're not talking about the individual relationship between a teacher and a student, you're not talking about that reality. But that reality is expunged from our policy-making process.
Nhưng sự ngược đời là, khi mà rất nhiều người trong số họ "lọt vào" hệ thống hoạch định chính sách, thì nhận thức xã hội đó dần biến mất và họ bắt đầu nói chuyện như thể những nhân viên kế toán vậy. Trong suốt sự nghiệp của mình, tôi đã xem xét hàng loạt những sai lầm. Chúng ta đã từng cử những nhà kinh tế học đến Liên bang Xô-viết với những kế hoạch tư nhân hóa khi nó sụp đổ, và cái mà họ thực sự thiếu chính là niềm tin xã hội. Chúng ta đã xâm chiếm Iraq bằng quân sự mà không để ý đến thực tế văn hóa và tâm lý. Chúng ta sở hữu 1 chế độ luật lệ tài chính dựa trên những giả định mà những nhà giao dịch là những sinh vật có lý trí những người sẽ không làm gì ngu ngốc cả. Trong suốt 30 năm, tôi đã xem xét tới việc cải cách giáo dục và chúng ta đơn giản chỉ tổ chức lại những cái hộp quan liêu -- những hiến chương, các trường tư, những hóa đơn -- nhưng chúng ta chỉ thu được những kết quả đáng thất vọng hết năm này đến năm khác. Và thực tế là, mọi người có thể học hỏi từ những người mà họ yêu quý. Và nếu chúng ta không đề cập đến quan hệ cá nhân giữa giáo viên và học sinh, chúng ta đang không nhắc đến thực tế đó, nhưng thực tế lại được lược bỏ trong quá trình xây dựng chính sách.
And so that's led to a question for me: Why are the most socially-attuned people on earth completely dehumanized when they think about policy? And I came to the conclusion, this is a symptom of a larger problem. That, for centuries, we've inherited a view of human nature based on the notion that we're divided selves, that reason is separated from the emotions and that society progresses to the extent that reason can suppress the passions. And it's led to a view of human nature that we're rational individuals who respond in straightforward ways to incentives, and it's led to ways of seeing the world where people try to use the assumptions of physics to measure how human behavior is. And it's produced a great amputation, a shallow view of human nature.
Và điều đó dẫn tôi đến cho tôi 1 câu hỏi: Tại sao những con người hòa hợp với xã hội nhất trên Trái Đất này đều hoàn toàn trở nên vô nhân đạo khi họ nghĩ về chính sách? Và tôi đã đi đến kết luận, đây chính là triệu chứng của một vấn đề lớn hơn nhiều. Đó là, trong rất nhiều thế kỉ, chúng ta thừa hưởng toàn cảnh bản tính con người dựa vào những ý niệm chúng ta đã bị chia nhỏ bản chất của bản thân, và lí trí bị tách khỏi những xúc cảm và những tiến trình xã hội tới mức lí trí có thể ngăn cản những cảm xúc mạnh mẽ. Và điều đó dẫn tới cái nhìn của con người rằng chúng ta là những cá nhân có lí trí những người phản ứng thẳng thắn với những khích lệ. Và nó cũng dẫn đến những cách nhìn về thế giới quan nơi người ta cố gắng sử dụng những giả định vật lý để đánh giá hành vi con người. Điều này tạo ra một sự cắt giảm lớn, 1 cái nhìn nông cạn về bản chất con người.
We're really good at talking about material things, but we're really bad at talking about emotions. We're really good at talking about skills and safety and health; we're really bad at talking about character. Alasdair MacIntyre, the famous philosopher, said that, "We have the concepts of the ancient morality of virtue, honor, goodness, but we no longer have a system by which to connect them." And so this has led to a shallow path in politics, but also in a whole range of human endeavors.
Chúng ta rất giỏi khi đề cập đến những thứ hữu hình, nhưng lại thực sự yếu kém khi nói đến cảm xúc. Chúng ta giỏi nói về kĩ năng sự an toàn và sức khỏe, nhưng kém cỏi khi bàn về tính cách. Alasdair Maclntyre, một nhà triết học nổi tiếng, đã từng nói, "Chúng ta có những khái niệm về đạo đức cổ về đức hạnh, danh dự, lòng hào hiệp, nhưng chúng ta không còn có một hệ thống để liên kết chúng lại nữa." Và điều đó dẫn đến một đường lối chính trị nông cạn và trong tất cả những nỗ lực của loài người.
You can see it in the way we raise our young kids. You go to an elementary school at three in the afternoon and you watch the kids come out, and they're wearing these 80-pound backpacks. If the wind blows them over, they're like beetles stuck there on the ground. You see these cars that drive up -- usually it's Saabs and Audis and Volvos, because in certain neighborhoods it's socially acceptable to have a luxury car, so long as it comes from a country hostile to U.S. foreign policy -- that's fine. They get picked up by these creatures I've called uber-moms, who are highly successful career women who have taken time off to make sure all their kids get into Harvard. And you can usually tell the uber-moms because they actually weigh less than their own children. (Laughter) So at the moment of conception, they're doing little butt exercises. Babies flop out, they're flashing Mandarin flashcards at the things.
Bạn có thể nhìn thấy điều này trong cách chúng ta nuôi dạy con cái. Bạn đến trường tiểu học lúc 3 giờ chiều và nhìn những đứa trẻ đi ra, chúng phải đeo trên vai những chiếc ba lô nặng đến 80 pounds (khoảng 40 cân) Nếu có cơn gió thổi chúng đi xa, chúng sẽ chỉ như những con bọ bẹp dí trên mặt đất. Và bạn có thể nhìn thấy những chiếc xe này chạy đến gần -- thường thì đó là Saabs và Audis hay Volvos, bởi vì trong những khu vực cụ thể, có 1 chiếc xe đắt tiền là điều thường được chấp nhận, miễn là nó đến từ một đất nước thù địch với chế độ ngoại giao của Mỹ -- Ổn thôi. Chúng sẽ được chọn bởi những sinh vật mà tôi gọi là "những bà mẹ thượng hạng" những người phụ nữ thành công trong sự nghiệp những người vẫn dành thời gian đảm bảo rằng con cái họ sẽ đỗ vào trường đại học Harvard. Và bạn vẫn thường nói với "những bà mẹ thượng hạng" đó, vì họ thực ra được nhắc đến ít hơn cả con cái họ nữa. (Tiếng cười) Do vậy, tại thời điểm thụ thai, chúng đã làm những bài tập "húc đầu" nhỏ Những đứa trẻ chập chững biết đi, chúng khoe những chiếc thẻ học tiếngTrung Quốc với mọi vật.
Driving them home, and they want them to be enlightened, so they take them to Ben & Jerry's ice cream company with its own foreign policy. In one of my books, I joke that Ben & Jerry's should make a pacifist toothpaste -- doesn't kill germs, just asks them to leave. It would be a big seller. (Laughter) And they go to Whole Foods to get their baby formula, and Whole Foods is one of those progressive grocery stores where all the cashiers look like they're on loan from Amnesty International. (Laughter) They buy these seaweed-based snacks there called Veggie Booty with Kale, which is for kids who come home and say, "Mom, mom, I want a snack that'll help prevent colon-rectal cancer."
Khi đang đón chúng về nhà, họ muốn chúng phải được mở mang đầu óc, vì thế họ dẫn chúng đến công ty kem Ben & Jerry's với những chính sách ngoại giao của công ty. Trong 1 cuốn sách của mình, tôi từng nói đùa rằng Ben & Jerry' lẽ ra nên sản xuất kem đánh răng vì hòa bình -- không diệt vi khuẩn, chỉ làm chúng rời đi mà thôi. Và họ đã có thể trở thành hãng bán hàng vĩ đại. (Tiếng cười) Sau đó họ tới Whole Foods để mua sữa bột cho trẻ sơ sinh. Whole Food là một trong những cửa hàng tạp hóa khá phát triển nơi đây tất cả nhân viên thu ngân đều như đang nợ tiền Amnesty International vậy. (Tiếng cười) Họ mua những bữa ăn nhẹ với rong biển được gọi là Veggie Booty với súp lơ, loại dành cho trẻ con, những đứa trẻ sẽ về nhà và nói, "Mẹ ơi, mẹ à, con muốn có ăn món ăn nhẹ phòng bệnh ung thư trực tràng."
(Laughter)
(Tiếng cười)
And so the kids are raised in a certain way, jumping through achievement hoops of the things we can measure -- SAT prep, oboe, soccer practice. They get into competitive colleges, they get good jobs, and sometimes they make a success of themselves in a superficial manner, and they make a ton of money. And sometimes you can see them at vacation places like Jackson Hole or Aspen. And they've become elegant and slender -- they don't really have thighs; they just have one elegant calve on top of another. (Laughter) They have kids of their own, and they've achieved a genetic miracle by marrying beautiful people, so their grandmoms look like Gertrude Stein, their daughters looks like Halle Berry -- I don't know how they've done that. They get there and they realize it's fashionable now to have dogs a third as tall as your ceiling heights. So they've got these furry 160-pound dogs -- all look like velociraptors, all named after Jane Austen characters.
Và vậy là những đứa trẻ đó được nuôi dưỡng theo cách như vậy, bỏ qua những thành tựu mà chúng ta có thể làm ra được -- chuẩn bị cho kì thi SAT, kèn ô-boa, bài tập bóng đá. Chúng được chọn vào những trường đại học danh tiếng, có công việc tốt, và đôi khi chúng thành công bằng chính sức mình ở những lĩnh vực chung, và kiếm được cả một đống tiền. Đôi lúc bạn có thể nhìn thấy chúng ở những địa điểm nghỉ mát như Jackson Hole hay Aspen. Chúng đã trở nên thanh lịch và thon thả -- không có bắp đùi to lắm; chúng chỉ có 1 con bò cái thanh lịch nổi bật trên tất cả. (Tiếng cười) Và chúng có những đứa con của riêng mình, chúng được hưởng những gien tốt bằng cách kết hôn với những người đẹp, bà nội của chúng trông giống như Gertude Stein vậy, còn con gái chúng thì giống Halle Berry -- Tôi không biết làm sao chúng làm được điều đó nữa. Chúng có 3 đứa con và nhận ra rằng thật là đúng mốt bây giờ khi nuôi những chú chó cao bằng 1/3 trần nhà của bạn. Và thế là chúng mua những con chó xù xì nặng tới 160 pound -- nhìn giống như khủng long vậy, tất cả đều được đặt tên theo nhân vật trong truyện Jane Austen.
And then when they get old, they haven't really developed a philosophy of life, but they've decided, "I've been successful at everything; I'm just not going to die." And so they hire personal trainers; they're popping Cialis like breath mints. You see them on the mountains up there. They're cross-country skiing up the mountain with these grim expressions that make Dick Cheney look like Jerry Lewis. (Laughter) And as they whiz by you, it's like being passed by a little iron Raisinet going up the hill.
Và rồi khi già đi, chúng vẫn chưa thực sự phát triển được 1 triết lý sống, nhưng chúng rút ra rằng, "Mình đã thành công ở mọi thứ rồi mà, mình sẽ không chết đâu." Vậy nên họ thuê những huấn luyện viên riêng, chúng chộp lấy Cialis như thể anh ta là thanh kẹo bạc hà. Bạn có thể thấy chúng trên những ngọn núi trên đó. Chúng trượt tuyết xuyên quốc gia với những biểu hiện dữ tợn khiến Dick Cheney trông giống như Jerry Lewis vậy. (Tiếng cười) Và bởi chúng rít lên bên cạnh bạn, như thể bị cái bàn là nhỏ Raisinet trượt lên trên đang đi lên đồi vậy.
(Laughter)
(Tiếng cười)
And so this is part of what life is, but it's not all of what life is. And over the past few years, I think we've been given a deeper view of human nature and a deeper view of who we are. And it's not based on theology or philosophy, it's in the study of the mind, across all these spheres of research, from neuroscience to the cognitive scientists, behavioral economists, psychologists, sociology, we're developing a revolution in consciousness. And when you synthesize it all, it's giving us a new view of human nature. And far from being a coldly materialistic view of nature, it's a new humanism, it's a new enchantment. And I think when you synthesize this research, you start with three key insights.
Đó là 1 phần của cuộc sông, nhưng không phải là tất cả. Trong suốt những năm gần đây, tôi nghĩ rằng chúng ta đã có cái nhìn sâu sắc hơn về bản chất loài người và cả về việc chúng ta là ai. Nó không dựa vào thần học hay triết học, mà nằm trong việc nghiên cứu tâm trí, và vượt qua tất cả tầm ảnh hưởng của nghiên cứu này, từ nhà khoa học nghiên cứu về thần kinh học cho đến những nhà khoa học về nhận thức, những nhà kinh tế ứng xử, và cả nhà tâm lý học, xã hội học, chúng ta đang xây dựng một cuộc cách mạng trong nhận thức. Và khi bạn kết hợp chúng lại với nhau, nó sẽ dẫn cho chúng ta đến cái nhìn mới về bản chất con người. Khác xa với cái nhìn duy vật lạnh lùng về tự nhiên, đó là một chủ nghĩa nhân văn mới, một sự say mê mới. Và tôi nghĩ khi bạn tổng hợp nghiên cứu này, bạn sẽ bắt đầu với ba hiểu biết cốt lõi.
The first insight is that while the conscious mind writes the autobiography of our species, the unconscious mind does most of the work. And so one way to formulate that is the human mind can take in millions of pieces of information a minute, of which it can be consciously aware of about 40. And this leads to oddities. One of my favorite is that people named Dennis are disproportionately likely to become dentists, people named Lawrence become lawyers, because unconsciously we gravitate toward things that sound familiar, which is why I named my daughter President of the United States Brooks. (Laughter) Another finding is that the unconscious, far from being dumb and sexualized, is actually quite smart. So one of the most cognitively demanding things we do is buy furniture. It's really hard to imagine a sofa, how it's going to look in your house. And the way you should do that is study the furniture, let it marinate in your mind, distract yourself, and then a few days later, go with your gut, because unconsciously you've figured it out.
Đầu tiên là trong khi phần ý thức tỉnh táo viết tự truyện về loài của họ, ý thức tiềm thức khác thực hiện phần lớn công việc. Có 1 cách để giải thích rõ điều này, đó là ý thức con người có thể thu nhận hàng triệu mảnh thông tin trong một phút, mà chỉ có thể nhận thức một cách có chủ ý 40 thông tin. Điều đó dẫn tới những trường hợp kì dị. Một trong những nhân vật ưa thích của tôi là những người có tên Dennis những người dường như trở thành nha sĩ, những người tên Lawrence trở thành luật sư bởi vì 1 cách vô thức, chúng ta bị hút về những thứ nghe có vẻ quen thuộc, đó là lý do tại sao tôi đặt tên con gái mình là Tổng thống của Liên bang Brooks. (Tiếng cười) Một phát hiện khác đó là tiềm thức, khác xa với việc bị cho là ngớ ngẩn hay định giới tính, thực ra khá thông minh. Vì thế, một trong những điều đòi hỏi nhận thức nhiều nhất của chúng ta là mua đồ đạc. Thực sự rất khó tưởng tượng ra một cái ghế tràng kỉ, và trông nó ra sao trong ngôi nhà của bạn. Cách bạn nên làm là nghiên cứu về đồ đạc, để chúng được "ướp" trong tâm trí bạn, làm bạn rối bời, rồi vài ngày sau đó, đi với sự gan dạ của bạn, vô tình bạn tìm ra nó.
The second insight is that emotions are at the center of our thinking. People with strokes and lesions in the emotion-processing parts of the brain are not super smart, they're actually sometimes quite helpless. And the "giant" in the field is in the room tonight and is speaking tomorrow morning -- Antonio Damasio. And one of the things he's really shown us is that emotions are not separate from reason, but they are the foundation of reason because they tell us what to value. And so reading and educating your emotions is one of the central activities of wisdom.
Sự hiểu biết thứ hai đó là cảm xúc nằm ở trung tâm ý nghĩ của chúng ta. Người bị đột quỵ và thương tổn ở vùng xử lý cảm xúc của não không thông minh lắm, thực ra đôi khi họ khá cần sự trợ giúp. Có một người kiệt xuất trong lĩnh vực này đang ở đây trong buổi tối ngày hôm nay sẽ có cuộc trò chuyện vào sáng mai -- đó là Antonio Damasio. Một trong những điều ông thực sự chỉ ra cho chúng ta là cảm xúc không bị cách biệt với lý trí, nhưng chúng là nền tảng lý trí bởi chúng nói cho bạn biết phải định giá cái gì. Vậy nên đọc và điều khiển cảm xúc của mình là một trong những hoạt động chủ yếu của sự sáng suốt.
Now I'm a middle-aged guy. I'm not exactly comfortable with emotions. One of my favorite brain stories described these middle-aged guys. They put them into a brain scan machine -- this is apocryphal by the way, but I don't care -- and they had them watch a horror movie, and then they had them describe their feelings toward their wives. And the brain scans were identical in both activities. It was just sheer terror. So me talking about emotion is like Gandhi talking about gluttony, but it is the central organizing process of the way we think. It tells us what to imprint. The brain is the record of the feelings of a life.
Hiện tại tôi là 1 người đàn ông trung niên; tôi không hẳn đã thoải mái với những cảm xúc. Một trong những câu truyện về não bộ ưa thích miêu tả những người trung niên này. Họ đặt mình vào máy chụp não bộ -- có thể cách đó không chính xác, nhưng tôi không quan tâm -- họ được cho xem xem một bộ phim kinh dị, sau đó miêu tả những cảm giác với vợ của mình. Và sự nội soi não cho kết quả giống hệt trong cả hai hoạt động. Nó chỉ là nỗi khiếp sợ tuyệt đối thôi. Tôi đang nói về cảm xúc như là Gandhi nói về thói sự tham lam, nhưng quá trình tổ chức cốt lõi là cách mà chúng ta suy nghĩ. Nó chỉ ra cái gì cần ghi nhớ. Não bộ là bản ghi lại cảm xúc của một cuộc đời.
And the third insight is that we're not primarily self-contained individuals. We're social animals, not rational animals. We emerge out of relationships, and we are deeply interpenetrated, one with another. And so when we see another person, we reenact in our own minds what we see in their minds. When we watch a car chase in a movie, it's almost as if we are subtly having a car chase. When we watch pornography, it's a little like having sex, though probably not as good. And we see this when lovers walk down the street, when a crowd in Egypt or Tunisia gets caught up in an emotional contagion, the deep interpenetration. And this revolution in who we are gives us a different way of seeing, I think, politics, a different way, most importantly, of seeing human capital.
Và sự hiểu biết thứ ba đó là trước hết, chúng ta không phải là những cá nhân biết tự kiềm chế. Chúng ta là những động vật xã hội, không phải động vật có lý trí. Chúng ta nảy ra nhiều vấn đề bên cạnh các mối quan hệ, và chúng ta thâm nhập 1 cách sâu sắc, người này với người khác. Khi chúng ta nhìn thấy một người khác, chúng ta phản ứng lại trong tâm trí mình những gì chúng ta nhìn thấy trong tâm trí họ. Khi trông thấy một chiếc ô tô săn đuổi trong một bộ phim, phần lớn chúng ta cảm thấy như thể đang ở trên chính chiếc xe ấy.. Khi chúng ta xem sách khiêu dâm, chúng ta hơi có cảm giác như đang quan hệ tình dục, mặc dù có thể không hẳn là như vậy. Và khi chúng ta nhìn thấy những đôi tình nhân đi bộ dưới phố, khi đám đông ở Ai Cập hay Tunisia bị mắc phải bởi một căn bệnh truyền nhiễm, hay sự xâm nhập sâu sắc. Và cuộc cách mạng để tìm ra chúng ta là ai đưa đến cho chúng ta một cái nhìn khác, theo tôi nghĩ, đó là về chính trị, một cái nhìn khác quan trọng nhất, về nguồn gốc sự nhìn nhận của con người.
We are now children of the French Enlightenment. We believe that reason is the highest of the faculties. But I think this research shows that the British Enlightenment, or the Scottish Enlightenment, with David Hume, Adam Smith, actually had a better handle on who we are -- that reason is often weak, our sentiments are strong, and our sentiments are often trustworthy. And this work corrects that bias in our culture, that dehumanizing bias. It gives us a deeper sense of what it actually takes for us to thrive in this life. When we think about human capital we think about the things we can measure easily -- things like grades, SAT's, degrees, the number of years in schooling. What it really takes to do well, to lead a meaningful life, are things that are deeper, things we don't really even have words for. And so let me list just a couple of the things I think this research points us toward trying to understand.
Chúng ta giờ đây là con cháu của Sự Khai sáng Pháp. Chúng ta tin rằng lý trí là khả năng lớn nhất. Nhưng tôi thấy rằng nghiên cứu này chỉ ra rằng sự Khai sáng Anh, hay sự Khai sáng Xcốt-len, với David Hume, Adam Smith, thực ra luận giải nhiều hơn việc chúng ta là ai -- lí trí thường yếu, tình cảm của chúng ta thì mạnh mẽ, và tình cảm thường đáng tin cậy. Nghiên cứu này chỉnh sửa lại những thành kiến trong văn hóa của chúng ta, những thành kiến nhân tính hóa sâu sắc. Chúng mang lại cho chúng ta nhận thức sâu xa hơn điều mà thực sự thường phát triển trong cuộc sống. Và khi nghĩ đến nguồn gốc sự nhìn nhận của con người chúng ta nghĩ về những thứ có thể đo đạc được dễ dàng -- như là điểm số, điểm SAT, bằng cấp, hay số năm đi học. Điều mà nó thực sự nếu làm tốt sẽ dẫn đến 1 cuộc sống có ý nghĩa hơn, là những điều sâu sắc hơn, những điều mà thậm chí chúng ta không thể diễn đạt thành lời. Giờ hãy để tôi lấy ra hai thứ Theo tôi nghiên cứu này chỉ ra rằng chúng ta nên cố gắng tìm hiểu.
The first gift, or talent, is mindsight -- the ability to enter into other people's minds and learn what they have to offer. Babies come with this ability. Meltzoff, who's at the University of Washington, leaned over a baby who was 43 minutes old. He wagged his tongue at the baby. The baby wagged her tongue back. Babies are born to interpenetrate into Mom's mind and to download what they find -- their models of how to understand reality. In the United States, 55 percent of babies have a deep two-way conversation with Mom and they learn models to how to relate to other people. And those people who have models of how to relate have a huge head start in life. Scientists at the University of Minnesota did a study in which they could predict with 77 percent accuracy, at age 18 months, who was going to graduate from high school, based on who had good attachment with mom. Twenty percent of kids do not have those relationships. They are what we call avoidantly attached. They have trouble relating to other people. They go through life like sailboats tacking into the wind -- wanting to get close to people, but not really having the models of how to do that. And so this is one skill of how to hoover up knowledge, one from another.
Năng khiếu đầu tiên, hay tài năng, đó là khả năng của trí óc -- khả năng cho phép đi vào tâm trí của người khác và tìm hiểu điều gì họ phải đưa ra. Trẻ con có khả năng này khi sinh ra. Meltzoff, ở trường đại học Washington, nghiên cứu 1 đứa trẻ 43 phút tuổi. Ông ấy nói chuyện huyên thuyên với đứa trẻ. Và nó khua môi lại với ông ấy. Trẻ con sinh ra để thâm nhập vào tâm trí mẹ chúng và thu nhận những thứ chúng cần -- mô hình này được dùng để tìm hiểu thực tế. Ở Mỹ, 55% trẻ sơ sinh có cuộc trò chuyện hai chiều khép kín với mẹ của chúng chúng học cách làm sao để liên hệ với những người khác. Và những người có cách liên lạc này có bước khởi đầu to lớn trong đời. Những nhà khoa học ở đại học Minnesota đã thực hiện nghiên cứu giúp họ tiên đoán chính xác tới 77%, ở độ tuổi 18 tháng, những người chuẩn bị tốt nghiệp trung học, dựa vào những người có sự gắn bó tốt với mẹ. 20% trong số những đứa trẻ không có quan hệ đó. Họ gọi đó là cái mà họ gọi là quan hệ ngăn ngừa. Họ có vấn đề trong việc liên hệ với người khác. Họ sống cả đời như những con thuyền bị ghim vào với gió -- muốn tiến gần hơn với con người, nhưng thực sự không có cách nào để thực hiện điều đó. Và đó là một kĩ năng mà Hoover dùng để tăng kiến thức, từ người này đến người khác.
A second skill is equipoise, the ability to have the serenity to read the biases and failures in your own mind. So for example, we are overconfidence machines. Ninety-five percent of our professors report that they are above-average teachers. Ninety-six percent of college students say they have above-average social skills. Time magazine asked Americans, "Are you in the top one percent of earners?" Nineteen percent of Americans are in the top one percent of earners. (Laughter) This is a gender-linked trait, by the way. Men drown at twice the rate of women, because men think they can swim across that lake. But some people have the ability and awareness of their own biases, their own overconfidence. They have epistemological modesty. They are open-minded in the face of ambiguity. They are able to adjust strength of the conclusions to the strength of their evidence. They are curious. And these traits are often unrelated and uncorrelated with IQ.
Kĩ năng thứ hai là sự thăng bằng. Khả năng có được sự thanh thản khi đọc những định kiến và sai lầm trong tâm trí của chính bạn. Ví dụ thế này, chúng ta là những cỗ máy thừa tự tin. 95% chúng ta là những giáo sư đã nói rằng họ giỏi hơn giáo viên nói chung. và 96% sinh viên đại học nói rằng họ có nhiều hơn những kĩ năng xã hội căn bản. Tạp chí Time đã hỏi những người Mỹ, "Có phải bạn nằm trong 1% những người kiếm tiền giỏi nhất không?" 19 phần trăm người Mỹ nói họ nằm ở 1% đó. (Tiếng cười) Nhân tiện, đó còn chính là đặc điểm tiêu biểu liên quan với giới tính. Đàn ông chết đuối nhiều gấp 2 lần phụ nữ, vì đàn ông nghĩ rằng họ có thể bơi qua hồ. Một vài người có khả năng và sự nhận biết về thành kiến và sự thừa tự tin của mình. Họ có tính khiêm tốn nhận thức luận. Họ sẵn sàng tiếp thu khi đối diện với sự mơ hồ. Họ có khả năng điều chỉnh sức mạnh của sự kết luận với sức mạnh của bằng chứng. Họ thực sự hiếu kì. Và những đặc điểm này thường không liên quan và không tương quan với IQ.
The third trait is metis, what we might call street smarts -- it's a Greek word. It's a sensitivity to the physical environment, the ability to pick out patterns in an environment -- derive a gist. One of my colleagues at the Times did a great story about soldiers in Iraq who could look down a street and detect somehow whether there was an IED, a landmine, in the street. They couldn't tell you how they did it, but they could feel cold, they felt a coldness, and they were more often right than wrong. The third is what you might call sympathy, the ability to work within groups. And that comes in tremendously handy, because groups are smarter than individuals. And face-to-face groups are much smarter than groups that communicate electronically, because 90 percent of our communication is non-verbal. And the effectiveness of a group is not determined by the IQ of the group; it's determined by how well they communicate, how often they take turns in conversation.
Đặc điểm thứ ba là Me-de, cái mà chúng ta có thể gọi là sự thông minh đường phố -- đây là 1 từ Hi Lạp. Đó là sự nhạy cảm với môi trường vật chất, khả năng chọn ra những khuôn mẫu trong môi trường -- Một ví dụ. Một trong số các đồng nghiệp của tôi ở tờ Times đã thực hiện bài báo về lính Mỹ ở Iraq những người có thể nhìn xuống con phố và khám phá ra bằng cách nào đó có IED hay quả mìn trên đường phố hay không. Họ không thể nói với bạn họ làm thế bằng cách nào, nhưng họ có thể cảm thấy lạnh, cảm thấy cái lạnh, và họ thường đúng hơn là sai. Thứ ba là cái bạn có thể gọi là sự đông cảm, khả năng làm việc nhóm. Và nó thường có ích rất nhiều, vì những nhóm thì thông minh hơn những cá nhân khác-- và các nhóm hoạt động mặt đối mặt thì còn thông minh hơn nhiều sơ với các nhóm giao tiếp bằng phương pháp điện tử, bởi vì 90 phần trăm việc giao tiếp của chúng ta là không bằng lời nói. Và sự hiệu quả của một nhóm không được xác định bởi IQ của nhóm đó, mà được đánh giá bằng việc họ giỏi giao tiếp thế nào, việc họ đổi lượt bao nhiêu lần trong cuộc nói chuyện.
Then you could talk about a trait like blending. Any child can say, "I'm a tiger," pretend to be a tiger. It seems so elementary. But in fact, it's phenomenally complicated to take a concept "I" and a concept "tiger" and blend them together. But this is the source of innovation. What Picasso did, for example, was take the concept "Western art" and the concept "African masks" and blend them together -- not only the geometry, but the moral systems entailed in them. And these are skills, again, we can't count and measure.
Bạn không thể nói về đặc điểm này như là sự pha trộn. Bất kì đứa trẻ nào đều có thể nói, "Con là hổ đây," và giả vờ là hổ. Có vẻ nó thật đơn giản. Nhưng trên thực tế, nó lại phức tạp một cách kì lạ để tiếp nhận khái niệm "Tôi" và khái niệm "hổ" rồi sau đó pha trộn chúng với nhau. Nhưng đó chỉ là nguồn của sự đổi mới. Ví dụ như những gì mà Picasso đã làm là tiếp nhận khái niêm của nghệ thuật phương Tây và khái niệm mặt nạ châu Phi sau đó trộn lẫn chúng với nhau -- không chỉ về mặt hình học, mà cả hệ thống tinh thần thừa kế từ chúng. Và một lần nữa, đó là chúng ta không thể đếm hay đo những kĩ năng này được.
And then the final thing I'll mention is something you might call limerence. And this is not an ability; it's a drive and a motivation. The conscious mind hungers for success and prestige. The unconscious mind hungers for those moments of transcendence, when the skull line disappears and we are lost in a challenge or a task -- when a craftsman feels lost in his craft, when a naturalist feels at one with nature, when a believer feels at one with God's love. That is what the unconscious mind hungers for. And many of us feel it in love when lovers feel fused.
Điều cuối cúng mà tôi sẽ đề cập là cái mà bạn có thể gọi là sự nhận biết vô thức. Và đó không phải là một khả năng, đó là xu thế và sự thúc đẩy. Trí óc tỉnh táo ham muốn thành công và uy tín. Trí óc vô thức thì khao khát những khoảnh khác của sự siêu việt khi mà đường đi của trí óc biến mất chúng ta sẽ lạc lối trong sự thách thức hay một nhiệm vụ -- khi mà một người thợ lành nghề cảm thấy lạc lối trong chính nghề của mình, khi mà một nhà tự nhiên học cảm thấy hòa làm một với thiên nhiên, khi mà một tín đồ hòa mình với tình yêu của Chúa. Đó là cái mà những tâm trí vô thức khao khát tới. Và rất nhiền người trong chúng cảm thấy nó trong tình yêu khi mà tình nhân của mình cảm thấy bị "tan chảy".
And one of the most beautiful descriptions I've come across in this research of how minds interpenetrate was written by a great theorist and scientist named Douglas Hofstadter at the University of Indiana. He was married to a woman named Carol, and they had a wonderful relationship. When their kids were five and two, Carol had a stroke and a brain tumor and died suddenly. And Hofstadter wrote a book called "I Am a Strange Loop." In the course of that book, he describes a moment -- just months after Carol has died -- he comes across her picture on the mantel, or on a bureau in his bedroom.
Và một trong những miêu tả đẹp nhất mà tôi tình cờ thấy được trong nghiên cứu này là cách mà những trí óc thâm nhập được viết nên bởi một nhà lý luận và khoa học xuất sắc tên là Douglas Hogstadter ở trường đại học Indiana. Anh ấy kết hôn với 1 người phụ nữ tên là Carol, và họ đã có 1 quan hệ tuyệt vời. Khi con họ 5 tuổi và 2 tuổi, Carol bị đột quỵ và có một khối máu tụ trong não, sau đó mất đột ngột. Hofstadter đã viết một cuốn sách có tựa đề "Tôi là 1 cái móc kì lạ" (I am a Strange Loop) Trong suốt cuốn sách đó, anh đã miêu tả quãng thời gian -- vài tháng sau khi Carol qua đời -- anh tình cờ thấy ảnh của vợ trên mặt lò sưởi, hay trên bàn làm việc trong phòng ngủ.
And here's what he wrote: "I looked at her face, and I looked so deeply that I felt I was behind her eyes. And all at once I found myself saying as tears flowed, 'That's me. That's me.' And those simple words brought back many thoughts that I had had before, about the fusion of our souls into one higher-level entity, about the fact that at the core of both our souls lay our identical hopes and dreams for our children, about the notion that those hopes were not separate or distinct hopes, but were just one hope, one clear thing that defined us both, that welded us into a unit -- the kind of unit I had but dimly imagined before being married and having children. I realized that, though Carol had died, that core piece of her had not died at all, but had lived on very determinedly in my brain."
Và đây là những gì anh viết: "Tôi nhìn vào khuôn mặt cô ấy, và tôi đã nhìn thật sâu rồi tôi cảm thấy rằng mình đã ở phía sau đôi mắt cô ấy. Ngay lập tức tôi thấy mình đang nói những giọt nước mắt như trào ra. 'Đó là tôi. Đó là chính tôi.' Và những từ ngữ tưởng như đơn giản đó mang lại rất nhiều suy nghĩ tôi đã từng có trước đây, về sự "nung chảy" trong tâm hồn với một thực thể tồn tại ở mức cao hơn, về thực tế rằng ở tại trung tâm của cả hai tâm hồn thể hiện những hi vọng và ước mơ đồng nhất cho con cái họ, về ý niệm rằng những hi vọng đó không bị phân cách và khác biệt, nhưng chúng chỉ là hi vọng, một điều rõ ràng mà xác định cả hai chúng tôi đã hợp nhất lại thành một -- đó là thực thể mà tôi chỉ mới lờ mờ tưởng tượng trước khi chúng tôi lấy nhau và có con. Tôi nhận ra rằng, mặc dù Carol đã mất, điều cốt lõi đó ở cô ấy vẫn không hề chết, mà tồn tại rất rõ ràng trong tâm trí tôi."
The Greeks say we suffer our way to wisdom. Through his suffering, Hofstadter understood how deeply interpenetrated we are. Through the policy failures of the last 30 years, we have come to acknowledge, I think, how shallow our view of human nature has been. And now as we confront that shallowness and the failures that derive from our inability to get the depths of who we are, comes this revolution in consciousness -- these people in so many fields exploring the depth of our nature and coming away with this enchanted, this new humanism. And when Freud discovered his sense of the unconscious, it had a vast effect on the climate of the times. Now we are discovering a more accurate vision of the unconscious, of who we are deep inside, and it's going to have a wonderful and profound and humanizing effect on our culture.
Những người Hi Lạp nói rằng chúng ta phải trải qua con đường để đi đến sự thông thái. Thông qua sự chịu đựng, Hogstadter hiểu ra họ thực sự thâm nhập sâu sắc thế nào. Thông qua những chính sách không thành công trong suốt 30 năm qua, theo tôi, chúng ta có thể thừa nhận, cái nhìn về bản chất con người của chúng ta nông cạn như thế nào. Và giờ đây vì chúng ta đương đầu với sự nông cạn và những sai lầm xuất phát từ sự bất lực để nhận thấy chiều sâu về việc chúng ta là ai, đưa đến cuộc cách mạng trong ý thức -- nhiều người trong rất nhiều lĩnh vực khám phá ra chiều sâu của bản chất chúng ta và bắt đầu với điều kì diệu này, chủ nghĩa nhân đạo mới này. Khi Freud khám phá ra ý thức của ông về sự vô thức, nó đã có ảnh hưởng rộng lớn tới xu hướng của thời đại. Giờ đây chúng ta đang khám phá cái nhìn xác thực hơn về sự vô thức -- về cái sâu thẳm trong mỗi chúng ta. Nó đang dần trở thành ảnh hưởng tuyệt vời, sâu sắc và mang tính con người hơn lên văn hóa của chúng ta.
Thank you.
Xin cảm ơn tất cả các bạn.
(Applause)
(Vỗ tay)