A few years ago, I broke into my own house. I had just driven home, it was around midnight in the dead of Montreal winter, I had been visiting my friend, Jeff, across town, and the thermometer on the front porch read minus 40 degrees -- and don't bother asking if that's Celsius or Fahrenheit, minus 40 is where the two scales meet -- it was very cold. And as I stood on the front porch fumbling in my pockets, I found I didn't have my keys. In fact, I could see them through the window, lying on the dining room table where I had left them. So I quickly ran around and tried all the other doors and windows, and they were locked tight. I thought about calling a locksmith -- at least I had my cellphone, but at midnight, it could take a while for a locksmith to show up, and it was cold. I couldn't go back to my friend Jeff's house for the night because I had an early flight to Europe the next morning, and I needed to get my passport and my suitcase.
Vài năm trước, tôi đột nhập vào nhà của chính mình. Tôi vừa lái xe về đến nhà, lúc đó gần nửa đêm với cái lạnh của mùa đông Montreal, Tôi mới đi thăm Jeff, bạn tôi, cách đây không xa, và nhiệt kế ở trước hiên chỉ âm 40 độ -- và đừng hỏi đó là độ C hay độ F, âm 40 là nơi 2 vạch bằng nhau -- thực sự rất lạnh. Và khi tôi đứng trước hiên nhà lần mò trong túi quần, tôi nhận ra mình không mang theo chìa khóa. Thật ra, tôi có thể thấy chúng qua cửa sổ, trên bàn phòng bếp, nơi tôi bỏ quên nó. Nên tôi vội chạy vòng quanh và thử mở tất cả cửa ra vào và cửa sổ, nhưng chúng đều bị khóa chặt. Tôi nghĩ đến việc gọi thợ sửa khóa -- ít nhất tôi còn điện thoại, nhưng lúc nửa đêm, cũng cần một lúc thợ khóa mới đến được, và trời thì rất lạnh. Tôi không thể quay trở lại nhà của Jeff đêm đó bởi tôi còn có chuyến bay sớm đến châu Âu sáng hôm sau, và tôi cần lấy hộ chiếu và vali của mình.
So, desperate and freezing cold, I found a large rock and I broke through the basement window, cleared out the shards of glass, I crawled through, I found a piece of cardboard and taped it up over the opening, figuring that in the morning, on the way to the airport, I could call my contractor and ask him to fix it. This was going to be expensive, but probably no more expensive than a middle-of-the-night locksmith, so I figured, under the circumstances, I was coming out even.
Vì vậy, trong sự tuyệt vọng và lạnh cóng, tôi tìm thấy 1 hòn đá to và đập vỡ cửa sổ tầng hầm, dọn sạch các mảnh vỡ kính, tôi bò vào trong, tôi tìm thấy một mảnh bìa các tông và dán nó lên lỗ hổng, nghĩ rằng sáng hôm sau, trên đường ra sân bay, tôi có thể gọi cho nhà thầu và nhờ họ sửa nó. Sửa sẽ rất đắt, nhưng chắc không đắt hơn việc gọi thợ sửa khóa giữa đêm, vì vậy tôi nghĩ, trong hoàn cảnh đó, tôi không lợi, cũng chẳng thiệt.
Now, I'm a neuroscientist by training and I know a little bit about how the brain performs under stress. It releases cortisol that raises your heart rate, it modulates adrenaline levels and it clouds your thinking. So the next morning, when I woke up on too little sleep, worrying about the hole in the window, and a mental note that I had to call my contractor, and the freezing temperatures, and the meetings I had upcoming in Europe, and, you know, with all the cortisol in my brain, my thinking was cloudy, but I didn't know it was cloudy because my thinking was cloudy.
Tôi là một nhà thần kinh học và tôi biết một chút về cách não bộ hoạt động dưới áp lực. Nó tiết ra hooc môn cortisol làm tăng nhịp tim của bạn, điều chỉnh nồng độ adrenaline và làm suy nghĩ trở nên mơ hồ. Vì vậy sáng hôm sau, khi tôi thức dậy sau khi ngủ không đủ, lo lắng về lỗ hổng trên cửa sổ, nhớ rằng mình phải gọi nhà thầu, nhiệt độ lạnh cóng ngoài trời, và những cuộc gặp sắp tới ở châu Âu, và với tất cả cortisol ở trong não, suy nghĩ của tôi rất mờ mịt, nhưng tôi không biết suy nghĩ của tôi mơ hồ vì đầu óc tôi cũng mơ hồ.
(Laughter)
(tiếng cười)
And it wasn't until I got to the airport check-in counter, that I realized I didn't have my passport.
Và cho đến khi tôi đến sân bay làm thủ tục đăng kí, tôi mới nhận ra mình không mang theo hộ chiếu
(Laughter)
(tiếng cười)
So I raced home in the snow and ice, 40 minutes, got my passport, raced back to the airport, I made it just in time, but they had given away my seat to someone else, so I got stuck in the back of the plane, next to the bathrooms, in a seat that wouldn't recline, on an eight-hour flight. Well, I had a lot of time to think during those eight hours and no sleep.
Vì thế tôi lao về nhà giữa trời băng và tuyết trong vòng 40 phút, lấy hộ chiếu và lại lao đến sân bay, tôi đến vừa kịp lúc, nhưng họ đã bán lại chỗ của tôi cho người khác, vì thế tôi bị kẹt với chỗ cuối máy bay, cạnh phòng vệ sinh, trên cái ghế không thể ngửa ra sau trong tám tiếng bay. Tôi đã có nhiều thời gian để suy nghĩ trong tám tiếng không ngủ đó.
(Laughter)
(tiếng cười)
And I started wondering, are there things that I can do, systems that I can put into place, that will prevent bad things from happening? Or at least if bad things happen, will minimize the likelihood of it being a total catastrophe. So I started thinking about that, but my thoughts didn't crystallize until about a month later. I was having dinner with my colleague, Danny Kahneman, the Nobel Prize winner, and I somewhat embarrassedly told him about having broken my window, and, you know, forgotten my passport, and Danny shared with me that he'd been practicing something called prospective hindsight.
Tôi bắt đầu tự hỏi, liệu có việc gì tôi có thể làm, có chế độ nào tôi có thể áp dụng, để ngăn chặn rủi ro ngay từ đầu? Hoặc ít nhất nếu rủi ro xảy ra, tôi sẽ giảm thiểu khả năng nó biến thành thảm họa. Vì vậy tôi bắt đầu nghĩ về nó, nhưng ý nghĩ của tôi không mạch lạc cho đến một tháng sau. Tôi hẹn ăn tối với đồng nghiệp, Danny Kahneman, người đoạt giải Nobel, và tôi ngượng ngùng kể cho anh ấy nghe về chuyện tôi đập vỡ cửa sổ, và, bạn biết đấy, chuyện quên hộ chiếu, và Danny nói với tôi rằng anh ấy đang luyện tập cái gọi là nhận thức quá khứ về tương lai.
(Laughter)
(tiếng cười)
It's something that he had gotten from the psychologist Gary Klein, who had written about it a few years before, also called the pre-mortem. Now, you all know what the postmortem is. Whenever there's a disaster, a team of experts come in and they try to figure out what went wrong, right? Well, in the pre-mortem, Danny explained, you look ahead and you try to figure out all the things that could go wrong, and then you try to figure out what you can do to prevent those things from happening, or to minimize the damage.
Đó là cái anh ấy học được từ nhà tâm lý học Gary Klein, người đã viết sách về nó vài năm trước, hay còn gọi là kĩ thuật "trước khi kết thúc". Các bạn đều biết kĩ thuật "sau kết thúc". Khi thảm họa xảy ra, một đội ngũ chuyên gia sẽ vào cuộc và cố gắng tìm ra vấn đề, đúng không? Với kỹ thuật "trước kết thúc", Danny giải thích, bạn nhìn về tương lai và cố gắng nhận diện tất cả những gì có thể xảy ra vấn đề, sau đó bạn cố nghĩ xem mình có thể làm gì để ngăn chặn những điều đó xảy ra, hoặc giảm thiểu thiệt hại.
So what I want to talk to you about today are some of the things we can do in the form of a pre-mortem. Some of them are obvious, some of them are not so obvious. I'll start with the obvious ones.
Vì vậy, tôi muốn nói với các bạn hôm nay về một vài thứ chúng ta có thể làm dưới dạng kỹ thuật "trước kết thúc". Một số thì rõ ràng, nhưng cũng có một số không rõ ràng lắm. Tôi sẽ bắt đầu với cái rõ ràng trước.
Around the home, designate a place for things that are easily lost. Now, this sounds like common sense, and it is, but there's a lot of science to back this up, based on the way our spatial memory works. There's a structure in the brain called the hippocampus, that evolved over tens of thousands of years, to keep track of the locations of important things -- where the well is, where fish can be found, that stand of fruit trees, where the friendly and enemy tribes live. The hippocampus is the part of the brain that in London taxicab drivers becomes enlarged. It's the part of the brain that allows squirrels to find their nuts. And if you're wondering, somebody actually did the experiment where they cut off the olfactory sense of the squirrels, and they could still find their nuts. They weren't using smell, they were using the hippocampus, this exquisitely evolved mechanism in the brain for finding things. But it's really good for things that don't move around much, not so good for things that move around. So this is why we lose car keys and reading glasses and passports. So in the home, designate a spot for your keys -- a hook by the door, maybe a decorative bowl. For your passport, a particular drawer. For your reading glasses, a particular table. If you designate a spot and you're scrupulous about it, your things will always be there when you look for them.
Xung quanh nhà, chọn một nơi cho những thứ dễ làm mất. Nghe cái này có vẻ là lẽ thường tình, và đúng là như vậy, nhưng có rất nhiều nghiên cứu chứng minh điều này, dựa vào cách ký ức về không gian của chúng ta hoạt động. Có một cấu trúc trong bộ não gọi là hồi hải mã, nó đã tiến hóa qua hàng chục ngàn năm, để theo dõi vị trí của những thứ quan trọng-- nơi có giếng nước, nơi có cá, nơi có cây ăn quả, nơi của các bộ tộc đồng minh và bộ tộc kẻ thù. Hồi hải mã là phần của bộ não mà đặc biệt phát triển ở các tài xế taxi của London. Nó là phần của não cho phép con sóc tìm ra hạt dẻ. Và nếu bạn vẫn thắc mắc, thật sự có người đã làm thí nghiệm mà họ cắt bỏ khứu giác của sóc, và chúng vẫn có thể tìm thấy hạt dẻ. Chúng không sử dụng khứu giác, chúng sử dụng hồi hải mã, cơ chế tiến hóa tinh xảo trong bộ não giúp tìm đồ vật. Nhưng chúng chỉ thật sự có ích cho những thứ không chuyển động nhiều, không phải cho những thứ liên tục chuyển động. Đó là lý do vì sao chúng ta làm mất chìa khóa xe, kính đọc sách và hộ chiếu. Vì vậy ở nhà, chọn một nơi cho chìa khóa của bạn -- một cái móc treo cạnh cửa, có thể là một cái bát trang trí. Để hộ chiếu vào một ngăn kéo riêng. Với kính đọc sách, một cái bàn riêng. Nếu bạn luôn cẩn thận để đồ vật vào chỗ đã chọn, đồ vật sẽ luôn ở đó khi bạn tìm chúng.
What about travel? Take a cell phone picture of your credit cards, your driver's license, your passport, mail it to yourself so it's in the cloud. If these things are lost or stolen, you can facilitate replacement.
Thế còn khi đi du lịch? Dùng điện thoại chụp thẻ tín dụng của bạn, bằng lái xe, hộ chiếu gửi thư cho chính bạn để chúng luôn trên mạng. Nếu những thứ đó bị mất hoặc trộm, bạn có thể dễ dàng thay thế chúng.
Now these are some rather obvious things. Remember, when you're under stress, the brain releases cortisol. Cortisol is toxic, and it causes cloudy thinking. So part of the practice of the pre-mortem is to recognize that under stress you're not going to be at your best, and you should put systems in place.
Đó là những thứ khá rõ ràng. Hãy nhớ, khi bạn gặp áp lực, não sẽ tiết ra cortisol. Cortisol là chất độc, nó làm suy nghĩ của bạn không rõ ràng. Vì vậy, 1 phần của việc tập kỹ thuật "trước kết thúc" là nhận ra rằng dưới áp lực, bạn sẽ không ở trạng thái tốt nhất, và bạn nên áp dụng các chế độ.
And there's perhaps no more stressful a situation than when you're confronted with a medical decision to make. And at some point, all of us are going to be in that position, where we have to make a very important decision about the future of our medical care or that of a loved one, to help them with a decision.
Và có lẽ không có tình huống nào căng thẳng hơn khi bạn phải đối mặt với một quyết định liên quan đến y tế. Và ở thời điểm nào đó, tất cả chúng ta sẽ ở trong tình huống đó, khi phải đưa ra một quyết định rất quan trọng về tương lai việc chăm sóc sức khỏe cho chúng ta hoặc cho người thân, khi giúp họ đưa ra quyết định.
And so I want to talk about that. And I'm going to talk about a very particular medical condition. But this stands as a proxy for all kinds of medical decision-making, and indeed for financial decision-making, and social decision-making -- any kind of decision you have to make that would benefit from a rational assessment of the facts.
Và vì vậy tôi muốn nói về điều đó. Và tôi sẽ nói về một tình trạng sức khỏe rất cụ thể. Nhưng nó sẽ là chuẩn mực cho tất cả các loại quyết định y tế, và cho cả quyết định về tài chính và xã hội -- bất cứ quyết định nào có thể hưởng lợi từ việc đánh giá sự việc một cách hợp lý.
So suppose you go to your doctor and the doctor says, "I just got your lab work back, your cholesterol's a little high." Now, you all know that high cholesterol is associated with an increased risk of cardiovascular disease, heart attack, stroke. And so you're thinking having high cholesterol isn't the best thing, and so the doctor says, "You know, I'd like to give you a drug that will help you lower your cholesterol, a statin." And you've probably heard of statins, you know that they're among the most widely prescribed drugs in the world today, you probably even know people who take them. And so you're thinking, "Yeah! Give me the statin."
Giả sử bạn đến gặp bác sĩ của mình và bác sĩ nói, "Tôi vừa có kết quả xét nghiệm, nồng độ cholesterol của bạn hơi cao." Bây giờ, các bạn đều biết rằng cholesterol cao tăng nguy cơ các bệnh tim mạch, đau tim, đột quỵ. Và vì thế bạn nghĩ tăng cholesterol hẳn không phải là điều tốt, và bác sĩ bảo: "Tôi sẽ kê thuốc cho bạn: 1 viên statin sẽ giúp giảm nồng độ cholesterol." Và bạn có thể đã nghe về statin, chúng là một trong những loại được kê đơn rộng rãi nhất trên thế giới hiện nay, bạn có thể còn biết những người sử dụng nó. Và vì thế bạn nghĩ: "Vâng! Cho tôi statin."
But there's a question you should ask at this point, a statistic you should ask for that most doctors don't like talking about, and pharmaceutical companies like talking about even less. It's for the number needed to treat. Now, what is this, the NNT? It's the number of people that need to take a drug or undergo a surgery or any medical procedure before one person is helped. And you're thinking, what kind of crazy statistic is that? The number should be one. My doctor wouldn't prescribe something to me if it's not going to help. But actually, medical practice doesn't work that way. And it's not the doctor's fault, if it's anybody's fault, it's the fault of scientists like me. We haven't figured out the underlying mechanisms well enough. But GlaxoSmithKline estimates that 90 percent of the drugs work in only 30 to 50 percent of the people. So the number needed to treat for the most widely prescribed statin, what do you suppose it is? How many people have to take it before one person is helped? 300. This is according to research by research practitioners Jerome Groopman and Pamela Hartzband, independently confirmed by Bloomberg.com. I ran through the numbers myself. 300 people have to take the drug for a year before one heart attack, stroke or other adverse event is prevented.
Nhưng có 1 câu hỏi bạn nên hỏi vào thời điểm này, một con số bạn nên hỏi, cái mà hầu hết các bác sĩ không thích nhắc đến, và các công ty dược phẩm càng không thích hơn. Đó là số người cần điều trị (NNT). Bây giờ, NNT là gì? Đó là tổng số người sử dụng thuốc hoặc trải qua phẫu thuật hoặc bất kì liệu pháp y tế nào trên một người chữa khỏi bệnh. Và bạn đang nghĩ, kiểu thống kê gì kì cục gì thế? Con số đó nên là một. Bác sĩ của tôi sẽ không kê đơn gì cho tôi nếu thuốc đó không có ích. Nhưng thực ra, nghề y không hoạt động theo kiểu đó. Và đó không phải lỗi bác sĩ, nếu đổ lỗi cho bất cứ ai, đó là lỗi của nhà khoa học như tôi. Chúng tôi hiểu chưa đủ về những cơ chế cơ bản. Nhưng GlaxoSmithKline ước tính rằng 90% số thuốc chỉ phát huy tác dụng với 30% đến 50% số bệnh nhân. Vì vậy số lượng bệnh nhân cần dùng thuốc statin, bạn nghĩ nó là bao nhiêu? Bao nhiêu người cần dùng nó trước khi nó chữa được 1 người? 300. Đây là theo nghiên cứu bởi các nhà nghiên cứu y khoa Jerome Groopman và Pamela Hartzband, được xác nhận độc lập bởi Bloomberg.com. Tôi đã kiểm tra các con số. 300 người cần dùng thuốc trong 1 năm trước khi 1 người bị đau tim, đột quỵ hay trường hợp có hại khác được ngăn ngừa.
Now you're probably thinking, "Well, OK, one in 300 chance of lowering my cholesterol. Why not, doc? Give me the prescription anyway." But you should ask at this point for another statistic, and that is, "Tell me about the side effects." Right? So for this particular drug, the side effects occur in five percent of the patients. And they include terrible things -- debilitating muscle and joint pain, gastrointestinal distress -- but now you're thinking, "Five percent, not very likely it's going to happen to me, I'll still take the drug." But wait a minute. Remember under stress you're not thinking clearly. So think about how you're going to work through this ahead of time, so you don't have to manufacture the chain of reasoning on the spot. 300 people take the drug, right? One person's helped, five percent of those 300 have side effects, that's 15 people. You're 15 times more likely to be harmed by the drug than you are to be helped by the drug.
Các bạn có thể đang nghĩ: "Một trong 300 cơ hội để giảm lượng cholesterol. Tại sao không, bác sĩ? Cứ kê đơn cho tôi." Nhưng bạn nên yêu cầu 1 thống kê khác vào thời điểm này: "Nói cho tôi biết về tác dụng phụ." Đúng chứ? Vì vậy, với loại thuốc này, tác dụng phụ xảy ra với 5% số bệnh nhân Và nó gồm những thứ khủng khiếp như suy nhược cơ bắp và đau khớp, đau dạ dày... Nhưng giờ bạn lại nghĩ: "5%, nó không có nhiều khả năng xảy ra với tôi, tôi vẫn sẽ dùng thuốc." Nhưng đợi 1 lát. Hãy nhớ, khi chịu áp lực bạn suy nghĩ không thông suốt. Vì vậy, hãy nghĩ trước về việc bạn sẽ làm thế nào để bạn không phải suy nghĩ về một loạt vấn đề ngay lúc đó. 300 người dùng thuốc, đúng không? 1 người được cứu, 5% trong số 300 người đó chịu tác dụng phụ, tức là 15 người. Bạn có khả năng bị hại bởi thuốc gấp 15 lần hơn là thuốc giúp ích cho bạn.
Now, I'm not saying whether you should take the statin or not. I'm just saying you should have this conversation with your doctor. Medical ethics requires it, it's part of the principle of informed consent. You have the right to have access to this kind of information to begin the conversation about whether you want to take the risks or not.
Bây giờ, tôi không nói rằng bạn có nên dùng statin hay không. Tôi chỉ nói rằng bạn nên có cuộc nói chuyện này với bác sĩ. Y đức đòi hỏi điều đó, nó là 1 phần của nguyên tắc "đồng ý khi hiểu rõ". Bạn có quyền được tiếp cận những thông tin này để bắt đầu cuộc nói chuyện liệu bạn muốn chấp nhận rủi ro hay không.
Now you might be thinking I've pulled this number out of the air for shock value, but in fact it's rather typical, this number needed to treat. For the most widely performed surgery on men over the age of 50, removal of the prostate for cancer, the number needed to treat is 49. That's right, 49 surgeries are done for every one person who's helped. And the side effects in that case occur in 50 percent of the patients. They include impotence, erectile dysfunction, urinary incontinence, rectal tearing, fecal incontinence. And if you're lucky, and you're one of the 50 percent who has these, they'll only last for a year or two.
Bây giờ bạn có thể nghĩ: Tôi đẩy con số này lên cao để gây sốc, nhưng thực tế nó khá thường, số bệnh nhân cần sử dụng thuốc này. Với các ca phẫu thuật được thực hiện nhiều nhất cho đàn ông trên 50 tuổi, loại bỏ tuyến tiền liệt bị ung thư, số người cần được điều trị là 49. Đúng vậy, phải thực hiện 49 ca phẫu thuật để một người được chữa. Và tác dụng phụ trong trường hợp này xảy ra với 50% số bệnh nhân. Nó bao gồm liệt dương, rối loạn cương dương, đại tiện và tiểu tiện không kiểm soát, rách trực tràng. Và nếu bạn may mắn, và bạn là 1 trong số 50% người mắc phải chứng này. nó sẽ chỉ kéo dài trong một hoặc hai năm.
So the idea of the pre-mortem is to think ahead of time to the questions that you might be able to ask that will push the conversation forward. You don't want to have to manufacture all of this on the spot. And you also want to think about things like quality of life. Because you have a choice oftentimes, do you I want a shorter life that's pain-free, or a longer life that might have a great deal of pain towards the end? These are things to talk about and think about now, with your family and your loved ones. You might change your mind in the heat of the moment, but at least you're practiced with this kind of thinking.
Vì vậy cốt lõi của kỹ thuật "trước khi kết thúc" là nghĩ trước về các câu hỏi bạn có thể hỏi để thúc đẩy cuộc nói chuyện với bác sĩ. Bạn không muốn phải nghĩ đến tất cả những thứ này ngay ở đó. Và bạn cũng muốn nghĩ về những thứ như chất lượng cuộc sống. Bởi vì đôi khi bạn phải lựa chọn, bạn muốn cuộc đời ngắn hơn nhưng không đau đớn, hay cuộc đời dài hơn nhưng phải chịu nhiều nỗi đau đến cuối đời? Đó là những thứ bạn cần nói về và nghĩ đến bây giờ, với gia đình và người thân của bạn. Bạn có thể sẽ thay đổi suy nghĩ trong lúc giận dữ, nhưng ít ra bạn được rèn luyện với kiểu suy nghĩ này.
Remember, our brain under stress releases cortisol, and one of the things that happens at that moment is a whole bunch on systems shut down. There's an evolutionary reason for this. Face-to-face with a predator, you don't need your digestive system, or your libido, or your immune system, because if you're body is expending metabolism on those things and you don't react quickly, you might become the lion's lunch, and then none of those things matter. Unfortunately, one of the things that goes out the window during those times of stress is rational, logical thinking, as Danny Kahneman and his colleagues have shown. So we need to train ourselves to think ahead to these kinds of situations.
Nhớ rằng, não bộ dưới áp lực sẽ tiết ra cortisol, và một trong những thứ xảy ra lúc đó là một đám các hệ cơ quan sẽ "tắt". Có 1 lý do về mặt tiến hóa cho điều này. Mặt đối mặt với 1 dã thú, bạn không cần hệ tiêu hóa, hay ham muốn tình dục, hay hệ miễn dịch, vì nếu cơ thể bạn dùng trao đổi chất cho những thứ đó và bạn không phản ứng lại nhanh, bạn có thể sẽ trở thành bữa trưa của sư tử và sẽ không còn điều gì quan trọng nữa. Thật không may, 1 trong những thứ bị "tắt" trong khoảng thời gian căng thẳng đó là lý trí, là suy nghĩ hợp lý, như Danny Kahneman và đồng nghiệp của ông ấy đã chứng minh. Vì vậy chúng ta cần rèn luyện bản thân suy nghĩ trước ... đến những tình huống này.
I think the important point here is recognizing that all of us are flawed. We all are going to fail now and then. The idea is to think ahead to what those failures might be, to put systems in place that will help minimize the damage, or to prevent the bad things from happening in the first place.
Điều quan trọng ở đây là nhận ra: Tất cả chúng ta đều không hoàn hảo. Chúng ta cũng có lúc sẽ thất bại. Quan trọng là phải nghĩ đến trước những thất bại đó có thể là gì, áp dụng các chế độ để giảm thiểu tổn thất, hay ngăn chặn những điều xấu trước khi chúng xảy ra.
Getting back to that snowy night in Montreal, when I got back from my trip, I had my contractor install a combination lock next to the door, with a key to the front door in it, an easy to remember combination. And I have to admit, I still have piles of mail that haven't been sorted, and piles of emails that I haven't gone through. So I'm not completely organized, but I see organization as a gradual process, and I'm getting there.
Trở lại với đêm tuyết rơi ở Montreal khi đó, khi tôi trở lại từ chuyến công tác, tôi đã bảo nhà thầu lắp đặt hộp khóa số ngay cạnh cửa, có chìa khóa để mở cửa chính đặt trong đó, một mật khẩu dễ nhớ. Và tôi phải thừa nhận, tôi vẫn có hàng đống thư chưa được phân loại, và hàng đống email tôi chưa đọc qua Vì vậy tôi không hoàn toàn ngăn nắp, nhưng tôi thấy sự có tổ chức là 1 quá trình từ từ, và tôi sẽ đạt được nó.
Thank you very much.
Cảm ơn các bạn rất nhiều.
(Applause)
(vỗ tay)