As a small child, I was lucky to be at the launch of Apollo 17, the last manned mission to the Moon, and I've remained enamored with space ever since. And fortunate as a physician to have contributed to NASA life sciences research and to practice aerospace medicine, inspired by the cross-disciplinary teamwork required to tackle audacious challenges and how space is has often brought the world together through the lens of seeing our planet as one without borders. Now, just as the historic Apollo moon landings were transformational inflection points in history, so too is the global health crisis of COVID-19, which, despite its many challenges and tragedies, like the sinister Cold War setting, which launched the space race, can have silver linings. As Regina Dugan, former head of DARPA, wrote, “Sputnik set off the space age, COVID can spark the health age.”
Lúc nhỏ, tôi đã có vinh dự được dự lễ phóng tên lửa Apollo 17, nhiệm vụ đưa người lên mặt trăng cuối cùng, và tôi đã say mê vũ trụ từ lúc đó. Và tôi may mắn khi là một bác sĩ đã được đóng góp cho nghiên cứu về khoa học sự sống của NASA, và để thực hành y học hàng không vũ trụ, được truyền cảm hứng bởi tinh thần đồng đội liên ngành để đối mặt với những thử thách gian nan và vũ trụ thường mang mọi người trên thế giới tới gần nhau qua việc nhìn hành tinh của chúng ta như một nơi không hề có biên giới. Và cũng như việc tàu Apollo đáp xuống mặt trăng là một điểm nhấn mang tính thay đổi trong lịch sử, khủng hoảng y tế toàn cầu COVID-19 cũng vậy, điều mà, bất chấp rất nhiều khó khăn và đau thương nó đem tới, giống với trường hợp của Chiến tranh lạnh, thứ khởi đầu cuộc chạy đua vào không gian, có thể có những tia hi vọng. Như Regina Dugan, cựu chỉ huy của DARPA, đã từng viết: “Sputnik bắt đầu kỷ nguyên vũ trụ, COVID có thể bắt đầu kỷ nguyên sức khỏe”.
The silver linings include the unprecedented acceleration of innovation, collaboration and discovery, catalyzing a future of health and medicine that can help us reimagine and bring us a healthier, smarter, more equitable post-COVID world. Now, many solutions ride the rails of rapidly, exponentially developing technologies that are rapidly doubling in their speed-price performance, as exemplified by Moore's Law, which has enabled the billionfold improvements in memory and computation, resulting in the ubiquitous supercomputer smartphones most of us carry in our pockets. I still have my now ancient iPhone 2 here. Still works, which felt magical 12 years ago but now feels slow and kludgy. And I'm sure my iPhone 11 will soon seem antique, perhaps as its features dissolve into the rumored to soon arrive augmented reality smartglasses.
Những tia hi vọng này bao gồm sự tăng nhanh chưa từng thấy của những đổi mới, cộng tác và khám phá, xúc tác cho một tương lai của sức khỏe và y học, thứ có thể giúp chúng ta tái hình dung và mang tới cho ta một thế giới khỏe mạnh hơn, thông minh hơn, và công bằng hơn hậu COVID. Giờ, có rất nhiều giải pháp sử dụng cách phát triển công nghệ nhanh theo cấp số mũ, gia tăng gấp đôi hiệu suất hoạt động, như được ví dụ bởi Định luật Moore, thứ đã tạo điều kiện cho những cải tiến gấp tỉ lần trong lưu trữ và tính toán, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt siêu máy tính và điện thoại thông minh mà hầu hết chúng ta đều mang bên mình. Tôi vẫn giữ chiếc iPhone 2 giờ đã cổ lỗ này. Vẫn còn hoạt động nhé, thứ mà rất đỗi kì diệu 12 năm trước giờ lại vừa chậm vừa phèn. Và tôi dám chắc iPhone 11 của tôi sẽ sớm trở nên cổ lỗi thôi, có thể những tính năng của nó sẽ rơi vào quên lãng để rồi nhường chỗ cho các loại kính thực tế ảo.
Now exponential technologies packed into our smart devices are becoming increasingly medicalized, with sensors able to detect an ear infection and more. So what used to fit on a desktop computer now fits on our wrist and these are now entering the domain of FDA-approved medical devices. But the future isn't about any one technology, but their convergence as they get faster, cheaper, better. In fact, creating entire new fields at their interfaces, from computational biology, robotic surgery, digiceuticals, telemedicine to AI-enabled radiology. And while many industries have been disrupted and breached the fourth industrial age, health and medicine often feel stuck in the second or third. Critical data is still stuck being shared on fax machines, paper forms. We're stuck in waiting rooms waiting for our visits. I recently had my own echocardiogram only made available to share with me on a CD-ROM. I don't even own a CD-ROM player anymore.
Giờ những công nghệ cấp số mũ có mặt trong các thiết bị thông minh đang dần trở nên y tế hóa rất nhanh chóng, với những cảm biến có thể phát hiện viêm tai, hay thậm chí hơn thế. Vậy là những thứ đã từng chỉ hiện thị trên màn hình máy tính giờ đã vừa vặn trên cổ tay ta và chúng cũng đang được xếp vào nhóm các thiết bị y tế được FDA công nhận. Nhưng tương lai không chỉ bao gồm riêng một loại công nghệ, mà là về sự hội tụ của chúng khi mà chúng trở nên nhanh hơn, tốt hơn, rẻ hơn. Thực chất là tạo ra một lĩnh vực hoàn toàn mới dựa trên sự chuyển tiếp của chúng, từ sinh học tính toán, phẫu thuật bằng rô bốt, kỹ thuật số, y học viễn thông, cho tới phóng xạ học AI. Và trong khi rất nhiều ngành công nghiệp đã nhảy vọt tới kỷ nguyên công nghiệp thứ tư, y tế và y học dường như vẫn còn chững lại ở thời kỳ thứ hai hay thứ ba. Những dữ liệu thiết yếu vẫn còn đang được chia sẻ qua máy fax và trên giấy. Chúng ta vẫn còn phải ngồi đợi chờ khi đi khám bệnh. Tôi gần đây mới nhận bản siêu âm tim mà chỉ xem được bằng đĩa CD. Tôi thậm chí còn chẳng có máy CD nữa.
Tools for managing pandemics in 2020 rely on the same core technologies used in the pandemic of 1918: face masks, social distancing, handwashing. So part of the challenge in advancing global, local health are our models, our mindsets. We don't really practice health care. We practice sick care. Sick care is based on intermittent episodic data, usually only obtained within the four walls of the clinic or hospital bed, and leads to our reactive sick care model, where we wait for the patient to show up in the emergency room with a heart attack, stroke or late-stage cancer or for the pandemic to arrive on our shores.
Những công cụ giúp quản lí đại dịch trong năm 2020 dựa trên những công nghệ cốt yếu hệt như hồi 1918: khẩu trang, giãn cách xã hội, rửa tay. Vậy nên một phần thách thức trong việc cải tiến sức khỏe toàn cầu, địa phương là những hình mẫu, tư tưởng của chúng ta. Chúng ta không thực sự chăm sóc sức khỏe, ta chăm bệnh. Chăm sóc bệnh tật dựa trên những đoạn thông tin không liên tục thường chỉ có được trong phạm vi bốn bức tường của cơ sở y tế hay trên giường bệnh, và dẫn tới hình thức chăm bệnh phản ứng, ta đợi bệnh nhân tới phòng cấp cứu với một cơn đau tim, đột quỵ hay ung thư giai đoạn cuối, hoặc là đợi đến khi đại dịch đã ập tới.
I believe the convergence of many of the accelerating technologies and approaches being catalyzed by COVID will bring us from intermittent sick care to an age of continuous, proactive, personalized, crowdsourced health care that can increasingly bring care anytime, anywhere more effectively and lower costs around the planet.
Tôi tin sự hội tụ của rất nhiều những công nghệ và những cách tiếp cận được xúc tác bởi COVID sẽ mang ta từ chỗ chăm bệnh gián đoạn tới một kỷ nguyên chăm sóc sức khỏe liên tục, chủ động, cá nhân hóa và có nguồn cung cộng đồng, khi mà việc chữa trị có thể diễn ra mọi lúc, mọi nơi hiệu quả hơn với chi phí rẻ hơn trên toàn thế giới.
For example, the convergence of ever smaller interconnected devices now riding 5G is creating not just an Internet of Things but an Internet of Medical Things. Much of this convergence is in the field of digital health, the ability to connect the dots between data sources from personal genomics and medical records with apps and services that match the needs of an individual, patient or caregiver. And as incentives and reimbursements align, COVID has pushed us to an increasingly virtualized care, from the hospital to home to our phone to on and even inside our bodies. The age of hospital to home-spital is upon us.
Ví dụ, sự hội tụ của những thiết bị giờ đang dần nhỏ hơn sử dụng công nghệ 5G đang tạo ra không chỉ Internet Vạn Vật mà Internet Vạn Vật Y Tế. Phần lớn sự hội tụ này thuộc lĩnh vực y học kỹ thuật số, khả năng kết nối những điểm giữa các nguồn dữ liệu từ bộ gen cá nhân cho tới lịch sự y tế với những ứng dụng và dịch vụ khớp với nhu cầu của một cá nhân, bệnh nhân hay nhân viên y tế. Với cả sự khích lệ lẫn bù đắp, COVID đã khiến ta gia tăng những chăm sóc ảo, từ bệnh viện về tới nhà rồi tới điện thoại lên tới cơ thể, thậm chí là vào cả bên trong nữa. Thời kỳ chuyển bệnh viện về nhà - trạm xá đang trong tầm tay chúng ta.
Now, the challenge of this hyperconnected age is that we're creating exponential amounts of big data that's too often siloed in formats that can't even talk to each other. So we need to narrow that gap between data, turning that into actual information for the patient, physician, public health worker, and speed its safe and effective use in the community clinic and bedside. The pandemic has instigated an immense amount of international sharing and collaboration amongst clinicians and researchers to narrow that gap. What was learned in managing patients in Wuhan and then in the intensive care units of Italy has helped New York City hospitals and their learnings in turn have spread to centers around the world.
Giờ, thách thức của kỷ nguyên kết nốt liên thông này là ta đang tạo ra một lượng lớn cấp số mũ big data thường được lưu trữ trong các định dạng không thể trao đổi với nhau được. Vì vậy chúng ta cần phải thu hẹp lại khoảng cách giữa các dữ liệu đó, biến chúng thành những thông tin cho bệnh nhân, bác sĩ, những nhân viên y tế, và đẩy nhanh ứng dụng an toàn và hiệu quả của chúng trong bệnh viện. Đại dịch đã thúc tiến cho một lượng khổng lồ những chia sẻ toàn cầu và sự hợp tác giữa các nhân viên y tế cùng nhà nghiên cứu để thu hẹp khoảng cách đó. Những điều đã đúc kết được từ việc quản lí bệnh nhân ở Vũ Hán và những chăm sóc cực đặc biệt từ các đội ngũ ở Ý đã giúp cho các bệnh viện ở New York và kết quả của những điều đó lại tiếp tục được lan tỏa toàn cầu.
Let's take a quick dive into some examples of what's happening across the health care paradigm in the age of COVID and the implications for the future. From new forms of data to help prediction of prevention to faster diagnostics, more tailored therapy and increasingly crowdsourced discovery.
Hãy thử xem một vài ví dụ về những gì đang xảy ra với thế giới quan y học trong thời điểm COVID và những suy đoán cho tương lai. Từ những định dạng mới của dữ liệu để dự đoán phòng bệnh cho tới những chẩn đoán bệnh nhanh hơn, những phương pháp trị liệu tinh vi hơn, và những khám phá về nguồn cung ứng cộng đồng dồi dào hơn.
Let's start with prevention. Now, while our genomes impact our health outcomes and our health spans, our social determinants of health, our social, and our day-to-day behaviors drive most of our risk for disease and associated costs. And we now have an explosion of new tools to help measure and improve our healthy behaviors. The first Fitbit only launched in 2009. Wearables are now ubiquitous and can measure almost every element of our physiology, behavior and even mental health. And they're evolving all the way from disposable tattoos that can stream vital signs 24/7 to an integration of big data that can -- Even small data from a simple wearable, tracking the patient discharged home after a hip replacement or a coronavirus infection can determine if the patient is recovering as expected, walking more, doing great or not so great and trigger early intervention.
Bắt đầu với phòng ngừa đi. Trong khi bộ gen của chúng ta ảnh hưởng tới tình trạng sức khỏe, tuổi thọ sinh lí, thì các yếu tố xã hội quyết định sức khỏe, xã hội, và những hành vi thường nhật của ta là các tác nhân phơi nhiễm bệnh và những cái giá liên quan. Và giờ chúng ta có sự bùng nổ của các công cụ mới để giúp dự liệu và cải thiện những hành vi sức khỏe của chúng ta. Fitbit đầu tiên xuất hiện vào năm 2009. Giờ đã có mặt khắp mọi nơi và có thể đo lường được hầu hết mọi yếu tố sinh lí của chúng ta, hành vi của ta và thậm chí là cả sức khỏe tâm thần. Và chúng đang tiến hóa theo hướng từ những hình xăm dùng một lần có thể bắt được dấu hiệu sinh lí 24/7 cho tới sự hợp thành của big data mà -- Kể cả small data từ một phụ kiện đơn giản, theo dõi bệnh nhân từ khi xuất viện sau khi được thay đĩa đệm hay sau khi nhiễm vi-rút corona có thể xác định rằng bệnh nhân đã hồi phục như dự đoán hay chưa, vận động nhiều hơn, vẫn khỏe khoắn hay không khỏe cho lắm và báo hiệu cần can thiệp sớm.
We're evolving from a world of quantified self where our digital data remains silent on our devices to one of quantified health where the data can be shared securely with clinical teams and researchers to help optimize prevention, diagnose disease early and with feedback loops, personalize and optimize therapy. From wristband vitals, including blood pressure, now obtainable without a cuff, and soon sensors that will measure our blood oxygenation levels to continuous blood sugar monitoring, to shock'ables, hearables, ring'ables that can replace an entire sleep lab fitting on our finger to inside’ables, chips beneath our skin, to track our physiology and lab values, to even underwear'ables, Internet of Medical Things sensors so cheap today you can get a pack of ten of them, have one on each pair of your underwear, now being used to do what's called remote patient monitoring to help detect signs of respiratory decompensation of patients with bronchitis or COVID. Breath'ables are showing promise. Nanonoses that can detect molecules in our breath correlating to cancer, metabolic disease and even diagnosing infectious disease. In fact, we now don't need to wear anything. Invisibles, ambient sensing from AI-enabled cameras can track her vital signs. To voice as a biomarker to manage and detect mental health challenges, signs of heart disease, now being able to differentiate between a cough from a common cold to that one caused by coronavirus.
Chúng ta đang tiến hóa từ một thế giới nơi mà các dữ liệu kỹ thuật số còn im hơi lặng tiếng trên các thiết bị tới một thế giới mà dữ liệu có thể được chia sẻ một cách an toàn với đội ngũ y tế và những nhà nghiên cứu để giúp tối ưu hóa chẩn đoán về bệnh tật sớm hơn kèm với những góp ý, những liệu pháp điều trị cá nhân hóa, tối ưu hóa. Từ những dây đo sức khỏe ở cổ tay, bao gồm đo huyết áp, giờ đã không còn cần dùng tới dây nữa, và sớm thôi, các cảm biến đo lượng oxy trong máu tới giám sát liên tục lượng đường huyết tới sốc được, nghe được, vang được có thể thay thế toàn bộ một lab ngủ vừa vặn trên ngón tay chúng ta tới những con chip luồn được vào da chúng ta để theo dõi tình trạng sinh lí, thậm chí là mặc được. Các cảm biến từ Internet Vạn Vật Y Tế ngày nay rẻ tới mức bạn có thể mua một gói 10 chiếc, gắn mỗi chiếc lên một bộ đồ lót, giờ đang được sử dụng để làm việc gọi là theo dõi bệnh nhân từ xa để giúp phát hiện những dấu hiệu suy hô hấp của bệnh nhân mắc viêm phế quản hay COVID. Những vật thở được vào đang có triển vọng. Mũi nano có thể phát hiện những phân tử trong hơi thở có liên quan tới ung thư, những rối loạn chuyển hóa hay là cả chẩn đoán những bệnh truyền nhiễm nữa. Trên thực tế, giờ chúng ta chẳng cần phải đeo thiết bị nào cả. Cảm biến vô hình với môi trường xung quanh từ các camera ứng dụng AI có thể theo dõi được dấu hiệu sức khỏe. Cả những thiết bị phát hiện giọng nói tìm ra những khó khăn trong tâm lí, dấu hiệu của bệnh tim, giờ đã phân biệt được cơn ho đến từ cảm cúm hay là từ vi-rút corona.
And we'll soon be exuding our digital exhaust 24/7, our digitome. How do we make sense and truly leverage it? One path is through crowdsourcing. The million-participant All of Us trial from the National Institutes of Health is doing just that where data donors, and I'm one, can contribute our medical records, genomes and wearable data to build a much better and diverse data set, crossing racial and socioeconomic groups to help foster better precision medicine for all of us.
Và chúng ta sẽ mau chóng làm rò rỉ hệ thống thải kỹ thuật số 24/7, digitome của chúng ta. Làm sao để ta khiến nó trở nên có nghĩa và thực sự tận dụng nó? Đường lối của ta là sử dụng nguồn cung ứng cộng đồng. Thử nghiệm All of Us với hàng triệu người tham gia của Viện Y tế Quốc gia (NIH) đang thực hiện điều đó nơi mà những người cung cấp dữ liệu, tôi cũng tham gia này, đóng góp vào hồ sơ y tế, bộ gen và những dữ liệu có thể mang được để tạo nên một hệ thống dữ liệu tốt hơn hẳn và đa dạng hơn, vượt lên khỏi ranh giới chủng tộc và kinh tế xã hội để giúp y học chính xác hơn cho tất cả chúng ta.
Integrating this information for the individual and public health will lead to predictalitics, our own personal check engine lights that can give us early proactive warning. And recent work is demonstrating that wearables can detect presymptomatically the onset of the flu, or, as recently published by Stanford, in 83 percent of COVID patients smartwatches can detect COVID infections early, often days before onset of symptoms. Self-reporting websites like Covid Near You enable us to locally generate infections maps, and combined with our social graphs and contact tracing apps, may provide us detailed suggestions about who we might want to consider being near or socially distanced from.
Kết hợp lại những thông tin này cho sức khỏe cá nhân và cộng đồng, sẽ dẫn tới sự dự đoán, hệ thống đèn tín hiệu của riêng chúng ta mà có thể chủ động đưa ra cho ta những cảnh báo. Và những nghiên cứu gần đây cho thấy những phụ kiện này có thể phát hiện những triệu chứng sớm của cúm. Hay theo như công bố mới đây của Stanford, trong 83% bệnh nhân COVID, đồng hồ thông minh có thể phát hiện sớm những người nhiễm COVID vài ngày trước khi bộc lộ triệu chứng bệnh. Những trang web báo cáo cá nhân cho bạn như Covid Near You cho phép chúng ta xác định được bản đồ ca nhiễm địa phương, và kết hợp với những biểu đồ cùng những ứng dụng truy vết, có thể cung cấp cho chúng ta những gợi ý cụ thể để cân nhắc xem nên ở gần ai hay giữ khoảng cách với ai.
What about advancements in diagnostics and monitoring? What used to require a full clinic or laboratory can now fit into a digital doctor's bag or the pocket of a patient. From COVID quarantine kits enabling tracking of oxygen saturation, temperature and lung sounds, we're starting to integrate these into virtual visits, providing real-time enhancements of a virtual physical exam. And the diagnostic tools are becoming increasingly infused with AI machine learning, including consumer ultrasounds, which can bring diagnostics anywhere at very low cost, including the ability to evaluate the lungs in suspected COVID patients. The laboratory has shrunk to microfluidic platforms that can be attached to our smartphones and enable anyone to take measurements from blood or saliva.
Thế còn những tiến bộ trong chẩn đoán và quản lí thì sao? Những thứ mà cần tới toàn bộ phòng khám hay phòng thí nghiệm giờ có thể vừa vặn trong túi ảo của bác sĩ hay của bệnh nhân. Từ những bộ cách ly COVID cho phép theo dõi nồng độ oxy, nhiệt độ hay âm thanh của phổi, chúng ta đang dần biến chúng thành những chuyến thăm ảo, cung cấp những sự nâng cao thời gian thực của lần khám sức khỏe ảo. Và những công cụ chẩn đoán đang được kết hợp rất nhanh chóng với học máy trí tuệ nhân tạo, bao gồm siêu âm của người dùng, khiến cho việc chẩn đoán được thực hiện ở bất cứ đâu với chi phí rất rẻ, bao gồm cả khả năng đánh giá tình trạng phổi của bệnh nhân nghi nhiễm COVID. Các phòng thí nghiệm đã được thu nhỏ tới các dạng thể lỏng có thể gắn được vào điện thoại của chúng ta và cho phép bất cứ ai kiểm tra mẫu máu hay nước bọt.
Many of these diagnostics are leveraging the smartphone and its camera for a medical selfie. For example, instead of taking your urine to the lab to diagnose a potential urinary tract infection, in the privacy of your home simply dip the urine dipstick, take a picture with your smartphone camera and have the results made available immediately to your doctor and pharmacy. Similar phone-based apps and approaches are being used and developed for fast, frequent, cheap and easy COVID testing. Novel approaches to community level diagnostics are also being explored, including next gen sequencing of sewage for early detection of COVID-19, identifying hotspots and predicted outbreaks a week or more early.
Rất nhiều trong những phương pháp chẩn đoán này đang tận dụng tới điện thoại thông minh và camera của nó cho một chiếc ảnh selfie y tế. Ví dụ, thay vì mang mẫu nước tiểu của bạn tới phòng thí nghiệm để chẩn đoán nguy cơ viêm đường tiết niệu, thì với sự riêng tư khi ở nhà chỉ cần nhúng que thử nước tiểu chụp cái ảnh bằng camera điện thoại và gửi được ngay kết quả cho bác sĩ và nhà thuốc. Những ứng dụng điện thoại và những cách thức tương tự đang được phát triển để tạo ra những phương pháp thử COVID nhanh, thường xuyên, rẻ và dễ dàng. Những cách tiếp cận chẩn đoán phạm vi cộng đồng mới mẻ cũng đang được khám phá, bao gồm phân loại nước thải để phát hiện sớm COVD-19, xác định nguồn lây và dự đoán sớm các ca nhiễm trước hàng tuần.
The explosion of data sources, however, is really beyond the capacity of the human mind to effectively integrate. We're now getting help from AI, or as I call it, IA, intelligence augmentation. IA is being leveraged in reading CT scans to diagnose COVID, to enhancing the vision of a gastroenterologist performing a colonoscopy to identify lesions they might have missed. And AI is playing an active role in helping identify and develop new antivirals. And while AI is often perceived as a threat by some clinicians, it can't replace the human touch or empathy. And I don't think doctors or nurses will be replaced by AI, but doctors and health care systems who’re collaborating with AI in the future will be replacing those who don’t.
Sự bùng nổ của các nguồn dữ liệu, tuy thế, mà lại thực sự vượt quá tầm kiểm soát của trí tuệ con người để hợp nhất. Chúng ta đang cần sự trở giúp từ trí tuệ nhân tạo (AI), hay như cách tôi gọi nó, trí tuệ gia tăng (IA). IA đang được tận dụng vào việc đọc CT scan để chẩn đoán COVID, để tăng cường thị lực cho bác sĩ tiêu hóa khi nội soi ruột kết, để chỉ ra những tổn thương mà chẳng may bị bỏ sót. Và AI đang có vai trò chủ động trong việc hỗ trợ tìm ra và phát triển những loại vắc xin mới. Và trong khi AI thường được coi như một mối nguy bởi các thầy thuốc, chúng không thay thế được xúc giác hay sự thấu cảm của con người. Và tôi không nghĩ các bác sĩ hay y tá sẽ bị thay thế bởi AI, nhưng các y sĩ và các hệ thống y tế mà đang sử dụng AI, trong tương lai sẽ thay thế cho người không sử dụng.
Finally, therapy. The pandemic has dramatically accelerated the use of virtual visits. Telemedicine visits are up on the order of a thousand percent in many settings. And I don't think we'll ever revert to pre-COVID levels as patients and clinicians are discovering the compelling convenience and efficacy. Even before virtual zoom or facetime with the clinician, asynchronous screening and support has been provided by ever-smarter chat bots that can help discern symptoms and triage problems effectively at lower cost. This includes virtualization and virtual augmentation to meet our mental health crisis, exacerbated by the many economic and other stressors which accompany this pandemic. 3D-printing is finding a role in health care, with newfound applications from printing personal masks to critical parts of ventilators and being leveraged by the growing maker movement, which is playing a major role in pandemic response, from making face shields and masks to improvising do-it-yourself ventilators.
Điều cuối cùng, trị liệu. Đại dịch đã gia tăng một cách thần tốc ứng dụng của những chuyến thăm ảo. Những chuyến thăm khám viễn thông đang chiếm hàng nghìn phần trăm. Và tôi không nghĩ là chúng ta sẽ quay trở lại mức như hồi tiền COVID đâu khi mà bệnh nhân và bác sĩ đang khám phá ra sự tiện lợi và hiệu quả này. Thậm chí là trước cả Zoom hay Facetime với bác sĩ, chiếu hình và chăm sóc không đồng bộ đã được cung cấp bởi những rô bốt thông minh có thể nhận biết các triệu chứng và các vấn đề một cách hiệu quả với chi phí thấp hơn. Điều này bao gồm ảo hóa và giả lập ảo để đối mặt với khủng hoảng tâm lí ta gặp phải, bị đè nặng thêm bởi gánh nặng kinh tế hay căng thẳng khác đi kèm với đại dịch hiện nay. Công nghệ in 3D đang dần có vị trí trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe với những ứng dụng mới từ in khẩu trang, cho tới những bộ phân thiết yếu của máy lọc không khí và được tận dụng bởi phong trào “nhà làm” đang phát triển, việc này đang có chỗ đứng vững trong việc đối mặt với đại dịch, từ việc tự làm tấm chắn mặt và khẩu trang tới những máy lọc khí ứng biến tự làm.
All together, these efforts are enabling the potential for democratization of health and medicine across the planet and access to information and care that was previously inaccessible. Clinical trials are being reshaped, leveraging smart devices, cloud-based analytic platforms and collaborators around the world. That's at this convergence of many rapidly developing and exponential technologies that we have the real potential to reshape and scale health care at our pandemic age. One where we can dramatically expand access to basic health care, increasingly personalized and proactive, leveraging the scale of digital platforms and technologies, enhancing digital connection and empathy, and the ability to blend virtual and in-person care, and leveraging the power of the crowd to share and build better maps that guide our individual health and public health journeys, and to develop validated and scaled solutions.
Tất cả những nỗ lực này đang tạo điều kiện cho tiềm năng của sự dân chủ hóa trong lĩnh vực sức khỏe và y tế trên toàn cầu và tiếp cận thông tin cùng những chăm sóc mà trước đây không thể tiếp cận được. Các thử nghiệm lâm sàng đang được tái định hình, tận dụng thiết bị thông minh, nền tảng phân tích đám mây và các cộng tác viên trên toàn thế giới. Và với sự hội tụ của vô vàn những phát triển nhanh chóng cùng các công nghệ cấp số mũ này ta có được tiềm năng thực sự để định hình lại và xem xét lĩnh vực chăm sóc sức khỏe trong thời kỳ đại dịch. Một thời kì mà ta có thể gia tăng đáng kể quyền chăm sóc y tế cá nhân hóa và chủ động, tận dụng các công cụ, nền tảng kỹ thuật số và công nghệ, gia tăng sự kết nối viễn thông và sự đồng càm, khả năng kết hợp những chăm sóc ảo và thực tế, và tận dụng sức mạnh tập thể để chia sẻ và tạo ra những bản đồ tốt hơn để dẫn ta đi trên hành trình sức khỏe của cá nhân và cộng đồng, và phát triển những giải pháp có giá trị, được phê chuẩn.
So imagine a new generation of volunteers, a global health corps similar to the volunteer paramedics and firemen of today that can be upskilled, use the powerful new tools to respond early and collectively to enhance contact tracing, isolation and quarantine, and to help identify and address social and other disparities.
Tưởng tượng một thế hệ các tình nguyện viên mới, một quân đoàn sức khỏe quốc tế giống với các nhân viên y tế và cứu hỏa ngày nay có tay nghề cao, sử dụng những công cụ mới đầy công hiệu để cùng phản ứng nhanh giúp cho việc truy vết và cách ly hiệu quả hơn và để giúp xác định và giải quyết những chênh lệch xã hội.
So coming full circle. Twenty four years after I was at the launch of Apollo 17, I found myself as a medical student on a research clerkship at Johnson Space Center. And much to my surprise, one day in the clinic, I ran right into Gene Cernan, the Apollo 17 commander and the last man to walk on the Moon. After enthusiastically sharing my childhood memories of his launch, he shared one of his famous lines: "I walked on the Moon. What can't you do?" Indeed, what can't we do if we work together as one in the face of this pandemic? And just as the near tragedy of Apollo 13 rallied NASA to work creatively and collectively, so too can this in our pandemic age lead to our finest hour, bring on a true health age. I believe this is possible if we all get out of our linear mindsets, take exponential steps and collaboratively go forth collectively, not only to solve the challenges of this pandemic and predict the future of health and medicine, but boldly to go forth together to accelerate a far better one for everyone on Spaceship Earth.
Quay lại đoạn đầu một chút. 24 năm sau khi tôi có mặt tại lễ phóng tàu Apollo 17, tôi trở thành một sinh viên y nghiên cứu học việc tại Trung tâm Vũ trụ Johnson. Và điều tôi không ngờ tới, là vào một ngày nọ, tôi tình cờ gặp ngay Gene Cernan, chỉ huy tàu Apollo 17 và là người cuối cùng từng lên Mặt trăng. Sau khi hồ hởi kể với ông kỉ niệm tuổi thơ tôi về ngày phóng tàu ấy, ông có nói với tôi một câu nói nổi tiếng của mình: “Tôi đã đi trên Mặt trăng. Có gì bạn không thể chứ?” Quả thực, có gì chúng ta không thể làm nếu ta chung tay, hợp sức trong đại dịch này chứ? Và cũng giống như bi kịch gần đây của Apollo 13 đã khiến NASA hoạt động sáng tạo, đoàn kết, thời kỳ đại dịch này cũng hướng chúng ta tới những thời khắc tinh hoa nhất, mang tới một kỷ nguyên sức khỏe đích thực. Tôi tin rằng điều này khả thi nếu chúng ta cùng vượt khỏi những tư tưởng tuyến tính, cùng đi những bước cấp lũy thừa, không chỉ để giải quyết những thách thức của đại dịch này và tiên đoán tương lai của sức khỏe và y học, mà còn để tự tin tiếp bước cùng nhau tới một tương lai vượt bậc hơn dành cho toàn thể cư dân của Trái Đất.
Thanks.
Xin cảm ơn.