I want to talk about social innovation and social entrepreneurship. I happen to have triplets. They're little. They're five years old. Sometimes I tell people I have triplets. They say, "Really? How many?"
Tôi muốn nói với các bạn về tiến bộ xã hội và kinh doanh xã hội. Tôi có con sinh ba. Chúng còn rất nhỏ, mới 5 tuổi. Vài lần tôi kể với mọi người rằng tôi có con sinh ba.
(Laughter)
Họ thường hỏi lại rằng: "Thật ư? Anh có mấy đứa?"
Here's a picture of the kids -- that's Sage, and Annalisa and Rider. Now, I also happen to be gay. Being gay and fathering triplets is by far the most socially innovative, socially entrepreneurial thing I have ever done.
Đây là một bức ảnh về lũ trẻ nhà tôi. Đây là Sage, Annalisa, và Rider. Và, tôi còn là một người đồng tính nữa. Là một người đồng tính và cha của 3 đứa trẻ tính đến thời điểm hiện tại với tôi là một điều có tính chất tiến bộ xã hội và kinh doanh xã hội nhất mà tôi từng làm.
(Laughter)
(Cười) (Vỗ tay)
(Applause)
The real social innovation I want to talk about involves charity. I want to talk about how the things we've been taught to think about giving and about charity and about the nonprofit sector, are actually undermining the causes we love, and our profound yearning to change the world.
Tiến bộ xã hội thực sự mà tôi muốn nói đến liên quan đến công tác từ thiện. Tôi muốn nói về những điều chúng ta đã được dạy khi nghĩ về việc cho đi khi làm từ thiện và về khu vực phi lợi nhuận thực ra đang phá ngầm những động lực nhân ái và khát vọng sâu sắc muốn thay đổi thế giới trong mỗi chúng ta.
But before I do that, I want to ask if we even believe that the nonprofit sector has any serious role to play in changing the world. A lot of people say now that business will lift up the developing economies, and social business will take care of the rest. And I do believe that business will move the great mass of humanity forward. But it always leaves behind that 10 percent or more that is most disadvantaged or unlucky. And social business needs markets, and there are some issues for which you just can't develop the kind of money measures that you need for a market.
Những trước khi nói về những điều đó, tôi muốn hỏi rằng liệu các bạn có tin rằng khu vực phi lợi nhuận có thực sự đóng một vai trò quan trọng nào đó trong việc thay đổi thế giới hay không. Rất nhiều người cho rằng kinh doanh sẽ giúp nền kinh tế đang phát triển đi lên, và doanh nghiệp xã hội sẽ thúc đẩy sự phát triển của các nền kinh tế khác. Và tôi thực sự tin rằng kinh doanh sẽ thúc đẩy phần lớn nhân loại tiến về phía trước. Nhưng nó cũng luôn luôn để lại sau 10 phần trăm hoặc hơn những nhóm thiệt hại hoặc không may mắn. Và doanh nghiệp xã hội cần thị trường, và luôn có một vài vấn đề mà bạn không thể phát triển được dạng đo lường tiền bạc mà bạn cần cho một thị trường.
I sit on the board of a center for the developmentally disabled, and these people want laughter and compassion and they want love. How do you monetize that? And that's where the nonprofit sector and philanthropy come in. Philanthropy is the market for love. It is the market for all those people for whom there is no other market coming. And so if we really want, like Buckminster Fuller said, a world that works for everyone, with no one and nothing left out, then the nonprofit sector has to be a serious part of the conversation.
Tôi có chân trong một trung tâm (hỗ trợ) phát triển (cho) người khuyết tật, những người ở đây họ muốn tiếng cười, lòng nhân ái, và họ muốn tình yêu. Làm thế nào bạn có thể quy đổi thành tiền được những điều này? Đó là nơi mà khu vực phi lợi nhuận và tổ chức phúc thiện tham gia. Tổ chức phúc thiện là thị trường dành cho tình yêu thương. Đây là thị trường cho tất cả những người như vậy cho những người không có được sự quan tâm của những thị trường khác. Và như Buckminster Fuller đã từng nói, nếu chúng ta thực sự muốn, một thế giới phù hợp với tất cả mọi người, không loại trừ bất kỳ ai và điều gì, khi đó khu vực phi lợi nhuận chắc chắn là một phần quan trọng trong câu chuyện.
But it doesn't seem to be working. Why have our breast cancer charities not come close to finding a cure for breast cancer, or our homeless charities not come close to ending homelessness in any major city? Why has poverty remained stuck at 12 percent of the U.S. population for 40 years?
Nhưng điều này nghe có vẻ không đúng. Vì sao các quỹ từ thiện dành cho bệnh nhân ung thư vú chưa bao giờ tiến gần được đến việc tìm ra một phương pháp chữa trị ung thư vú, hoặc, các quỹ từ thiện dành cho người vô gia cư chưa bao giờ tiến gần được đến chỗ chấm dứt tình trạng vô gia cư trong bất kỳ một đô thị nào? Vì sao mà tỷ lệ đói nghèo vẫn bị kẹt ở mức 12 phần trăm trong tổng số dân Mỹ trong suốt 40 năm qua?
And the answer is, these social problems are massive in scale, our organizations are tiny up against them, and we have a belief system that keeps them tiny. We have two rulebooks. We have one for the nonprofit sector, and one for the rest of the economic world. It's an apartheid, and it discriminates against the nonprofit sector in five different areas, the first being compensation.
Và câu trả lời là, những vấn đề xã hội đó là một tỉ lệ quá lớn, so với chúng thì các tổ chức của chúng ta quá nhỏ bé, và hệ tư tưởng của chúng ta (là yếu tố) khiến cho các tổ chức này nhỏ bé như vậy. Chúng ta có hai bộ quy tắc. Một dành cho khối phi lợi nhuận và một dành cho phần còn lại của nền kinh tế thế giới. Nó như là một sự phân biệt chủng tộc, và nó phân biệt giữa khu vực phi lợi nhuận so với 5 khu vực khác, điều đầu tiên là sự đền bù.
So in the for-profit sector, the more value you produce, the more money you can make. But we don't like nonprofits to use money to incentivize people to produce more in social service. We have a visceral reaction to the idea that anyone would make very much money helping other people. Interestingly, we don't have a visceral reaction to the notion that people would make a lot of money not helping other people. You know, you want to make 50 million dollars selling violent video games to kids, go for it. We'll put you on the cover of Wired magazine. But you want to make half a million dollars trying to cure kids of malaria, and you're considered a parasite yourself.
Trong khu vực có lợi nhuận, bạn càng tạo được giá trị bao nhiêu, thì số tiền bạn kiếm được càng lớn. Nhưng chúng ta không ủng hộ việc phi lợi nhuận sử dụng tiền để khuyến khích mọi người tham gia đóng góp vào hoạt động xã hội. Chúng ta có một phản ứng bản năng với ý kiến cho rằng bất cứ ai cũng có thể tạo ra rất nhiều tiền (khi) giúp đỡ người khác. Điều thú vị là chúng ra không có phản ứng bản năng đối với quan niệm mọi người sẽ tạo ra rất nhiều tiền khi không giúp đỡ người khác. Bạn biết đấy, bạn muốn tạo ra 50 triệu đô la từ việc bán video trò chơi điện tử bạo lực cho trẻ em, hãy cứ làm đi. Chúng tôi sẽ cho bạn lên trang bìa của tạp chí Wired. Nhưng bạn muốn kiếm một nửa triệu đô la khi cố gắng cứu trẻ em khỏi bênh sốt rét, và bạn chính bạn cũng có khả năng bị mắc kí sinh trùng. (Vỗ tay)
(Applause)
Và chúng ta coi hành động này giống như hệ thống đạo đức,
And we think of this as our system of ethics, but what we don't realize is that this system has a powerful side effect, which is: It gives a really stark, mutually exclusive choice between doing very well for yourself and your family or doing good for the world, to the brightest minds coming out of our best universities, and sends tens of thousands of people who could make a huge difference in the nonprofit sector, marching every year directly into the for-profit sector because they're not willing to make that kind of lifelong economic sacrifice. Businessweek did a survey, looked at the compensation packages for MBAs 10 years out of business school. And the median compensation for a Stanford MBA, with bonus, at the age of 38, was 400,000 dollars. Meanwhile, for the same year, the average salary for the CEO of a $5 million-plus medical charity in the U.S. was 232,000 dollars, and for a hunger charity, 84,000 dollars. Now, there's no way you're going to get a lot of people with $400,000 talent to make a $316,000 sacrifice every year to become the CEO of a hunger charity.
nhưng những gì chúng ta không nhận thức được là hệ thống này có một tác dụng phụ rất lớn, đó là, nó tạo ra 2 sự lựa chọn đều khó khăn và quan trọng giữa việc làm điều tốt cho bản thân và gia đình hay là điều tốt cho thế giới với những bộ óc sáng lạn nhất đến từ những trường đại học tốt nhất của chúng ta, và gửi đi hàng chục nghìn người, những người có thể tạo ra sự khác biệt trong khu vực phi lợi nhuận cứ hàng năm chuyển dần thành các tổ chức vì lợi nhuận bới vì họ không sẵn lòng tạo ra những hy sinh mang tính kinh tế trong thời gian dài. Tuần kinh doanh (tạp chí -ND) đã làm một cuộc khảo sát, họ tập trung vào những gói bồi thường cho các thạc sĩ kinh tế (MBA) của 10 năm tại trường kinh doanh, và đền bù trung bình cho một MBA từ trường Stanford, với tiền thưởng, tại tuổi 38, là 400.000 đô la. Trong khi đó, cùng một năm, lương trung bình của CEO của một tổ chức từ thiện y tế 5 triệu đô la ở Mỹ là 232.000 đô la, và với tổ chức đói nghèo, là 84.000 đô la. Bây giờ, bạn không thể khiến rất nhiều người với tài năng trị giá 400.000 đô la đánh đổi sự hy sinh trị giá 316.000 đô la hàng năm để trở thành CEO của một tổ chức từ thiện vì người đói nghèo.
Some people say, "Well, that's just because those MBA types are greedy." Not necessarily. They might be smart. It's cheaper for that person to donate 100,000 dollars every year to the hunger charity; save 50,000 dollars on their taxes -- so still be roughly 270,000 dollars a year ahead of the game -- now be called a philanthropist because they donated 100,000 dollars to charity; probably sit on the board of the hunger charity; indeed, probably supervise the poor SOB who decided to become the CEO of the hunger charity;
Một vài người nói rằng, "Đò là bởi vì những người có bằng MBA quá tham lam." Không hoàn toàn đúng. Họ có thể thông minh. Sẽ rẻ hơn cho họ khi quyên góp 100.000 đô la hàng năm cho tổ chức từ thiện, tiết kiệm 50.000 đô la cho các loại thuế, nên vẫn còn gần 270.000 đô la còn lại và (họ) được gọi là những nhà từ thiện vì họ ủng hộ 100.000 đô la cho từ thiện, có thể tham gia vào ban quản lý tổ chức từ thiện vì người đói nghèo, thực sự, (họ) có thể giám sát các SOB những người đã quyết định trở thành CEO của tổ chức từ thiện ,
(Laughter)
và (họ) có một khoảng thời gian dài có trong tay quyền lực và sự ảnh hưởng
and have a lifetime of this kind of power and influence and popular praise still ahead of them.
và những lời khen đại chúng vẫn chờ đợi họ.
The second area of discrimination is advertising and marketing. So we tell the for-profit sector, "Spend, spend, spend on advertising, until the last dollar no longer produces a penny of value." But we don't like to see our donations spent on advertising in charity. Our attitude is, "Well, look, if you can get the advertising donated, you know, to air at four o'clock in the morning, I'm okay with that. But I don't want my donation spent on advertising, I want it go to the needy." As if the money invested in advertising could not bring in dramatically greater sums of money to serve the needy.
Lĩnh vực thứ 2 của sự phân biệt là quảng cáo và marketing. Chúng ta nói với khu vực vị lợi nhuận, "Tiêu, tiêu, tiêu vào quảng cáo cho đến khi đồng đô la cuối cùng không thể tạo ra được một xu nào nữa." Nhưng chúng ta không muốn số tiền ủng hộ của mình dành vào quảng cáo trong từ thiện," Thái độ của chúng ta là, "Này, nếu được chúng ta có thể được hỗ trợ quảng cáo bạn biết không, vào 4 giờ sáng, tôi thấy chuyện đấy ổn. Nhưng tôi không muốn sự quyên góp của tôi dành vào quảng cáo. Tôi muốn số tiền ấy dành cho người cần nó." Như thể số tiền đầu tư cho quảng cáo không thể sinh ra một số tiền lớn hơn rất nhiều để phục vụ người nghèo.
In the 1990s, my company created the long-distance AIDSRide bicycle journeys, and the 60 mile-long breast cancer three-day walks, and over the course of nine years, we had 182,000 ordinary heroes participate, and they raised a total of 581 million dollars.
Vào những năm 1990, công ty của tôi tổ chức những chuyến đi đạp xe đường dài cho người bị AIDS và chuyến bộ 3 ngày dài 60 dặm cho bênh nhân ung thư vú, và trong suốt 9 năm trời, chúng tôi đã có 182.000 người tham gia, và họ gây được quỹ trị giá 581 triệu đô la.
(Applause)
Họ có thể quyên góp tiền một cách nhanh chóng hơn cho những vấn đề này
They raised more money more quickly for these causes than any events in history, all based on the idea that people are weary of being asked to do the least they can possibly do. People are yearning to measure the full distance of their potential on behalf of the causes that they care about deeply. But they have to be asked. We got that many people to participate by buying full-page ads in The New York Times, in The Boston Globe, in prime time radio and TV advertising. Do you know how many people we would've gotten if we put up fliers in the laundromat?
hơn là các sự kiện khác trong lịch sử, tất cả đều dựa trên quan điểm rằng mọi người cảm thấy mệt mỏi khi được yêu cầu làm điều gì đó tổi thiểu mà họ có thể. Mọi người đều mong muốn đo khoảng cách đầy đủ về tiềm năng của họ dựa trên lý do mà họ thực sự quan tâm. Nhưng họ phải được yêu cầu. Chúng tôi có được nhiều người tham gia bằng việc mua những trang quảng cáo trên tờ New York Times, ở tạp chí The Boston Globe, quảng cáo vào giờ vàng trên đài và TV. Bạn có biết bao nhiêu người mà chúng tôi có được nếu chúng tôi đặt các tở bướm trong tiệm giặt quần áo?
Charitable giving has remained stuck in the U.S., at two percent of GDP, ever since we started measuring it in the 1970s. That's an important fact, because it tells us that in 40 years, the nonprofit sector has not been able to wrestle any market share away from the for-profit sector. And if you think about it, how could one sector possibly take market share away from another sector if it isn't really allowed to market? And if we tell the consumer brands, "You may advertise all the benefits of your product," but we tell charities, "You cannot advertise all the good that you do," where do we think the consumer dollars are going to flow?
Tại Mỹ, làm từ thiện vẫn còn mắc kẹt ở con số 2% trên tổng số GDP kể từ lúc chúng tôi bắt đầu đo vào những năm 1970. Đó là một con số quan trọng, bởi nó nói với chúng ta rằng trong 40 năm, khu vực phi lợi nhuận vẫn không thể chống chọi trong việc giành thị phần với khu vực vị lợi nhuận. Và nếu bạn nghĩ về điều này, làm sao một khu vực có thể giành thị phần từ tay khu vực khác nếu nó không thực sự là mua bán? Và nếu chúng tôi nói với các thương hiệu của người tiêu dùng, "Bạn có thể quảng cáo tất cả những tiện ích của sản phẩm," nhưng chúng tôi nói với các tổ chức từ thiện, "Bạn không thể quảng cáo tất cả những điều tốt đẹp mà bạn có," vậy thì đô la của người tiêu dùng sẽ chảy về đâu?
The third area of discrimination is the taking of risk in pursuit of new ideas for generating revenue. So Disney can make a new $200 million movie that flops, and nobody calls the attorney general. But you do a little $1 million community fundraiser for the poor, and it doesn't produce a 75 percent profit to the cause in the first 12 months, and your character is called into question. So nonprofits are really reluctant to attempt any brave, daring, giant-scale new fundraising endeavors, for fear that if the thing fails, their reputations will be dragged through the mud. Well, you and I know when you prohibit failure, you kill innovation. If you kill innovation in fundraising, you can't raise more revenue; if you can't raise more revenue, you can't grow; and if you can't grow, you can't possibly solve large social problems.
Lĩnh vực phân biệt thứ 3 là việc chấp nhận rủi ro khi theo đuổi mục tiêu gia tăng doanh thu. Disney có thể làm một bộ phim mới trị giá 200 triệu đô la nhưng thất bại, và nhìn chung không ai gọi luật sư cả. Nhung nếu bạn là người gây quỹ 1 triệu đô la từ cộng đồng quyên góp cho người nghèo, và nó không thể tạo ra 75% lợi nhuận cho hoạt động trong vòng 12 tháng đầu, và nhân cách của bạn sẽ bị nghi ngờ. Vì thế những tổ chức phi lợi nhuận thực sự miễn cưỡng khi cố gằng để tạo ra những cố gắng quy mô lớn và táo bạo, gây quỹ tầm cỡ vì sợ rằng nếu điều đó thất bạn, tiếng tăm của họ sẽ bị kéo xuống bùn. Vâng, bạn và tôi đều biết khi bạn cản trở sự thất bại, bạn sẽ giết chết sự đổi mới. Nếu bạn giết chết sự cách tân trong việc gây quỹ, bạn sẽ không thể tạo thêm doanh thu nữa. Nếu bạn không có doanh thu, bạn sẽ không thể phát triển được. Và nếu không thể phát triển, bạn sẽ khong thế giải quyết những vấn đề xã hội khác.
The fourth area is time. So Amazon went for six years without returning any profit to investors, and people had patience. They knew that there was a long-term objective down the line, of building market dominance. But if a nonprofit organization ever had a dream of building magnificent scale that required that for six years, no money was going to go to the needy, it was all going to be invested in building this scale, we would expect a crucifixion.
Điều thứ tư là thời gian. Amazon đã có 6 năm trời không thể tạo ra lợi nhuận cho các nhà đầu tư, và họ đã có kiên nhẫn. Họ biết rằng vẫn còn có một mục tiêu dài hạn trong tương lai trong việc chiếm lĩnh thị trường. Nhung nếu một tổ chức phi lợi nhuận đã từng mang một giấc mơ xây dựng quy mô lớn đòi hỏi 6 năm trời, tiền sẽ không đến được với người nghèo, mà sẽ được đầu tư vào việc xây dựng quy mô đó, chúng ta đều mong chờ một sự bền chắc.
The last area is profit itself. So the for-profit sector can pay people profits in order to attract their capital for their new ideas, but you can't pay profits in a nonprofit sector, so the for-profit sector has a lock on the multi-trillion-dollar capital markets, and the nonprofit sector is starved for growth and risk and idea capital.
Và lĩnh vực thứ 4 là lợi nhuận. Khu vực vị lợi nhuận có thể chi trả lợi nhuận để thu hút vốn đầu tư cho những ý tưởng mới nhưng bạn không thể có lợi nhuận trong khu vực phi lợi nhuận, nên khu vực vị lợi nhuận nắm chìa khóa mở cửa thị trường hàng tỷ đô la, và khu vực phi lợi nhuận thì thèm khát sự phát triển, mạo hiểm và ý tưởng vốn.
Well, you put those five things together -- you can't use money to lure talent away from the for-profit sector; you can't advertise on anywhere near the scale the for-profit sector does for new customers; you can't take the kinds of risks in pursuit of those customers that the for-profit sector takes; you don't have the same amount of time to find them as the for-profit sector; and you don't have a stock market with which to fund any of this, even if you could do it in the first place -- and you've just put the nonprofit sector at an extreme disadvantage to the for-profit sector, on every level. If we have any doubts about the effects of this separate rule book, this statistic is sobering: From 1970 to 2009, the number of nonprofits that really grew, that crossed the $50 million annual revenue barrier, is 144. In the same time, the number of for-profits that crossed it is 46,136. So we're dealing with social problems that are massive in scale, and our organizations can't generate any scale. All of the scale goes to Coca-Cola and Burger King.
Bạn gom 5 điều trên lại với nhau -- bạn không thể dùng tiền để lôi kéo tài năng từ khu vực vị lợi nhuận, bạn không thể quảng cáo gần thước đo mà khu vực vị lợi nhuận tạo ra cho khách hàng mới, bạn không thể mạo hiểm để lôi kéo người tiêu dùng mà bên khu vực vị lợi nhuận làm, bạn không có quỹ thời gian để tìm kiếm khách hàng giống như khu vực có lợi nhuận kia, và bạn cũng không có thị trường chứng khoán để gây quỹ thậm chí nếu ngay từ đầu bạn có cơ hội, bạn vừa đặt khu vực phi lợi nhuận vào vị trí cực kì bất lợi với khu vực vị lợi nhuận ở bất cứ cấp độ nào. Nếu chúng ta còn lo ngại về ảnh hưởng của cuốn sách thống trị riêng rẽ này, số liệu thống kê này có thể giúp: Từ năm 1970 đến năm 2009, số lượng các tổ chức phi lợi nhuận tăng đáng kể, con số vượt ngưỡng doanh thu 50 triệu hàng năm, là 144. Cùng thời gian đó, số lượng tổ chức vị lợi nhuận là 46,136. Có thể nói chúng ta đang giải quyết các vấn đề xã hội đang ngày càng tăng, và các tổ chức của chúng ta không thể tạo ra tầm cỡ nào. Tất cả tầm cỡ đều đổ về Coca-cola và Burger King.
So why do we think this way? Well, like most fanatical dogma in America, these ideas come from old Puritan beliefs. The Puritans came here for religious reasons, or so they said, but they also came here because they wanted to make a lot of money. They were pious people, but they were also really aggressive capitalists, and they were accused of extreme forms of profit-making tendencies, compared to the other colonists. But at the same time, the Puritans were Calvinists, so they were taught literally to hate themselves. They were taught that self-interest was a raging sea that was a sure path to eternal damnation. This created a real problem for these people. Here they've come all the way across the Atlantic to make all this money, but making all this money will get you sent directly to Hell. What were they to do about this?
Vậy tại sao chúng ta nghĩ theo cách này? Giống như hầu hết các giáo điều cuồng tín ở Mỹ, những ý tưởng này xuất phát từ tín ngưỡng của đạo Thanh giáo. Những người theo đạo Thanh giáo đến đây vì lý do tôn giáo, hoặc theo họ nói, nhưng họ cũng đến đây bởi vì họ muốn kiếm nhiều tiền. Họ là những người sùng đạo nhưng cũng là những nhà tư bản táo bạo, và họ bị kết tội là có xu hướng lợi tạo lợi nhuận cực đoan và bị so sánh với những nhà thực dân. Nhưng cùng thời điểm đó, những người theo đạo Thanh giáo cũng là những người theo đạo Can-vin nên họ theo nghĩa đen thì được dạy là ghét chính bản thân mình. Họ được dạy là vụ tư lợi là biển dữ có thể dẫn đến địa ngục mãi mãi. Điều này thực sự là vấn đề đối với họ, phải không? Họ băng qua Đại Tây Dương để kiếm tiền. Kiếm tiền sẽ dẫn họ đi thẳng đến Địa ngục. Họ sẽ phải làm gì?
Well, charity became their answer. It became this economic sanctuary, where they could do penance for their profit-making tendencies -- at five cents on the dollar. So of course, how could you make money in charity if charity was your penance for making money? Financial incentive was exiled from the realm of helping others, so that it could thrive in the area of making money for yourself, and in 400 years, nothing has intervened to say, "That's counterproductive and that's unfair."
Vâng, từ thiện là câu trả lời. Nó trở thành nơi thánh đường kinh tế nơi mà họ có thể rửa sạch tội lỗi về khuynh hướng lợi nhuận ở mức 5 cent với 1 đô la. Thế nên dĩ nhiên, làm thể nào bạn có thể kiếm tiền từ từ thiện nếu từ thiện là tội lỗi của việc kiếm tiền? Động cơ tài chính được tách khỏi quan điểm giúp đỡ người khác vì rằng nó có thể trở thành động cơ kiếm tiền cho chính bản thân bạn, và trong 400 năm, không gì cản trở khi nói rằng, "Điều đó thật phản tác dụng và không công bằng."
Now, this ideology gets policed by this one very dangerous question, which is, "What percentage of my donation goes to the cause versus overhead?" There are a lot of problems with this question. I'm going to just focus on two. First, it makes us think that overhead is a negative, that it is somehow not part of the cause. But it absolutely is, especially if it's being used for growth. Now, this idea that overhead is somehow an enemy of the cause creates this second, much larger problem, which is, it forces organizations to go without the overhead things they really need to grow, in the interest of keeping overhead low.
Bây giờ ý thức hệ này bị cản trở bởi một câu hỏi nguy hiểm, đó là, "Bao nhiêu phần trăm trong tổng số tiền ủng hộ của tôi đi đến mục tiêu trừ đi tổng chi phí?" Có rất nhiều vấn đề với câu hỏi này. Tôi sẽ tập trung vào 2 điều. Đầu tiên, chúng ta đều nghĩ rằng tính tổng chi phí là điều tiêu cực rằng theo một cách nào đó thì nó không nằm trong lý do làm từ thiện. Nhưng nó hoàn toàn đúng, đặc biệt nếu nó được sử dụng cho mục đích phát triển. Bây giờ, tổng chi phí có vẻ là kẻ thù của nguyên nhân. và dẫn đến điều thứ 2, vấn đề lớn hơn, dó là, nếu bắt các tổ chức hoạt động không tính đến chi phí họ thực sự cần phát triển trong lợi ích của việc giảm chi phí.
So we've all been taught that charities should spend as little as possible on overhead things like fundraising under the theory that, well, the less money you spend on fundraising, the more money there is available for the cause. Well, that's true if it's a depressing world in which this pie cannot be made any bigger. But if it's a logical world in which investment in fundraising actually raises more funds and makes the pie bigger, then we have it precisely backwards, and we should be investing more money, not less, in fundraising, because fundraising is the one thing that has the potential to multiply the amount of money available for the cause that we care about so deeply.
Chúng ta đã được dạy là từ thiện chỉ nên chú trọng tối thiểu vào những chi tiêu như gây quỹ theo lý thuyết cho rằng, bạn càng tiêu ít tiền vào việc gây quỹ, thì bạn sẽ có nhiều tiền hơn cho việc từ thiện đó. Điều này có lẽ sẽ đúng nếu đây là một thể giới mỏi mệt nơi mà một miếng bánh không thể làm cho to hơn. Nhưng nếu đây là một thế giới lý luận thực tế nơi mà đầu tư vào gây quỹ thực sự làm tăng số tiền ủng hộ và làm cho miếng bánh to hơn, thì chúng ta chính xác đã đi ngược và chúng ta nên đầu tư nhiều hơn vào tiền, không ít hơn, vào gây quỹ, bởi vì gây quỹ là một việc có tiềm năng nhân lên số tiền sẵn có cho mục tiêu mà chúng ta thực sự quan tâm.
I'll give you two examples. We launched the AIDSRides with an initial investment of 50,000 dollars in risk capital. Within nine years, we had multiplied that 1,982 times, into 108 million dollars after all expenses, for AIDS services. We launched the breast cancer three-days with an initial investment of 350,000 dollars in risk capital. Within just five years, we had multiplied that 554 times, into 194 million dollars after all expenses, for breast cancer research. Now, if you were a philanthropist really interested in breast cancer, what would make more sense: go out and find the most innovative researcher in the world and give her 350,000 dollars for research, or give her fundraising department the 350,000 dollars to multiply it into 194 million dollars for breast cancer research? 2002 was our most successful year ever. We netted for breast cancer alone, that year alone, 71 million dollars after all expenses. And then we went out of business, suddenly and traumatically.
Tôi sẽ đưa ra 2 ví dụ. Chúng tôi đưa vào hoạt động AIDSRides với số đầu tư ban đầu là 50.000 đô la trong vốn rủi ro. Trong vòng 9 năm, chúng tôi nhân số tiền lên đến 1.982 lần thành 108 triệu đô la sau khi đã trừ đi chi phí cho các dịch vụ AIDS. Chúng tôi tiến hành chiến dịch 3 ngày cho bênh ung thư vú với số vốn là 350.000 đô là trong vốn rủi ro. Trong vòng chỉ 5 năm, chúng tô nhân số tiền lên 554 lần thành 194 triệu đô la sau các chi phí cho việc nghiên cứu về ung thư vú. Bây giờ, nếu bạn là một nhà từ thiện thực sự quan tâm về bệnh ung thư vú, điều gì sẽ có lý hơn: đi ra ngoài và tìm kiếm nhà nghiên cứu tân tiến nhất trên thế giới và chi 350.000 đô la cho việc nghiên cứu, hay là đưa cho phòng gây quỹ của cô ấy số tiền đó để nhân nó lên thành 194 triệu đô la cho việc nghiên cứu? 2002 là năm thành công nhất của chúng tôi. Chúng tôi đã thu về được số tiền cho ung thư vú, riêng năm đó, là 71 triệu đô la sau khi trừ đi các chi phí khác. Và rồi chúng tôi ngừng kinh doanh một cách bất ngờ và đau đớn.
Why? Well, the short story is, our sponsors split on us. They wanted to distance themselves from us because we were being crucified in the media for investing 40 percent of the gross in recruitment and customer service and the magic of the experience, and there is no accounting terminology to describe that kind of investment in growth and in the future, other than this demonic label of "overhead." So on one day, all 350 of our great employees lost their jobs ... because they were labeled "overhead." Our sponsor went and tried the events on their own. The overhead went up. Net income for breast cancer research went down by 84 percent, or 60 million dollars, in one year.
Tại sao? Nói ngắn gọn là, nhà bảo trợ muốn tách chúng tôi. Họ muốn giữ khoáng cách giữa họ và chúng tôi vì chúng tôi đang bị chỉ trích trên các phương tiện truyền thông do đã đầu tư 40% tổng số doanh thu cho việc tuyển dụng, dịch vụ khách hàng, và điều kì diệu của kinh nghiệm và không có thuật ngữ kế toán nào có thể miêu tả sự đầu tư cho phát triển và tương lai này, hơn là nhãn hiệu quỷ quái là chi phi. Vì vậy vào 1 ngày, tất cả 350 nhân viên tuyệt vời của chúng tôi đều mất việc bởi vì họ bị dán nhãn là chi phí. Nhà bảo trợ của chúng tôi đã đi và thử tự làm các sự kiện. Chi phí gia tăng. Thu nhập ròng cho việc nghiên cứu ung thư vú giảm đi 84%, hay mất 60 triệu đô la trong vòng 1 năm.
This is what happens when we confuse morality with frugality. We've all been taught that the bake sale with five percent overhead is morally superior to the professional fundraising enterprise with 40 percent overhead, but we're missing the most important piece of information, which is: What is the actual size of these pies? Who cares if the bake sale only has five percent overhead if it's tiny? What if the bake sale only netted 71 dollars for charity because it made no investment in its scale and the professional fundraising enterprise netted 71 million dollars because it did? Now which pie would we prefer, and which pie do we think people who are hungry would prefer?
Đây là điều xảy ra khi chúng ta nhầm lẫn gữa dạo đức và sự hà tiện. Chúng ta đều được dạy rằng bán cái lò nướng với 5% chi phí thì về phương diện đạo đức sẽ hơn một doanh nghiệp gây gũy với 40% tổng chi phí nhưng chúng ta đang bỏ quên một mẩu thông tin quan trọng đó là, kích cỡ thực sự của những miếng bánh này là bao nhiêu? Ai quan tâm nếu cái lò nướng bán với 5% chi phí nếu nó nhỏ? Điều gì sẽ xảy ra nếu bán cái lò nướng chỉ thu được 71 đô la ròng cho từ thiện bởi nó không đầu tư vào quy mô và doanh nghiệp gây gũy chuyên nghiệp thu được 71 triệu đô ròng bởi vì họ đã làm như thế? Bây giờ thì bạn thích miếng bánh nào hơn, và miếng bánh nào bạn nghĩ người đói sẽ thích hơn?
Here's how all of this impacts the big picture. I said that charitable giving is two percent of GDP in the United States. That's about 300 billion dollars a year. But only about 20 percent of that, or 60 billion dollars, goes to health and human services causes. The rest goes to religion and higher education and hospitals, and that 60 billion dollars is not nearly enough to tackle these problems. But if we could move charitable giving from two percent of GDP, up just one step to three percent of GDP, by investing in that growth, that would be an extra 150 billion dollars a year in contributions, and if that money could go disproportionately to health and human services charities, because those were the ones we encouraged to invest in their growth, that would represent a tripling of contributions to that sector. Now we're talking scale. Now we're talking the potential for real change. But it's never going to happen by forcing these organizations to lower their horizons to the demoralizing objective of keeping their overhead low.
Đây là cách mà tất cả những điều này ảnh hưởng đến bức tranh lớn. Tôi đã nói rằng làm từ thiện là 2% trên tổng số GDP ở Mỹ. Nó tầm 300 tỷ đô la một năm. Nhưng chỉ tầm 20% trong số đó, hay 60 tỷ đô la, đi đến những mục tiêu sức khỏe và dịch vụ. Phần còn lại đi đến giáo dục cao học và tôn giáo và bệnh viện và 60 tỷ đô la đó không thực sự đủ để giải quyết những vấn đề này. Nhưng nếu chúng ta có thể tăng việc làm từ thiện từ 2% GDP lên chỉ một bước đến 3% GDP, bằng cách đầu tư vào phát triển, như vậy sẽ có thêm 150 tỷ đô la một năm góp phần và nếu số tiền đó có thể sử dụng không đúng theo tỷ lệ cân đối giữa sức khỏe và các tổ chức từ thiện phục vụ con người, bởi vì đây là những điều mà chúng ta khuyến khích đầu tư phát triển, nó sẽ thể hiện sự đóng góp nhân ba cho khu vực đó. Bây giờ chúng ta đang nói về quy mô. Giờ chúng ta đang nói về tiềm năng cho sự thay đổi thực sự. Nhưng điều này sẽ không bao giờ xảy ra nếu ép những tổ chức này hạ thấp tầm nhìn xuống để giữ mục tiêu giảm chi phí trong mục tiêu.
Our generation does not want its epitaph to read, "We kept charity overhead low."
Thế hệ của chúng ta không muốn bia mộ của mình (bị) ghi là, "Chúng tôi đã giữ chi phí từ thiện thấp,"
(Laughter)
(Cười) (Vỗ tay)
(Applause)
We want it to read that we changed the world, and that part of the way we did that was by changing the way we think about these things.
Chúng ta muốn nó được ghi là chúng ta đã thay đổi thế giới, và rằng một phần chúng ta làm đó là thay đổi cách chúng ta nghĩ về những điều này.
So the next time you're looking at a charity, don't ask about the rate of their overhead. Ask about the scale of their dreams, their Apple-, Google-, Amazon-scale dreams, how they measure their progress toward those dreams, and what resources they need to make them come true, regardless of what the overhead is. Who cares what the overhead is if these problems are actually getting solved?
Vậy nên lần tới khi bạn nhìn vào một tổ chức từ thiện, đừng hỏi về tỷ lệ chi phí của họ. Hãy hỏi về quy mô hoài bão của họ, những giấc mơ mang tầm cỡ Apple, Goodle, Amazon, họ đo tiến trình đi đến với ước mơ của mình ra sao và nguồn lực nào họ cần để biến chúng thành hiện thực cho dù chi phí có là bao nhiêu. Ai sẽ quan tâm về chi phí nếu những vấn đề này có thể thực sự giải quyết được?
If we can have that kind of generosity -- a generosity of thought -- then the non-profit sector can play a massive role in changing the world for all those citizens most desperately in need of it to change. And if that can be our generation's enduring legacy -- that we took responsibility for the thinking that had been handed down to us, that we revisited it, we revised it, and we reinvented the whole way humanity thinks about changing things, forever, for everyone -- well, I thought I would let the kids sum up what that would be.
Nếu chúng ta có thể có sự hào phóng đó, sự hào phóng trong tư tưởng, thì khu vực phi lợi nhuận có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thay đổi thế giới cho tất cả những công dân thấy sự cần thiết thực sự đề phát triển. Và nếu nó có thể là di sản lâu dài để lại từ thế hệ của chúng ta, điều mà chúng ta chịu trách nhiệm cho tư tưởng đã được truyền lại cho chúng ta, chúng ta tái thực hiện nó, chúng ta sửa đổi nó, và sáng chế lại cách mà con người nghĩ về thay đổi chúng, mãi mãi, đối với tất cả mọi người, vâng, tôi nghĩ là tôi sẽ để những đứa trẻ tóm tắt lại điều đó sẽ như thế nào.
Annalisa Smith-Pallotta: That would be
Annalisa Smith-Pallota: Đó sẽ là --
Sage Smith-Pallotta: a real social
Sage Smith-Pallota: --một xã hội thực sự --
Rider Smith-Pallotta: innovation.
Rider Smith-Pallotta: - tiến bộ.
Dan Pallotta: Thank you very much.
Dan Pallotta: Cảm ơn các bạn rất nhiều. Xin cảm ơn.
Thank you.
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you.
Xin cảm ơn. (Vỗ tay)
(Applause)