We all make decisions every day; we want to know what the right thing is to do -- in domains from the financial to the gastronomic to the professional to the romantic. And surely, if somebody could really tell us how to do exactly the right thing at all possible times, that would be a tremendous gift.
Hàng ngày tất cả chúng ta phải đưa ra các quyết định, chúng ta muốn biết cái gì là đúng và nên làm -- trong các lĩnh vực từ tài chính , ẩm thực, nghề nghiệp cho tới chuyện tình cảm. Và chắc chắn, nếu ai đó sẵn sàng chỉ cho chúng ta làm điều đúng đắn vào đúng thời điểm, thì đó sẽ là món quà quý giá.
It turns out that, in fact, the world was given this gift in 1738 by a Dutch polymath named Daniel Bernoulli. And what I want to talk to you about today is what that gift is, and I also want to explain to you why it is that it hasn't made a damn bit of difference.
Thực tế thì hóa ra thế giới đã nhận được món quà này vào năm 1738 bởi 1 học giả người Hà Lan tên Daniel Bernoulli. Và hôm nay tôi muốn nói với bạn về món quà đó và tôi cũng muốn giải thích tại sao nó chẳng làm nên sự khác biệt gì cả.
Now, this is Bernoulli's gift. This is a direct quote. And if it looks like Greek to you, it's because, well, it's Greek. But the simple English translation -- much less precise, but it captures the gist of what Bernoulli had to say -- was this: The expected value of any of our actions -- that is, the goodness that we can count on getting -- is the product of two simple things: the odds that this action will allow us to gain something, and the value of that gain to us.
Vâng, đây là món quà của Bernoulli. Đây là đoạn trích trực tiếp. Và nếu bạn thấy nó giống tiếng Hy Lạp thì đúng thế, đó là tiếng Hy Lạp Nhưng bản dịch tiếng Anh đơn giản -- ít chính xác hơn nhưng nó bao quát được ý chính của Bernoulli -- là như thế này: Giá trị trông đợi của bất cứ hành động nào của con người là sự tốt đẹp chúng ta có thể dựa vào-- là sản phẩm của 2 thứ giản đơn: số khả năng mà hành động cho phép chúng ta đạt được thứ gì đó, và giá trị chúng ta đạt được.
In a sense, what Bernoulli was saying is, if we can estimate and multiply these two things, we will always know precisely how we should behave.
Theo lập luận, điều Bernoulli đã nói là, nếu chúng ta có thể ước đoán và nhân 2 yếu tố này lên chúng ta sẽ luôn biết chính xác chúng ta nên cư xử thế nào.
Now, this simple equation, even for those of you who don't like equations, is something that you're quite used to. Here's an example: if I were to tell you, let's play a little coin toss game, and I'm going to flip a coin, and if it comes up heads, I'm going to pay you 10 dollars, but you have to pay four dollars for the privilege of playing with me, most of you would say, sure, I'll take that bet. Because you know that the odds of you winning are one half, the gain if you do is 10 dollars, that multiplies to five, and that's more than I'm charging you to play. So, the answer is, yes. This is what statisticians technically call a damn fine bet.
Đây là 1 biểu thức đơn giản, thậm chí cho những người không thích các biểu thức, nó khá quen thuộc Đây là 1 ví dụ: nếu tôi nói với bạn, hãy chơi 1 trò tung đồng xu, và tôi sẽ tung 1 đồng xu, nếu ngửa, tôi sẽ trả bạn 10$, nhưng bạn sẽ phải trả 4$ vì để có cơ hội chơi với tôi, hầu hết các bạn sẽ nói, đồng ý, tôi sẽ chơi. Vì bạn biết cơ hội bạn thắng là 50-50, nếu bạn thắng bạn sẽ kiếm được 10$, số đó nhân với 5, số tiền sẽ nhiều hơn số tiền tôi đòi bạn trả để chơi với tôi. Vậy, câu trả lời là " đồng ý". Đây là điều các nhà thống kê gọi đó là 1 vụ cá cược hời.
Now, the idea is simple when we're applying it to coin tosses, but in fact, it's not very simple in everyday life. People are horrible at estimating both of these things, and that's what I want to talk to you about today.
Nào, ý tưởng thật đơn giản khi chúng ta gắn nó với việc tung đồng xu, nhưng thực tế, trong cuộc sống hàng ngày nó không hề đơn giản. Mọi người rất kém trong việc ước lượng 2 yếu tố này, và đó là vấn đề tôi muốn nói ngày hôm nay.
There are two kinds of errors people make when trying to decide what the right thing is to do, and those are errors in estimating the odds that they're going to succeed, and errors in estimating the value of their own success. Now, let me talk about the first one first. Calculating odds would seem to be something rather easy: there are six sides to a die, two sides to a coin, 52 cards in a deck. You all know what the likelihood is of pulling the ace of spades or of flipping a heads. But as it turns out, this is not a very easy idea to apply in everyday life. That's why Americans spend more -- I should say, lose more -- gambling than on all other forms of entertainment combined. The reason is, this isn't how people do odds.
Có 2 loại lỗi khi mọi người cố gắng quyết định điều gì là đúng nên làm, và đó là những lỗi sai trong tính toán số cơ hội họ sẽ thành công, và các lỗi sai trong tính toán giá trị của thành công của riêng mình. Bây giờ tôi xin nói về yếu tố đầu tiên. Tính toán khả năng thành công có vẻ khá dễ dàng: 1 viên súc sắc có 6 mặt, 1 đồng xu có 2 mặt, 1 bộ bài có 52 quân. Bạn biết khả năng rút ra quân át bích hay tung mặt ngửa là bao nhiêu. Nhưng hóa ra để áp dụng ý tưởng này vào thực tế không dễ tí nào. Nó lý giải tại sao người Mỹ dành nhiều-- tôi nên nói là, thua nhiều--ván cược hơn tất cả các loại hình giải trí cộng lại. Lý do là, đó không phải là mọi người ước đoán cơ hội thành công như thế nào
The way people figure odds requires that we first talk a bit about pigs. Now, the question I'm going to put to you is whether you think there are more dogs or pigs on leashes observed in any particular day in Oxford. And of course, you all know that the answer is dogs. And the way that you know that the answer is dogs is you quickly reviewed in memory the times you've seen dogs and pigs on leashes. It was very easy to remember seeing dogs, not so easy to remember pigs. And each one of you assumed that if dogs on leashes came more quickly to your mind, then dogs on leashes are more probable. That's not a bad rule of thumb, except when it is.
Cách mọi người tính toán cơ hội yêu cầu chúng ta nên nói về những con heo trước hết. Câu hỏi tôi đưa ra cho các bạn là liệu bạn có nghĩ có nhiều chó hoặc lợn đeo xích được quan sát trong 1 ngày nhất định ở Oxford. và tất nhiên bạn đều biết câu trả lời là chó. và bạn biết câu trả lời là chó vì bạn nhanh chóng kiểm tra trí nhớ những lần bạn trông thấy những con chó và lợn đeo xích. Thật dễ để nhớ ra là đã thấy những con chó, còn lợn thì chẳng mấy khi. Và mỗi bạn đều cho rằng nếu số chó đeo xích khiến bạn nhớ đến nhanh hơn, thì số chó đeo xích sẽ có khả năng hơn. Đó không phải quy luật vận dụng tồi, ngoại trừ đôi lúc.
So, for example, here's a word puzzle. Are there more four-letter English words with R in the third place or R in the first place? Well, you check memory very briefly, make a quick scan, and it's awfully easy to say to yourself, Ring, Rang, Rung, and very hard to say to yourself, Pare, Park: they come more slowly. But in fact, there are many more words in the English language with R in the third than the first place. The reason words with R in the third place come slowly to your mind isn't because they're improbable, unlikely or infrequent. It's because the mind recalls words by their first letter. You kind of shout out the sound, S -- and the word comes. It's like the dictionary; it's hard to look things up by the third letter. So, this is an example of how this idea that the quickness with which things come to mind can give you a sense of their probability --
Ví dụ, đây là 1 trò giải ô chữ. Số từ tiếng Anh 4 âm tiết có chữ R ở vị trí thứ 3 có nhiều hơn số từ có chữ R ở vị trí số 1? Bạn kiểm tra trí nhớ, quét rất nhanh và thật dễ để nhớ ra, Ring, Rang, Rung, và rất khó để nghĩ ra, Pare, Park: Chúng đến chậm hơn. Nhưng thực ra có nhiều từ trong tiếng Anh có chữ R ở vị trí thứ 3 hơn thứ nhất. Lý do những từ với chữ R ở vị trí thứ 3 mà bạn nhớ ra chậm hơn không phải vì chúng ít dùng. Đó là vì bộ nhớ khơi gợi lại những từ ngữ bởi chữ cái đầu. Bạn nói ra âm S- và bạn sẽ nhớ ra từ vựng. Nó giống 1 cuốn từ điển; rất khó để tra với chữ cái thứ 3 Vây, đây là ví dụ về sự nhang chóng với những thứ bạn nhớ ra có thể cho bạn biết về độ xác suất của chúng--
how this idea could lead you astray. It's not just puzzles, though. For example, when Americans are asked to estimate the odds that they will die in a variety of interesting ways -- these are estimates of number of deaths per year per 200 million U.S. citizens. And these are just ordinary people like yourselves who are asked to guess how many people die from tornado, fireworks, asthma, drowning, etc. Compare these to the actual numbers.
và làm sao ý tưởng này có thể khiến bạn lạc đường. Nó không chỉ là câu đố. Ví dụ, khi người Mỹ được hỏi để ước đoán khả năng họ sẽ chết theo các cách thú vị khác nhau-- đây là ước lượng số lượng tử vong hàng năm trong 200 triệu công dân Mỹ. Và đây chỉ là những người bình thường như chính bản thân bạn được phognr vấn. để đoán xem có bao nhiêu người chết vì vòi rồng, pháo hoa, hen suyễn, chết đuối... Hãy so sánh với số liệu thực.
Now, you see a very interesting pattern here, which is first of all, two things are vastly over-estimated, namely tornadoes and fireworks. Two things are vastly underestimated: dying by drowning and dying by asthma. Why? When was the last time that you picked up a newspaper and the headline was, "Boy dies of Asthma?" It's not interesting because it's so common. It's very easy for all of us to bring to mind instances of news stories or newsreels where we've seen tornadoes devastating cities, or some poor schmuck who's blown his hands off with a firework on the Fourth of July. Drownings and asthma deaths don't get much coverage. They don't come quickly to mind, and as a result, we vastly underestimate them.
Nào bạn thấy 1 mẫu rất thú vị ở đây, trước hết, 2 thứ được ước lượng quá mức khủng khiếp, cụ thể là vòi rồng và pháo hoa; 2 thứ bị đánh giá thấp nhất: chết đuối và chết vì hen suyễn. Tại sao vây? Lần gần nhất bạn đọc báo với tiêu đề " Cậu bé chết vì hen suyễn?" là khi nào? Nội dung bài báo đó không hay vì nó quá bình thường. Chúng ta rất dễ dàng nhớ ra những ví dụ của các câu chuyện mới hoặc phim thời sự, chúng ta thấy vòi rồng tàn phá các thành phố hay 1 tay ngốc nào đó mất tay vì nghịch pháo hoa ngày 4/7. Chết đuối và hen suyễn không được đưa tin nhiều. Chúng ta không nhanh chóng nhớ ra và kết quả là phần lớn chúng ta đánh giá thấp chúng.
Indeed, this is kind of like the Sesame Street game of "Which thing doesn't belong?" And you're right to say it's the swimming pool that doesn't belong, because the swimming pool is the only thing on this slide that's actually very dangerous. The way that more of you are likely to die than the combination of all three of the others that you see on the slide.
Thực vậy, điều này giống trò chơi Sesame Street " Cái gì không thuộc về?" Và bạn đúng khi nói cái bể bơi không thuộc về, vì nó là cái duy nhất trên slide thực sự nguy hiểm. Đó là nguyên nhân dẫn đến nhiều cái chết hơn cả 3 cái còn lại trên slide cộng lại
The lottery is an excellent example, of course -- an excellent test-case of people's ability to compute probabilities. And economists -- forgive me, for those of you who play the lottery -- but economists, at least among themselves, refer to the lottery as a stupidity tax, because the odds of getting any payoff by investing your money in a lottery ticket are approximately equivalent to flushing the money directly down the toilet -- which, by the way, doesn't require that you actually go to the store and buy anything.
Xổ số là 1 ví dụ hay, dĩ nhiên -- 1 tình huống kiểm tra hoàn hảo về khả năng tính toán xác suất của mọi người. Và các nhà kinh tế học -- thứ lỗi cho tôi, những bạn chơi xổ số-- trừ các nhà kinh tế, ít nhất trong số họ, cho trò xổ số là đóng thuế ngu vì khả năng lấy lại vốn bằng cách đầu tư tiền vào vé số tương đương với xả tiền vào toilet-- điều mà không đòi hỏi rằng bạn thực sự đến cửa hàng và mua bất cứ thứ gì.
Why in the world would anybody ever play the lottery? Well, there are many answers, but one answer surely is, we see a lot of winners. Right? When this couple wins the lottery, or Ed McMahon shows up at your door with this giant check -- how the hell do you cash things that size, I don't know. We see this on TV; we read about it in the paper. When was the last time that you saw extensive interviews with everybody who lost? Indeed, if we required that television stations run a 30-second interview with each loser every time they interview a winner, the 100 million losers in the last lottery would require nine-and-a-half years of your undivided attention just to watch them say, "Me? I lost." "Me? I lost." Now, if you watch nine-and-a-half years of television -- no sleep, no potty breaks -- and you saw loss after loss after loss, and then at the end there's 30 seconds of, "and I won," the likelihood that you would play the lottery is very small.
Tại sao trên thế giới mọi người vẫn chơi xổ số? Có rất nhiều câu trả lời, nhưng , 1 câu trả lời chắc chắn là chúng ta thấy rất nhiều người thắng. Đúng không? Khi 2 người này thắng xổ số hoặc Ed McMahon đứng trước cả nhà bạn với 1 tấm séc bự chảng-- làm thế nào mà bạn đổi được nó sang tiền mặt, tôi không biết. Chúng ta thấy trên TV, chúng ta đọc trên báo. Lần gần đây nhất bạn xem 1 cuộc phỏng vấn mở rộng với người thua cuộc là khi nào? Thực vậy, nếu chúng ta yêu cầu đài truyền hình cho phát cuộc phỏng vấn 30 giây với mỗi người thua cuộc xen kẽ với cuộc phỏng vấn người thắng cuộc, thì 100 người thua trong đợt xổ số gần nhất sẽ có 9 năm rưỡi để bạn chỉ chú ý xem họ nói câu, " Tôi á? tôi thua." " Tôi á? Tôi thua." Nếu bạn xem TV 9,5 năm -- không ngủ, không nghỉ--và bạn xem hết người thua này đến người thua khác và cuối cùng có 30 giây của , " và tôi đã thắng," thì khả năng bạn sẽ chơi xổ số sẽ rất nhỏ.
Look, I can prove this to you: here's a little lottery. There's 10 tickets in this lottery. Nine of them have been sold to these individuals. It costs you a dollar to buy the ticket and, if you win, you get 20 bucks. Is this a good bet? Well, Bernoulli tells us it is. The expected value of this lottery is two dollars; this is a lottery in which you should invest your money. And most people say, "OK, I'll play."
nhìn này, tôi có thể chứng minh điều này cho bạn: đây là 1 trò xổ số nhỏ Có 10 vé số. 9 cái đã bán cho những người này. Giá mỗi vé là 1$ và nếu thắng, bạn có 20$. Một cuộc cá cược hời phải không? Bernoulli nói với chúng ta: giá trị trông đợi cả trò xổ số này là 2$; đây là trò xổ số bạn nên đầu tư tiền. và hầu hết mọi người nói, " Ok, tôi sẽ trả."
Now, a slightly different version of this lottery: imagine that the nine tickets are all owned by one fat guy named Leroy. Leroy has nine tickets; there's one left. Do you want it? Most people won't play this lottery. Now, you can see the odds of winning haven't changed, but it's now fantastically easy to imagine who's going to win. It's easy to see Leroy getting the check, right? You can't say to yourself, "I'm as likely to win as anybody," because you're not as likely to win as Leroy. The fact that all those tickets are owned by one guy changes your decision to play, even though it does nothing whatsoever to the odds.
Một kiểu khác đôi chút với trò xổ số này: Hãy tưởng tượng 9 vé đều được mua bởi 1 anh mập tên Leroy. Leroy có 9 vé; chỉ 1 vé còn lại. Bạn có muốn mua nó không? Đa số không ai mua hết. Bạn có thể thấy khả năng chiến thắng không thay đổi, nhưng bây giờ thật quá dễ để đoán ai sẽ thắng. Chẳng phải Leroy sẽ có tấm séc sao? Bạn không thể nói, " Tôi có thể trúng số như mọi người khác," vì bạn không thể thắng như Leroy. Sự thật là tất cả các vé bán cho 1 người thay đổi quyết định chơi của bạn, kể cả nó không ảnh hưởng gì đến cơ hội thắng.
Now, estimating odds, as difficult as it may seem, is a piece of cake compared to trying to estimate value: trying to say what something is worth, how much we'll enjoy it, how much pleasure it will give us. I want to talk now about errors in value. How much is this Big Mac worth? Is it worth 25 dollars? Most of you have the intuition that it's not -- you wouldn't pay that for it.
Khó như ước lượng khả năng mà còn dễ như ăn kẹo so với ước lượng giá trị: cố gắng đoán giá trị của cái gì đó, chúng ta hưởng lợi gì từ nó, chúng ta vui bao nhiêu nếu có nó. Tôi muốn nói về lỗi sai trong giá trị. Chiếc hamburger Big Mac này đáng giá bao nhiêu? 25 $? Đa số các bạn có trực giác mách bảo là không phải-- và bạn sẽ không mua với cái giá đó.
But in fact, to decide whether a Big Mac is worth 25 dollars requires that you ask one, and only one question, which is: What else can I do with 25 dollars? If you've ever gotten on one of those long-haul flights to Australia and realized that they're not going to serve you any food, but somebody in the row in front of you has just opened the McDonald's bag, and the smell of golden arches is wafting over the seat, you think, I can't do anything else with this 25 dollars for 16 hours. I can't even set it on fire -- they took my cigarette lighter! Suddenly, 25 dollars for a Big Mac might be a good deal.
Nhưng để quyết định liệu 1 chiếc burger Big Mac đáng giá 25$ hay không đòi hỏi bạn đặt ra 1 câu hỏi duy nhất, và chỉ một câu, đó là : Tôi có thể làm gì khác với 25$? Nếu bạn từng ngồi trên 1 chuyến bay dài tới Úc và nhận ra họ không phục vụ thức ăn, nhưng ai đó ở hàng ghế trước đang mở 1 gói McDonald, và mùi thơm của biểu tượng vòm cong vàng đang lan tỏa khắp ghế, bạn nghĩ, bạn chẳng thể làm gì khác với 25$ trong suốt 16 tiếng. Tôi chẳng thể đốt nó nữa-- họ đa thu cái bật lửa rồi còn đâu. Đột nhiên, 25$ cho 1 chiếc Big Mac là 1 món hời.
On the other hand, if you're visiting an underdeveloped country, and 25 dollars buys you a gourmet meal, it's exorbitant for a Big Mac. Why were you all sure that the answer to the question was no, before I'd even told you anything about the context? Because most of you compared the price of this Big Mac to the price you're used to paying. Rather than asking, "What else can I do with my money," comparing this investment to other possible investments, you compared to the past. And this is a systematic error people make. What you knew is, you paid three dollars in the past; 25 is outrageous.
Mặt khác, nếu bạn đang thăm 1 nước chưa phát triển, và với 25 $ bạn mua 1 bữa ăn ngon, thì thật cắt cổ nếu chỉ mua 1 chiếc burger Big Mac. Tại sao tất cả các bạn đã chắc chắn câu trả lời là không, trước khi tôi nói với bạn về tình huống? Vì hầu hết đều so sánh giá chiếc burger Big Mac này với giá bạn thường trả. Chứ bạn không hỏi, " Tôi có thể làm gì khác với số tiền đó." so sánh sự đầu tư này với các vụ đầu tư khác, bạn so sánh với quá khứ. Và đây là 1 lỗi hệ thống mọi người hay mắc. Những gì bạn biết là bạn đã trả 3$ trong quá khứ, nên 25$ thì không chấp nhận được.
This is an error, and I can prove it to you by showing the kinds of irrationalities to which it leads. For example, this is, of course, one of the most delicious tricks in marketing, is to say something used to be higher, and suddenly it seems like a very good deal. When people are asked about these two different jobs: a job where you make 60K, then 50K, then 40K, a job where you're getting a salary cut each year, and one in which you're getting a salary increase, people like the second job better than the first, despite the fact they're all told they make much less money. Why? Because they had the sense that declining wages are worse than rising wages, even when the total amount of wages is higher in the declining period. Here's another nice example.
Đây là 1 lỗi và tôi có thể chứng minh với bạn bằng cách thể hiện các loại phi lý nó dẫn đến. Ví dụ, đây là 1 trong những gian lận phổ biến trong ngành marketing, nói sản phẩm trước đó luôn có giá cao hơn và đương nhiên nó trở thành 1 món hời. Khi mọi người được hỏi về 2 công việc khác nhau này: 1 công việc bạn kiếm 60K, sau đó 50K, sau đó 40K, 1 công việc mà bạn sẽ bị cắt lương mỗi năm, và 1 công việc bạn được tăng lương mỗi năm, mọi người thích công việc thứ 2 hơn thứ 1 bất kể việc họ được biết sẽ kiếm được ít tiền hơn. Tại sao vậy? Vì họ cảm giác giảm lương tệ hơn tăng lương, thậm chí khi tổng số lương cao hơn trong thời gian giảm. Đây là 1 ví dụ khác.
Here's a $2,000 Hawaiian vacation package; it's now on sale for 1,600. Assuming you wanted to go to Hawaii, would you buy this package? Most people say they would. Here's a slightly different story: $2,000 Hawaiian vacation package is now on sale for 700 dollars, so you decide to mull it over for a week. By the time you get to the ticket agency, the best fares are gone -- the package now costs 1,500. Would you buy it? Most people say, no. Why? Because it used to cost 700, and there's no way I'm paying 1,500 for something that was 700 last week.
Đây là 1 chuyến du lịch trọn gói Hawai 2,000$; bây giờ nó có giá 1,600. Giả sử bạn đã muốn đi Hawaii, bạn sẽ mua chuyến đi này chứ? Hầu hết mọi người sẽ nói có. Đây là 1 câu chuyện khác 1 chút: 1 chuyến du lịch Hawaii trọn gói giá 2,000$ bây giờ chỉ còn 700$, vậy bạn quyết định suy nghĩ kỹ trong 1 tuần Trước khi bạn đến nơi bán vé, giá rẻ nhất đã không còn-- chuyến đi trọn gói bây giờ giá 1,500$. Bạn sẽ mua chứ? Đa số sẽ nói, không. Tại sao? Vì trước đây nó có giá 700$, thế nên tôi chẳng dại mà trả 1,500$ cho cái có giá 700$ tuần trước.
This tendency to compare to the past is causing people to pass up the better deal. In other words, a good deal that used to be a great deal is not nearly as good as an awful deal that was once a horrible deal.
Xu hướng so sánh với quá khứ khiến mọi người lỡ mất món hời hơn. Nói cách khác, một vụ hời trước đó từng rất béo bở thì không tốt bằng 1 vụ chẳng ra gì mà đã từng tệ hơn.
Here's another example of how comparing to the past can befuddle our decisions. Imagine that you're going to the theater. You're on your way to the theater. In your wallet you have a ticket, for which you paid 20 dollars. You also have a 20-dollar bill. When you arrive at the theater, you discover that somewhere along the way you've lost the ticket. Would you spend your remaining money on replacing it? Most people answer, no. Now, let's just change one thing in this scenario. You're on your way to the theater, and in your wallet you have two 20-dollar bills. When you arrive you discover you've lost one of them. Would you spend your remaining 20 dollars on a ticket? Well, of course, I went to the theater to see the play. What does the loss of 20 dollars along the way have to do?
Đây là 1 ví dụ khác về làm thế nào mà so sánh với quá khứ có thể làm hỏng quyết định của chúng ta. Hãy tưởng tượng bạn đang tới rạp hát. Bạn đang trên đường đi. Trong ví có 1 vé xem mà bạn đã trả 20$. Bạn cũng có 1 đồng 20$ nữa. Khi đến rạp hát, Bạn phát hiện ra trên đường đi bạn đã đánh rơi cái vé. Bạn có tiêu số tiền đang có để mua vé khác không? Đa số sẽ trả lời, không. Nào, hãy thay đổi 1 thứ trong kịch bản này. Bạn đang trên đường tới rạp hát và trong ví có 2 tờ 20$. Khi đến nơi bạn phát hiện ra là đã đánh rơi 1 tờ. Bạn có lấy 20$ còn lại để mua vé không? Dĩ nhiên: Tôi đến rạp hát để xem kịch cơ mà. Vậy việc mất tờ 20$ dọc dường phải làm sao?
Now, just in case you're not getting it, here's a schematic of what happened, OK? (Laughter) Along the way, you lost something. In both cases, it was a piece of paper. In one case, it had a U.S. president on it; in the other case it didn't. What the hell difference should it make? The difference is that when you lost the ticket you say to yourself, I'm not paying twice for the same thing. You compare the cost of the play now -- 40 dollars -- to the cost that it used to have -- 20 dollars -- and you say it's a bad deal. Comparing with the past causes many of the problems that behavioral economists and psychologists identify in people's attempts to assign value. But even when we compare with the possible, instead of the past, we still make certain kinds of mistakes. And I'm going to show you one or two of them.
Nào, đề phòng trường hợp bạn không hiểu, đây là 1 kế hoạch cho diễn biến,OK? (Tiếng cười) Dọc đường, bạn đánh rơi cái gì đó. Trong cả 2 tình huống, nó là 1 mẩu giấy. Trong 1 tình huống, nó có hình tổng thống Mỹ trên đó, tình huống còn lại thì không. Vậy điểm khác biệt là gì? Khác ở chỗ khi bạn đánh mất chiếc vé bạn tự nhủ, Tôi sẽ không trả 2 lần tiền cho cùng 1 thứ. Bạn so sánh giá của vở kịch--40$-- để trả cho cái trước đó giá 20$--và bạn nói đó là ý tệ hại. So sánh với quá khứ gây ra nhiều vấn đề mà các nhà kinh tế hành vi và nhà tâm lý học ghi nhận trong nỗ lực của con người để xác định giá trị. Nhưng thậm chí khi chúng ta so sánh với khả năng, thay vì quá khứ, chúng ta vẫn mắc 1 số lỗi nhất định. Và tôi sẽ cho bạn thấy 1 hoặc 2 lỗi trong số đó.
One of the things we know about comparison: that when we compare one thing to the other, it changes its value. So in 1992, this fellow, George Bush, for those of us who were kind of on the liberal side of the political spectrum, didn't seem like such a great guy. Suddenly, we're almost longing for him to return. (Laughter) The comparison changes how we evaluate him.
Một là chúng ta biết về phép so sánh: rằng khi chúng ta so sánh thứ này với thứ khác, nó thay đổi giá trị. Năm 1992, anh bạn này, George Bush, đối với những người ủng hộ đảng Tự do thì không khoái anh chàng lỗi lạc này lắm. Bỗng dưng chúng ta lại muốn Bush quay lại. (Tiếng cười) Sự so sánh thay đổi cách chúng ta đánh giá anh ta.
Now, retailers knew this long before anybody else did, of course, and they use this wisdom to help you -- spare you the undue burden of money. And so a retailer, if you were to go into a wine shop and you had to buy a bottle of wine, and you see them here for eight, 27 and 33 dollars, what would you do? Most people don't want the most expensive, they don't want the least expensive. So, they will opt for the item in the middle. If you're a smart retailer, then, you will put a very expensive item that nobody will ever buy on the shelf, because suddenly the $33 wine doesn't look as expensive in comparison.
Các nhà bán lẻ biết rõ điều này rất lâu trước khi người khác biết, tất nhiên rồi. Và họ dùng sự thông thái này để giúp bạn-- chia sẻ với bạn gánh nặng tiền bạc. Và thế là 1 nhà bán lẻ, nếu bạn đi vào 1 cửa hàng rượu và bạn phải mua 1 chai và bạn thấy có loại 8,27 và 33$, bạn sẽ làm gì? Hầu hết mọi người không muốn loại đắt nhất, và cũng không muốn loại rẻ nhất. Nên họ sẽ chọn mặt hàng ở giữa. Nếu bạn là 1 nhà bán lẻ nhỏ, bạn sẽ đặt loại thật đắt tiền mà chẳng ai dám mua lên giá, vì tự nhiên chai rượu 33$ trông không đắt nếu so với chai kia.
So I'm telling you something you already knew: namely, that comparison changes the value of things. Here's why that's a problem: the problem is that when you get that $33 bottle of wine home, it won't matter what it used to be sitting on the shelf next to. The comparisons we make when we are appraising value, where we're trying to estimate how much we'll like things, are not the same comparisons we'll be making when we consume them. This problem of shifting comparisons can bedevil our attempts to make rational decisions.
Vậy tôi sẽ nói với bạn điều mà bạn đã biết rồi: cụ thể là, việc so sánh đó thay đổi giá trị mọi thứ. Đây là lý do tại sao đó lại là vấn đề: Vấn đề là khi bạn mang chai rượu 33$ về nhà, Việc trước đây nó nằm trên cái giá bên cạnh thì chẳng ảnh hưởng gì. Những so sánh chúng ta tạo ra khi định giá, nơi chúng ta cố gắng ước lượng chúng ta sẽ thích chúng đến cỡ nào, không tương tự như so sánh khi chúng ta dùng chúng. Vấn đề chuyển đổi so sánh có thể làm xấu nỗ lực của chúng ta để đưa ra quyết định đúng đắn.
Let me just give you an example. I have to show you something from my own lab, so let me sneak this in. These are subjects coming to an experiment to be asked the simplest of all questions: How much will you enjoy eating potato chips one minute from now? They're sitting in a room with potato chips in front of them. For some of the subjects, sitting in the far corner of a room is a box of Godiva chocolates, and for others is a can of Spam. In fact, these items that are sitting in the room change how much the subjects think they're going to enjoy the potato chips. Namely, those who are looking at Spam think potato chips are going to be quite tasty; those who are looking at Godiva chocolate think they won't be nearly so tasty. Of course, what happens when they eat the potato chips? Well, look, you didn't need a psychologist to tell you that when you have a mouthful of greasy, salty, crispy, delicious snacks, what's sitting in the corner of the room makes not a damn bit of difference to your gustatory experience. Nonetheless, their predictions are perverted by a comparison that then does not carry through and change their experience.
Tôi sẽ đưa ra 1 ví dụ . Tôi phải cho bạn thấy 1 thứ từ phòng thí nghiệm của tôi, vậy hãy vào và khám phá. Đây là các đối tượng trong cuộc thí nghiệm được hỏi những câu hỏi đơn giản nhất: Bạn thích ăn khoai tây chiên trong 1 phút từ lúc này đến mức nào? Họ đang ngồi trong phòng với khoai tây chiên trước mặt. Một số người, ngồi trong 1 góc xa của căn phòng là 1 hộp sô-cô-la Godiva, và những người khác là 1 lon Spam. Thực tế, những thứ trong phòng thay đổi các đối tượng nghĩ họ sẽ khoái ăn khoai tây chiên đến cỡ nào. Cụ thể, những người nhìn thấy lon Spam nghĩ khoai tây chiên sẽ khá ngon; những người nhìn vào sô-cô-la Godiva nghĩ nó sẽ kém ngon. Dĩ nhiên, chuyện gì sẽ xảy ra khi họ ăn khoai tây chiên? Hãy nhìn xem, bạn không cần 1 nhà tâm ký học nói cho mình biết rằng khi bạn đầy 1 mồm snack béo ngậy, mặn, giòn tan ngon lành, thì cái đặt trong góc phòng chẳng ảnh hưởng quái gì đến sự khoái khẩu của bạn cả. Tuy nhiên, sự tiên đoán của họ bị ảnh hưởng bởi so sánh nhưng không thay đổi trải nghiệm của họ.
You've all experienced this yourself, even if you've never come into our lab to eat potato chips. So here's a question: You want to buy a car stereo. The dealer near your house sells this particular stereo for 200 dollars, but if you drive across town, you can get it for 100 bucks. So would you drive to get 50 percent off, saving 100 dollars? Most people say they would. They can't imagine buying it for twice the price when, with one trip across town, they can get it for half off.
Bạn đã tự trải nghiệm thí nghiệm này thậm chí bạn chưa bao giờ đến phòng thí nghiệm của chúng tôi để ăn khoai tây chiên, vậy đây là câu hỏi: Bạn muốn mua 1 giàn âm thanh trên ô tô. Người bán gần nhà bán với giá 200$, nhưng nếu bạn lái xe tới thị trấn, bạn có thể mua với giá 100$. Vậy bạn sẽ lái xe để bớt 50% , tiết kiệm được 100$? Đa số sẽ nói, có. Họ không thể tưởng tượng phải mua nó với giá gấp đôi khi chỉ cần lái xe đến thị trấn, họ sẽ mua được với giá rẻ hơn 1 nửa.
Now, let's imagine instead you wanted to buy a car that had a stereo, and the dealer near your house had it for 31,000. But if you drove across town, you could get it for 30,900. Would you drive to get it? At this point, 0.003 savings -- the 100 dollars. Most people say, no, I'm going to schlep across town to save 100 bucks on the purchase of a car?
Bây giờ hãy tưởng tượng thay vì bạn muốn mua 1 xe ô tô có giàn âm thanh, và người bán gần nhà bán với giá 31,000$ Nhưng nếu bạn lái xe đến thị trấn, bạn có thể mua với giá 30,900. Bạn sẽ đi chứ? Trong tình huống này, tiết kiệm 0.3% --100$. Đa số sẽ nói, không. Tôi sẽ lái xe khắp thị trấn chỉ để tiết kiêm 100$ khi mua 1 chiếc xe ư?
This kind of thinking drives economists crazy, and it should. Because this 100 dollars that you save -- hello! -- doesn't know where it came from. It doesn't know what you saved it on. When you go to buy groceries with it, it doesn't go, I'm the money saved on the car stereo, or, I'm the dumb money saved on the car. It's money. And if a drive across town is worth 100 bucks, it's worth 100 bucks no matter what you're saving it on. People don't think that way. That's why they don't know whether their mutual fund manager is taking 0.1 percent or 0.15 percent of their investment, but they clip coupons to save one dollar off of toothpaste.
Những kiểu thế này khiến các nhà kinh tế phát điên. Vì 100$ bạn tiết kiệm-- xin chào!-- không biết nó đến từ đâu. Nó không biết bạn tiết kiệm được nó nhờ cái gì. Khi bạn đi mua thực phẩm với nói, nó không mất đi, Tôi là số tiền tiết kiệm ở cái stereo ô tô, hay, Tôi là số tiền ngu ngốc tiết kiệm khi mua ô tô. Nó là tiền. Và nếu lái xe đến thị trấn trị giá 100$, nó đáng giá 100$ chẳng kể bạn tiết kiệm được nó khi mua gì. Mọi người thì không nghĩ thế. Đó là lý do tại sao họ không biết người quản lý quỹ trung gian của mình đang lấy 0.1% hay 0.15% trong số đầu tư của họ, nhưng họ lấy phiếu giảm giá để tiết kiệm 1$ cho kem đánh răng.
Now, you can see, this is the problem of shifting comparisons, because what you're doing is, you're comparing the 100 bucks to the purchase that you're making, but when you go to spend that money you won't be making that comparison. You've all had this experience.
Bạn có thể thấy, đây là vấn đề chuyển đổi so sánh vì bạn đang so sánh 100$ với món hàng bạn đang mua. Nhưng khi bạn tiêu số tiền đó, bạn sẽ không so sánh. Tất cả mọi người đều trải qua việc này rồi.
If you're an American, for example, you've probably traveled in France. And at some point you may have met a couple from your own hometown, and you thought, "Oh, my God, these people are so warm. They're so nice to me. I mean, compared to all these people who hate me when I try to speak their language and hate me more when I don't, these people are just wonderful." And so you tour France with them, and then you get home and you invite them over for dinner, and what do you find? Compared to your regular friends, they are boring and dull, right? Because in this new context, the comparison is very, very different. In fact, you find yourself disliking them enough almost to qualify for French citizenship.
Nếu bạn là 1 người Mỹ, giả sử bạn du lịch tới Pháp. Có thể bạn gặp 1 cặp vợ chồng từ quê nhà và bạn nghĩ, " Ôi, Chúa ơi, những người này thật đáng yêu. Họ thật tử tế với mình." Ý tôi là, so với những người ghét tôi khi tôi thử nói ngôn ngữ của họ và ghét tôi hơn khi tôi không làm thế, thì những người này thật tuyệt vời." Và thế là bạn đi du lịch Pháp với họ, và khi về nhà bạn mời họ đến ăn tối, bạn sẽ thấy gì? So với những người bạn thân thiết của mình, họ thật tẻ nhạt và chán ngắt, đúng không? Vì trong bối cảnh mới này, phép so sánh rất, rất khác. Thực tế, bạn thấy bản thân không thích họ đủ để thấy họ còn hơn người Pháp.
Now, you have exactly the same problem when you shop for a stereo. You go to the stereo store, you see two sets of speakers -- these big, boxy, monoliths, and these little, sleek speakers, and you play them, and you go, you know, I do hear a difference: the big ones sound a little better. And so you buy them, and you bring them home, and you entirely violate the décor of your house. And the problem, of course, is that this comparison you made in the store is a comparison you'll never make again. What are the odds that years later you'll turn on the stereo and go, "Sounds so much better than those little ones," which you can't even remember hearing.
Bạn có vấn đề giống hệt thế khi đi mua cái giàn âm thanh. Bạn đến cửa hàng âm thanh, thấy 2 loại bộ phát thanh -- 1 loại thì nguyên khối, trong như cái hộp, to bự và 1 loại nhỏ nhắn, kiểu dáng đẹp, bạn thử nghe và thấy 1 điểm khác biệt: cái to chất lượng âm thanh tốt hơn 1 chút. Thế là bạn mua và mang chúng về nhà, bạn hoàn toàn phá hỏng nội thất trong nhà. Vấn đề là phép so sánh bạn đưa ra trong cửa hàng là phép so sánh bạn sẽ không bao giờ so sánh nữa. Khả năng nào bạn bật cái stereo lên những năm sau đó và thầm nghĩ, " Nghe tốt hơn nhiều cái nhỏ," cái mà bạn không nhớ là đã nghe.
The problem of shifting comparisons is even more difficult when these choices are arrayed over time. People have a lot of trouble making decisions about things that will happen at different points in time. And what psychologists and behavioral economists have discovered is that by and large people use two simple rules. So let me give you one very easy problem, a second very easy problem and then a third, hard, problem.
Vấn đề chuyển đổi phép so sánh thậm chí còn khó hơn khi các chọn lựa xếp hàng theo thời gian. Mọi người gặp khó khăn khi đưa ra quyết định về những điều sẽ xảy ra ở những thời điểm khác nhau. Và các nhà tâm lý và kinh tế hành vi đã phát hiện ra là mọi người sử dụng 1 quy luật đơn giản: Hãy để tôi cho bạn thấy 1 vấn đề rất dễ dàng, cái thứ 2 cũng dễ dàng và vấn đề thứ 3 rất khó khăn.
Here's the first easy problem: You can have 60 dollars now or 50 dollars now. Which would you prefer? This is what we call a one-item IQ test, OK? All of us, I hope, prefer more money, and the reason is, we believe more is better than less.
Đây là vấn đề dễ đầu tiên: Bạn có 60$ hay 50$. Bạn thích cái nào hơn? Đây là bài kiểm tra IQ 1đáp án, OK? Tất cả chúng ta, tôi nghĩ, sẽ thích nhiều tiền hơn, và lý do là vì chúng ta tin nhiều hơn là tốt hơn.
Here's the second problem: You can have 60 dollars today or 60 dollars in a month. Which would you prefer? Again, an easy decision, because we all know that now is better than later. What's hard in our decision-making is when these two rules conflict. For example, when you're offered 50 dollars now or 60 dollars in a month. This typifies a lot of situations in life in which you will gain by waiting, but you have to be patient. What do we know? What do people do in these kinds of situations? Well, by and large people are enormously impatient. That is, they require interest rates in the hundred or thousands of percents in order to delay gratification and wait until next month for the extra 10 dollars. Maybe that isn't so remarkable, but what is remarkable is how easy it is to make this impatience go away by simply changing when the delivery of these monetary units will happen. Imagine that you can have 50 dollars in a year -- that's 12 months -- or 60 dollars in 13 months. What do we find now? People are gladly willing to wait: as long as they're waiting 12, they might as well wait 13.
Vấn đề thứ 2 là: Bạn có 60 $ hôm nay hay 60$ trong 1 tháng. Bạn thích cái nào hơn? Lại 1 lần nữa, 1 quyết định dễ dàng vì chúng ta đều biết ngay lập tức thì tốt hơn là trì hoãn. Cái khó khi chúng ta quyết định là khi 2 quy luật này xung đột. Ví dụ, khi ai đó đưa bạn 50$ ngay bây giờ hoặc 60$ trong 1 tháng nữa. Ví dụ này điển hình hóa tất cả các tình huống trong cuộc sống bạn sẽ thu được bằng cách chờ đợi nhưng phải kiên nhẫn. Chúng ta biết được gì? Mọi người sẽ làm gì trong những tình huống như vậy? Hầu hết mọi người thiếu kiên nhẫn khủng khiếp. Họ đòi tỉ lệ lãi suất hàng trăm hoặc hàng nghìn phần trăm để hoãn tiền thù lao và đợi đến tháng sau để có thêm 10$ Có thể điều đó không đáng chú ý nhưng điều nổi bật là thật dễ làm sao để làm mất tính thiếu kiên nhẫn bằng cách thay đổi thời điểm giao tiền. Hãy tưởng tượng bạn có 50$ trong 1 năm-- 12 tháng-- hoặc 60$ trong 13 tháng. Chúng ta thấy gì nào? Mọi người vui vẻ sẵn lòng đợi, miễn là họ đợi được 12 tháng, thì 13 tháng đã nhằm nhò gì.
What makes this dynamic inconsistency happen? Comparison. Troubling comparison. Let me show you.
Do đâu mà có sự thiếu nhất quán tích cực này? Sự so sánh. Sự so sánh rối ren . Tôi sẽ chỉ cho bạn.
This is just a graph showing the results that I just suggested you would show if I gave you time to respond, which is, people find that the subjective value of 50 is higher than the subjective value of 60 when they'll be delivered in now or one month, respectively -- a 30-day delay -- but they show the reverse pattern when you push the entire decision off into the future a year. Now, why in the world do you get this pattern of results?
Đây là 1 đồ thị biểu diễn các kết quả tôi đã gợi ý là bạn sẽ thể hiện nếu bạn có thời gian để phản ứng, mọi người thấy rằng giá trị chủ quan của 50 cao hơn của 60 khi chúng được trả ngay bây giờ hoặc trong 1 tháng--30 ngày trì hoãn-- nhưng chúng thể hiện 1 mẫu đảo ngược khi bạn tăng quyết định lên 1 năm nữa. Nào, tại sao bạn có mẫu kết quả như thế này?
These guys can tell us. What you see here are two lads, one of them larger than the other: the fireman and the fiddler. They are going to recede towards the vanishing point in the horizon, and I want you to notice two things. At no point will the fireman look taller than the fiddler. No point. However, the difference between them seems to be getting smaller. First it's an inch in your view, then it's a quarter-inch, then a half-inch, and then finally they go off the edge of the earth.
Những người này có thể trả lời. Bạn đang thấy 2 người đàn ông, 1 người to lớn hơn người kia-- anh lính cứu hỏa và người chơi violon. Họ lùi xa tới điểm mờ phía chân trời, và tôi muốn bạn ghi nhận 2 điều. Không đời nào người lính cứu hỏa cao hơn tay nhạc công. Không bao giờ. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa họ dường như nhỏ dần. Đầu tiên trong tầm nhìn bạn thấy khoảng 1 inch sau đó còn ¼ inch sau đó còn ½ và cuối cùng chúng biến mất.
Here are the results of what I just showed you. This is the subjective height -- the height you saw of these guys at various points. And I want you to see that two things are true. One, the farther away they are, the smaller they look; and two, the fireman is always bigger than the fiddler. But watch what happens when we make some of them disappear. Right. At a very close distance, the fiddler looks taller than the fireman, but at a far distance their normal, their true, relations are preserved. As Plato said, what space is to size, time is to value. These are the results of the hard problem I gave you: 60 now or 50 in a month? And these are subjective values, and what you can see is, our two rules are preserved.
Đây là kết quả của ví dụ các bạn vừa xem. Đây là chiều cao chủ quan-- chiều cao của 2 người bạn đã thấy tại nhiều điểm. Và tôi muốn bạn thấy 2 điều đúng. Một, họ càng ở xa thì trông họ càng nhỏ; và hai là, người lính cứu hỏa luôn trông lớn hơn tay nhạc công. Nhưng hãy xem điều gì xảy ra khi chúng ta làm mất đi 1 phần nào đó. Đúng vậy. Ở 1 khoảng cách rất gần, tay chơi đàn trông cao hơn người lính cứu hỏa, nhưng ở khoảng cách xa mối liên hệ bình thường và chính xác giữa họ được giữ nguyên. Như Plato từng nói, không gian là đo lường, thời gian là đánh giá. Đó là các kết quả của vấn đề khó khăn tôi đã đưa ra: 60$ bây giờ hay 50$ trong 1 tháng nữa? Và đó là các giá trị chủ quan, và những gì bạn thấy là 2 quy luật của chúng ta được bảo toàn.
People always think more is better than less: 60 is always better than 50, and they always think now is better than later: the bars on this side are higher than the bars on this side. Watch what happens when we drop some out. Suddenly we have the dynamic inconsistency that puzzled us. We have the tendency for people to go for 50 dollars now over waiting a month, but not if that decision is far in the future. Notice something interesting that this implies -- namely, that when people get to the future, they will change their minds. That is, as that month 12 approaches, you will say, what was I thinking, waiting an extra month for 60 dollars? I'll take the 50 dollars now.
Mọi người luôn nghĩ nhiều hơn tốt hơn ít hơn: 60 luôn tốt hơn 50; và họ luôn nghĩ ngay lập tức tốt hơn phải đợi chờ: các thanh ở phía này cao hơn phía này. Hãy xem điều gì xảy ra khi chúng ta bỏ đi 1 vài thứ. Đột nhiên chúng ta có sự mâu thuẫn tích cực khiến chúng ta hoang mang. Xu hướng mọi người lấy 50$ bây giờ chứ không đợi 1 tháng, nhưng quyết định đó không đúng đắn trong tương lai. Nhận thấy có 1 điều thú vị rút ra từ ví dụ trên-- cụ thể là-- khi mọi người chạm đến tương lai, họ sẽ thay đổi ý kiến Khi tiến đến 12 tháng, bạn sẽ nói, mình đang nghĩ gì vậy, đợi thêm 1 tháng nữa để lấy 60$ á? Tôi sẽ lấy 50$ bây giờ.
Well, the question with which I'd like to end is this: If we're so damn stupid, how did we get to the moon? Because I could go on for about two hours with evidence of people's inability to estimate odds and inability to estimate value.
Câu hỏi tôi muốn kết thúc là: Nếu chúng ta ngốc ngếch như thế, làm thế nào mà con người lên mặt trăng được? Vì tôi có thể tiếp tục khoảng 2 tiếng với bằng chứng về việc thiếu khả năng ước lượng cơ hội và tính toán giá trị của mọi người.
The answer to this question, I think, is an answer you've already heard in some of the talks, and I dare say you will hear again: namely, that our brains were evolved for a very different world than the one in which we are living. They were evolved for a world in which people lived in very small groups, rarely met anybody who was terribly different from themselves, had rather short lives in which there were few choices and the highest priority was to eat and mate today.
Câu trả lời theo tôi các bạn đã nghe nói trong 1 số buổi diễn thuyết rồi, và e là các bạn sẽ phải nghe lại: cụ thể là, não của con người tiến hóa trong 1 thế giới rất khác chứ không phải trong thế giới chúng ta đang sống. Chúng tiến hóa tới 1 thế giới nơi mọi người sống theo nhóm nhỏ, hiếm khi gặp ai đó cực kỳ khác so với mình, có tuổi thọ ngắn, cuộc sống ít lựa chọn và ưu tiên số 1 là ăn và quan hệ.
Bernoulli's gift, Bernoulli's little formula, allows us, it tells us how we should think in a world for which nature never designed us. That explains why we are so bad at using it, but it also explains why it is so terribly important that we become good, fast. We are the only species on this planet that has ever held its own fate in its hands. We have no significant predators, we're the masters of our physical environment; the things that normally cause species to become extinct are no longer any threat to us. The only thing -- the only thing -- that can destroy us and doom us are our own decisions. If we're not here in 10,000 years, it's going to be because we could not take advantage of the gift given to us by a young Dutch fellow in 1738, because we underestimated the odds of our future pains and overestimated the value of our present pleasures.
Món quà của Bernoulli, công thức của ông cho phép chúng ta, nó cho chúng ta biết chúng ta nên nghĩ sao trong 1 thế giới thiên nhiên không bao giờ tác động đến chúng ta. Nó giải thích tại sao chúng ta không biết sử dụng nó, nó cũng giải thích tại sao chúng ta cần trở nên nhanh nhẹn và giỏi giang. Chúng ta là loài duy nhất trên hành tinh này tự định đoạt số mệnh. Chúng ta không có kẻ thù ăn thịt nào đáng kể, chúng ta kiểm soát được môi trường vật lý; những yếu tố luôn đẩy các loài tới nguy cơ tuyệt chủng nay không còn đe dọa loài người được nữa. Điều duy nhất--điều duy nhất có thể hủy diệt loài người tới ngày tận thế là quyết định của riêng chúng ta. Nếu chúng ta không ở trên trái đất trong 10,000 năm nữa, và sẽ bởi vì chúng ta không thể tận dụng món quà được tặng bởi 1 học giả trẻ người Hà Lan năm 1738, vì chúng ta đánh giá thấp khả năng xảy ra của nỗi đau tương lai và đánh giá quá cao giá trị niềm vui hiện tại của mình.
Thank you. (Applause)
Xin cảm ơn. (Vỗ tay)
Chris Anderson: That was remarkable. We have time for some questions for Dan Gilbert. One and two.
Chris Anderson: Bài diễn thuyết rất hay. Chúng ta còn thời gian để hỏi Dan Gilbert 2 câu.
Bill Lyell: Would you say that this mechanism is in part how terrorism actually works to frighten us, and is there some way that we could counteract that?
Bill Lyell: Theo anh có phải cơ chế này liên quan đến mức độ khủng bố thực sự khiến chúng ta lo sợ và có cách gì để đối phó với việc đó?
Dan Gilbert: I actually was consulting recently with the Department of Homeland Security, which generally believes that American security dollars should go to making borders safer. I tried to point out to them that terrorism was a name based on people's psychological reaction to a set of events, and that if they were concerned about terrorism they might ask what causes terror and how can we stop people from being terrified, rather than -- not rather than, but in addition to stopping the atrocities that we're all concerned about. Surely the kinds of play that at least American media give to -- and forgive me, but in raw numbers these are very tiny accidents. We already know, for example, in the United States, more people have died as a result of not taking airplanes -- because they were scared -- and driving on highways, than were killed in 9/11. OK? If I told you that there was a plague that was going to kill 15,000 Americans next year, you might be alarmed if you didn't find out it was the flu. These are small-scale accidents, and we should be wondering whether they should get the kind of play, the kind of coverage, that they do. Surely that causes people to overestimate the likelihood that they'll be hurt in these various ways, and gives power to the very people who want to frighten us.
Dan Gilbert: Gần đây tôi đang tham khảo khoa An Ninh Tổ Quốc, nó tin rằng an ninh đồng đô la nên tạo các biên giới an toàn hơn. Tôi cố gắng chỉ rõ với họ rằng chủ nghĩa khủng bố là 1 cái tên dựa trên phản ứng tâm lý của mọi người với 1 chuỗi các sự kiện, và nếu họ lo lắng về khủng bố họ có thể hỏi nguyên nhân gây ra sợ hãi và làm thế nào để ngăn mọi người khỏi hoảng loạn, chứ không phải là--nhưng bên cạnh việc ngăn chặn sự hung bạo khiến chúng ta luôn lo lắng Chắc chắn loại kịch mà ít nhất ngành truyền thông Mỹ mang đến-- và thứ lỗi cho tôi, nhưng trong số liệu thô, có các tai nạn nhỏ xíu. Chúng ta đã biết, ví dụ, ở Mỹ, Thêm nhiều người chết do không đi máy bay-- vì họ sợ--và lái xe trên đường cao tốc, hơn là bị giết như trong vụ 11/9. Ok? Nếu tôi nói với bạn có 1 đợt dịch hạch sẽ giết 15,000 người Mỹ năm tới, bạn sẽ hốt hoảng nếu bạn không phát hiện ra đó là bệnh cúm. Đây là các vụ tai nạn quy mô nhỏ, chúng ta nên phân vân liệu họ nên đưa lên truyền hình, lên mặt báo hay không. Chắc chắn điều đó khiến mọi người đánh giá quá cao khả năng họ sẽ bị thương theo các kiểu khác nhau, và mang sức mạng cho những kẻ muốn làm chúng ta lo sợ.
CA: Dan, I'd like to hear more on this. So, you're saying that our response to terror is, I mean, it's a form of mental bug? Talk more about it.
CA: Dan, tôi muốn nghe thêm về vấn đề này. Vậy, anh đang nói rằng phản ứng của chúng ta với sự sợ hãi, ý tôi là, nó là 1 hình thức lỗi tâm lý? Anh hãy giải thích thêm.
DG: It's out-sized. I mean, look. If Australia disappears tomorrow, terror is probably the right response. That's an awful large lot of very nice people. On the other hand, when a bus blows up and 30 people are killed, more people than that were killed by not using their seatbelts in the same country. Is terror the right response?
DG: Nó quá khổ, ý tôi là , nếu ngày mai nước Úc biến mất sợ hãi sẽ là phản ứng đúng đắn. Rất nhiều người sẽ phản ứng như vậy. Mặt khác, khi 1 xe bus bị nổ làm 30 người thiệt mạng, nhiều người hơn số đó đã thiệt mạng do không đeo dây thắt an toàn trong cùng 1 nước đó. Sợ hãi liệu có phải phản ứng đúng?
CA: What causes the bug? Is it the drama of the event -- that it's so spectacular? Is it the fact that it's an intentional attack by, quote, outsiders? What is it?
CA: Nguyên nhân gây ra lỗi đó là gì? Tính kinh hoàng của sự kiện thật khủng khiếp? Đó có phải vì đó là 1 vụ tấn công quốc tế, do người nước khác? Nó là gì?
DG: Yes. It's a number of things, and you hit on several of them. First, it's a human agent trying to kill us -- it's not a tree falling on us by accident. Second, these are enemies who may want to strike and hurt us again. People are being killed for no reason instead of good reason -- as if there's good reason, but sometimes people think there are. So there are a number of things that together make this seem like a fantastic event, but let's not play down the fact that newspapers sell when people see something in it they want to read. So there's a large role here played by the media, who want these things to be as spectacular as they possibly can.
DG: Vâng, rất nhiều yếu tố và bạn đã đề cập đến 1 vài trong số đó. Trước hết, chính là tác nhân con người cố gắng tiêu diệt chúng ta-- không phải 1 cái cây tự dưng đổ xuống người. Thứ 2, có những kẻ thù muốn hại chúng ta lần nữa. Mọi người bị giết không đâu vào đâu thay vì lý do chính đáng-- như thế có lý do chính đáng nhưng đôi khi mọi người nghĩ là có. Vậy có những yếu tố kết hợp với nhau khiến điều này trông có vẻ 1 sự kiện tuyệt vời nhưng hãy đừng xem nhẹ việc các tờ báo đăng các bài thu hút độc giả. Thế nên truyền thông đóng 1 vai trò lớn ở đây, nó muốn những thứ đó càng hoành tráng càng tốt.
CA: I mean, what would it take to persuade our culture to downplay it?
CA: ý tôi là, sẽ cần gì để thuyết phục văn hóa của chúng ta xem nhẹ nó?
DG: Well, go to Israel. You know, go to Israel. And a mall blows up, and then everybody's unhappy about it, and an hour-and-a-half later -- at least when I was there, and I was 150 feet from the mall when it blew up -- I went back to my hotel and the wedding that was planned was still going on. And as the Israeli mother said, she said, "We never let them win by stopping weddings." I mean, this is a society that has learned -- and there are others too -- that has learned to live with a certain amount of terrorism and not be quite as upset by it, shall I say, as those of us who have not had many terror attacks.
DG: Hãy tới Israel. Bạn biết đấy hãy tới Israel. Và 1 cái chợ nổ tung sau đó thì mọi người buồn bã vì nó, và 1 tiếng rưỡi sau đó-- ít nhất khi tôi ở đó, tôi đứng cách 150 feet với cái chợ khi nó nổ -- khi tôi trở lại khách sạn đám cưới theo dự định vẫn được cử hành. Và như người mẹ Israel nói, " Chúng tôi không bao giờ để chúng thắng bằng cách phải dừng đám cưới." Ý tôi là, xã hội này đã học được-- và những người khác nữa -- đã học được cách sống với chủ nghĩa khủng bố mà không e sợ về nó, trong khi chúng ta chẳng mấy khi bị khủng bố tấn công.
CA: But is there a rational fear that actually, the reason we're frightened about this is because we think that the Big One is to come?
CA: Nhưng đó là nỗi sợ hãi chính đáng, lý do chúng ta lo sợ là vì chúng ta nghĩ rằng Big One sẽ đến?
DG: Yes, of course. So, if we knew that this was the worst attack there would ever be, there might be more and more buses of 30 people -- we would probably not be nearly so frightened. I don't want to say -- please, I'm going to get quoted somewhere as saying, "Terrorism is fine and we shouldn't be so distressed." That's not my point at all. What I'm saying is that, surely, rationally, our distress about things that happen, about threats, should be roughly proportional to the size of those threats and threats to come. I think in the case of terrorism, it isn't. And many of the things we've heard about from our speakers today -- how many people do you know got up and said, Poverty! I can't believe what poverty is doing to us. People get up in the morning; they don't care about poverty. It's not making headlines, it's not making news, it's not flashy. There are no guns going off. I mean, if you had to solve one of these problems, Chris, which would you solve? Terrorism or poverty? (Laughter) (Applause) That's a tough one.
DG: vâng, tất nhiên rồi. Vậy nếu chúng ta biết đây là cuộc tấn công kinh hoàng nhất từng xảy ra, có thể sẽ có thêm nhiều vụ xe bus gây thiệt mạng 30 người-- và chúng ta sẽ không hoảng sợ đến thế. Tôi không muốn nói -- Tôi sẽ trích dẫn ở đâu đó đã nói rằng, " Khủng bố cũng tốt và chúng ta không nên đau buồn thế." Đó hoàn toàn không phải ý của tôi. Những gì tôi đang nói là sự lo buồn của chúng ta về những điều xảy ra, về sự đe dọa, nên tương ứng với mức độ các đe dọa đó và các đe dọa sẽ xảy ra. Tôi nghĩ trong trường hợp của khủng bố, thì không. Và nhiều thứ các nhà diễn thuyết nói ngày hôm nay-- bao nhiêu người bạn biết đứng lên và nói, Nghèo đói ! Tôi không thể tin nghèo đói sẽ làm gì được chúng ta. Mọi người thức dậy vào buổi sáng, họ chẳng màng đến đói nghèo nữa. Nó không phải tiêu điểm, không được đưa tin trên TV, nó không thu hút. Không có súng đạn gì hết. Ý tôi là, nếu bạn phải giải quyết 1 trong các vấn đề đó, Chúa ơi, bạn sẽ giải quyết cái nào? Nạn khủng bố hay đói nghèo? (Tiếng cười) (Vỗ tay) 1 câu hỏi khó.
CA: There's no question. Poverty, by an order of magnitude, a huge order of magnitude, unless someone can show that there's, you know, terrorists with a nuke are really likely to come. The latest I've read, seen, thought is that it's incredibly hard for them to do that. If that turns out to be wrong, we all look silly, but with poverty it's a bit --
CA: Đó không phải là câu hỏi. Nghèo đói, mang tầm vĩ mô, trừ khi ai đó có thể thể hiện rằng có những tên khủng bố mang vũ khí hạt nhân thực sự sắp đến. Theo những gì mới đây nhất tôi đã đọc, xem và suy nghĩ thì điều đó gần như không thế. Nếu chẳng may nó hóa ra sai hết, chúng ta sẽ trông rất thộn nhưng với nghèo đói, nó hơi --
DG: Even if that were true, still more people die from poverty.
DG: Kể cả nếu điều đó là đúng, vẫn có thêm người chết vì nghèo đói.
CA: We've evolved to get all excited about these dramatic attacks. Is that because in the past, in the ancient past, we just didn't understand things like disease and systems that cause poverty and so forth, and so it made no sense for us as a species to put any energy into worrying about those things? People died; so be it. But if you got attacked, that was something you could do something about. And so we evolved these responses. Is that what happened?
CA: Chúng ta tiến tới quan tâm hơn tới các vụ tấn công kinh hoàng. Có phải vì trong quá khứ, trong thời cổ xưa, chúng ta không hiểu biết những thứ như bệnh dịch và các hệ thống gây ra nghèo đói và tương tự, và vì thế chúng ta không hiểu khi dồn năng lượng vào việc lo lắng các thứ đó? Mọi người chết. Nó là như vậy. Nhưng nếu bạn bị tấn công, lo lắng là điều bạn có thể làm. và thế là chúng ta phát sinh các phản ứng đó. Đó có phải những gì xảy ra không?
DG: Well, you know, the people who are most skeptical about leaping to evolutionary explanations for everything are the evolutionary psychologists themselves. My guess is that there's nothing quite that specific in our evolutionary past. But rather, if you're looking for an evolutionary explanation, you might say that most organisms are neo-phobic -- that is, they're a little scared of stuff that's new and different. And there's a good reason to be, because old stuff didn't eat you. Right? Any animal you see that you've seen before is less likely to be a predator than one that you've never seen before. So, you know, when a school bus is blown up and we've never seen this before, our general tendency is to orient towards that which is new and novel is activated. I don't think it's quite as specific a mechanism as the one you alluded to, but maybe a more fundamental one underlying it.
DG: Những người nghi ngờ nhất về nhảy vọt tới những giải thích tiến hóa cho mọi thứ chính là các nhà tâm lý học cải cách. Tôi đoán là không có gì khá cụ thể trong quá khứ tiến hóa của chúng ta. Nhưng nếu bạn đang tìm kiếm 1 lời giải thích tiến hóa, bạn có thể nói rằng hầu hết các sinh vật đều mắc chứng sợ cái mới-- họ sợ những thứ mới và khác. Và lý do chính đáng là vì đồ cũ đã không ăn thịt bạn. Đúng không? Bất cứ loài động vật nào bạn thấy trước đây ít khi là loài săn mồi bạn chưa từng thấy trước đó. Nên, khi 1 xe bus đưa đón học sinh bị nổ và chúng ta chưa từng thấy trước đây, xu hướng chung của chúng ta là định hướng tới cái mới và cái mới được kích hoạt. Tôi không nghĩ nó là 1 cơ chế cụ thể như cái anh ám chỉ nhưng có lẽ nó cơ bản hơn.
Jay Walker: You know, economists love to talk about the stupidity of people who buy lottery tickets. But I suspect you're making the exact same error you're accusing those people of, which is the error of value. I know, because I've interviewed about 1,000 lottery buyers over the years. It turns out that the value of buying a lottery ticket is not winning. That's what you think it is. All right? The average lottery buyer buys about 150 tickets a year, so the buyer knows full well that he or she is going to lose, and yet she buys 150 tickets a year. Why is that? It's not because she is stupid or he is stupid. It's because the anticipation of possibly winning releases serotonin in the brain, and actually provides a good feeling until the drawing indicates you've lost. Or, to put it another way, for the dollar investment, you can have a much better feeling than flushing the money down the toilet, which you cannot have a good feeling from. Now, economists tend to -- (Applause) -- economists tend to view the world through their own lenses, which is: this is just a bunch of stupid people. And as a result, many people look at economists as stupid people. And so fundamentally, the reason we got to the moon is, we didn't listen to the economists. Thank you very much. (Applause)
Jay Walker: Anh biết đấy, các nhà kinh tế thích nói về sự ngu ngốc của những người chơi xổ số. Nhưng tôi ngờ rằng anh đang mắc 1 lỗi tương tự khi anh buộc tội những người đó là 1 lỗi của giá trị. Tôi biết, vì tôi đã phỏng vấn khoảng 1,000 người chơi xổ số nhiều năm. Hóa ra giá trị khi mua 1 vé số không phải là thắng hay thua. Đó là những gì anh nghĩ đúng không? Những người mua vé số trung bình 150 vé mỗi năm, nên người mua thừa biết họ sẽ thua tuy nhiên vẫn mua 150 vé 1 năm. Tại sao vậy? Không phải vì họ cà rốt mà vì sự suy tính về khả năng thắng giải phóng serotonin trong não, tạo cảm giác hưng phấn cho đến khi có kết quả họ thua. Hoặc nói cách khác, trong đầu tư đô la bạn có cảm giác khoan khoái hơn là vứt tiền vào toilet rõ là không sung sướng gì. Các nhà kinh tế có vẻ -- ( Vỗ tay) -- các nhà kinh tế có vẻ nhìn thế giới qua lăng kính riêng, chỉ thấy: toàn 1 lũ dốt nát. Theo lẽ tự nhiên, nhiều người thấy mấy cha kinh tế đúng là ngu. Và cơ bản là, lý do chúng ta lên mặt trăng là do chúng ta không lắng nghe các nhà kinh tế. Cảm ơn rất nhiều. (Vỗ tay)
DG: Well, no, it's a great point. It remains to be seen whether the joy of anticipation is exactly equaled by the amount of disappointment after the lottery. Because remember, people who didn't buy tickets don't feel awful the next day either, even though they don't feel great during the drawing. I would disagree that people know they're not going to win. I think they think it's unlikely, but it could happen, which is why they prefer that to the flushing. But certainly I see your point: that there can be some utility to buying a lottery ticket other than winning. Now, I think there's many good reasons not to listen to economists. That isn't one of them, for me, but there's many others.
DG: 1 luận điểm rất hay. Liệu niềm vui suy tính chính xác tương đương với sự thất vọng sau khi chơi xổ số. Vì hãy nhớ rằng, những người không mua vé số không cảm thấy chán nản vào ngày tiếp theo mặc dù họ không cảm thấy khoan khoái sau khi rút số. Tôi không đồng ý rằng những người biết họ sẽ không thắng Theo tôi họ nghĩ rằng nó là điều không thể, nhưng nó có thể xảy ra, đó là lý do tại sao họ thích thế hơn là ném tiền vào toilet Nhưng chắc chắn tôi hiểu ý anh: rằng có thể 1 số thích mua vé số không chỉ vì thắng thua. Tôi nghĩ có nhiều lý do chính đáng để không nghe theo các nhà kinh tế. Theo tôi đây không phải 1 trong số đó, nhưng còn nhiều lý do khác.
CA: Last question.
CA: Câu hỏi cuối cùng.
Aubrey de Grey: My name's Aubrey de Grey, from Cambridge. I work on the thing that kills more people than anything else kills -- I work on aging -- and I'm interested in doing something about it, as we'll all hear tomorrow. I very much resonate with what you're saying, because it seems to me that the problem with getting people interested in doing anything about aging is that by the time aging is about to kill you it looks like cancer or heart disease or whatever. Do you have any advice? (Laughter)
Aubrey de Grey: Tên tôi là Aubrey de Grey từ Cambridge. Tôi nghiên cứu thứ giết nhiều người nhất. Tôi nghiên cứu về lão hóa và tôi thích làm điều gì đó để ngăn chặn nó, như chúng ta sẽ nghe đến ngày mai. Tôi rất hiểu những gì mọi người đang nói vì dường như vấn đề khiến mọi người quan tâm đến cách giải quyết vấn đề lão hóa là trước khi bạn chết vì lão hóa, nó sẽ là ung thư hay bệnh tim hay bất cứ cái gì... Anh có lời khuyên gì không? (Tiếng cười)
DG: For you or for them?
DG: Cho anh hay cho họ?
AdG: In persuading them.
AdG: để thuyết phục họ.
DG: Ah, for you in persuading them. Well, it's notoriously difficult to get people to be farsighted. But one thing that psychologists have tried that seems to work is to get people to imagine the future more vividly. One of the problems with making decisions about the far future and the near future is that we imagine the near future much more vividly than the far future. To the extent that you can equalize the amount of detail that people put into the mental representations of near and far future, people begin to make decisions about the two in the same way. So, would you like to have an extra 100,000 dollars when you're 65 is a question that's very different than, imagine who you'll be when you're 65: will you be living, what will you look like, how much hair will you have, who will you be living with. Once we have all the details of that imaginary scenario, suddenly we feel like it might be important to save so that that guy has a little retirement money. But these are tricks around the margins. I think in general you're battling a very fundamental human tendency, which is to say, "I'm here today, and so now is more important than later."
DG: à, cho anh để thuyết phục họ. Thật rất khó để khiến mọi người nhìn xa trông rộng Nhưng 1 thứ mà các nhà tâm lý học đã thử dường như có tác dụng là khiến mọi người tưởng tượng về tương lai sống động hơn. Một trong các vấn đề với việc quyết định về tương lai xa và tương lai gần là chúng ta tưởng tượng tương lai gần sinh động hơn nhiều tương lai xa. Tới mức độ bạn có thể cân bằng lượng chi tiết mọi người đặt vào tái hiện tâm trí về tương lai gần và xa, mọi người bắt đầu quyết định về 2 cái giống nhau. Vậy bạn có muốn có thêm 100,000$ khi bạn 65 tuổi là 1 câu hỏi rất khác, hãy tưởng tượng bạn sẽ là ai khi 65 tuổi, bạn còn sống không, trông nhăn nheo đến đâu, còn mấy cọng tóc, sẽ sống với ai. Một khi chúng ta có tất cả chi tiết về kịch bản tượng tượng bỗng nhiên chúng ta thấy tiết kiệm rất chi là quan trọng để có chút tiền khi về hưu. Nhưng điều oái ăm luôn xảy ra. Theo tôi anh đang đấu tranh với xu hướng con người cơ bản, để nói," Hôm nay tôi ở đây, cho nên hiện tại quan trọng hơn tương lai rất nhiều."
CA: Dan, thank you. Members of the audience, that was a fantastic session. Thank you. (Applause)
CA: Cảm ơn anh, Dan. Và những khán giả hôm nay rất tuyệt vời. Xin cám ơn các bạn. (Võ tay)