I am a conductor, and I'm here today to talk to you about trust. My job depends upon it. There has to be, between me and the orchestra, an unshakable bond of trust, born out of mutual respect, through which we can spin a musical narrative that we all believe in.
Tôi là một nhạc trưởng, và tôi ở đây để nói về niềm tin. Công việc của tôi phụ thuộc vào nó. Giữa tôi và dàn giao hưởng, phải có một niềm tin không thể lay chuyển nổi, sinh ra từ sự tôn trọng lẫn nhau, mà qua đó chúng tôi có thể tạo ra bản nhạc mà tất cả chúng tôi đều tin vào.
Now in the old days, conducting, music making, was less about trust and more, frankly, about coercion. Up to and around about the Second World War, conductors were invariably dictators -- these tyrannical figures who would rehearse, not just the orchestra as a whole, but individuals within it, within an inch of their lives. But I'm happy to say now that the world has moved on, music has moved on with it. We now have a more democratic view and way of making music -- a two-way street. I, as the conductor, have to come to the rehearsal with a cast-iron sense of the outer architecture of that music, within which there is then immense personal freedom for the members of the orchestra to shine.
Vào những ngày trước, việc chỉ huy dàn nhạc, chơi nhạc ít có liên quan đến vấn đề niềm tin, và thực sự mà nói, liên quan đến sự bắt buộc . Cho tới khoảng Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, nhạc trưởng luôn luôn là những kẻ độc tài -- những nhân vật chuyên chế này sẽ diễn tập, không chỉ toàn bộ với cả dàn nhạc, mà còn với cả từng người trong đó, một cách rất khắt khe. Nhưng tôi rất vui mừng được nói rằng thế giới đã tiến bộ lên rồi, âm nhạc đã thoát khỏi thời kỳ đó. Chúng ta giờ có cái nhìn và cách chơi nhạc dân chủ hơn -- một con đường 2 chiều. Với tư cách là một nhạc trưởng, tôi tới buổi diễn tập với một cảm quan sắc bén về kiến trúc bên ngoài của âm nhạc, mà bên trong sẽ là sự tự do cá nhân rộng lớn cho các thành viên dàn nhạc có thể tỏa sáng.
For myself, of course, I have to completely trust my body language. That's all I have at the point of sale. It's silent gesture. I can hardly bark out instructions while we're playing.
Đối với tôi, tất nhiên, tôi hoàn toàn tin tưởng vào ngôn ngữ hình thể của mình. Đó là tất cả những gì tôi có. Đó là cử chỉ yên tĩnh. Tôi không thể quát tháo ra những lời chỉ huy khi đang chơi nhạc
(Music)
(Âm nhạc)
Ladies and gentlemen, the Scottish Ensemble.
Thưa quý ông và quý bà, Dàn giao hưởng Scotland.
(Applause)
(Vỗ tay)
So in order for all this to work, obviously I have got to be in a position of trust. I have to trust the orchestra, and, even more crucially, I have to trust myself. Think about it: when you're in a position of not trusting, what do you do? You overcompensate. And in my game, that means you overgesticulate. You end up like some kind of rabid windmill. And the bigger your gesture gets, the more ill-defined, blurry and, frankly, useless it is to the orchestra. You become a figure of fun. There's no trust anymore, only ridicule.
Vậy để thực hiện công việc này, tôi rõ ràng phải có niềm tin. Tôi phải có niềm tin vào dàn nhạc, và, thậm chí quan trọng hơn, tôi phải có niềm tin vào bản thân. Hãy thử nghĩ: nếu bạn đứng ở vị trí không có niềm tin, ban sẽ làm gì? Bạn sẽ cố gắng hạn chế những sai sót một cách thái quá Và trong nghề nghiệp của tôi, thì đó có nghĩa là khoa tay múa chân quá đà. Cuối cùng bạn sẽ trở thành một chiếc cối xay gió điên dại. Và khi điệu bộ của bạn càng quá đà nó sẽ càng trở nên khó hiểu và, thực sự mà nói, là vô dụng đối với dàn nhạc. Bạn sẽ trở thành kẻ bị chế nhạo. Sẽ không còn sự tin tưởng nữa, chỉ còn sự nhạo báng.
And I remember at the beginning of my career, again and again, on these dismal outings with orchestras, I would be going completely insane on the podium, trying to engender a small scale crescendo really, just a little upsurge in volume. Bugger me, they wouldn't give it to me. I spent a lot of time in those early years weeping silently in dressing rooms. And how futile seemed the words of advice to me from great British veteran conductor Sir Colin Davis who said, "Conducting, Charles, is like holding a small bird in your hand. If you hold it too tightly, you crush it. If you hold it too loosely, it flies away." I have to say, in those days, I couldn't really even find the bird.
Và tôi nhớ vào đầu sự nghiệp của tôi, lúc nào cũng vậy, trong những buổi diễn thảm hại với dàn nhạc, tôi sẽ gần như điên loạn lên trên bục điều khiển, cố gắng tạo ra một đoạn cao trào tăng lên đột ngột nho nhỏ về âm lượng. Nhưng khốn nỗi, giàn nhạc không thể làm được điều đó. Những năm đầu tiên đó tôi dành rất nhiều thời gian khóc lóc một cách thầm lặng trong phòng thay đồ. Và khi đó, những lời khuyên từ một vị nhạc trưởng kì cựu người Anh, ngài Colin Davis, cũng trở nên vô nghĩa với tôi. ông nói rằng, "Charles, chỉ huy dàn nhạc giống như cầm một con chim nhỏ ở trong tay vậy. Nếu cậu giữ nó quá chặt, cậu sẽ nghiến chết nó. Nếu cậu giữ nó quá lỏng, nó sẽ bay mất." Tôi phải nói rằng, hồi đó, tôi thậm chí không thể thực sự tìm được con chim nào cả
Now a fundamental and really viscerally important experience for me, in terms of music, has been my adventures in South Africa, the most dizzyingly musical country on the planet in my view, but a country which, through its musical culture, has taught me one fundamental lesson: that through music making can come deep levels of fundamental life-giving trust. Back in 2000, I had the opportunity to go to South Africa to form a new opera company. So I went out there, and I auditioned, mainly in rural township locations, right around the country. I heard about 2,000 singers and pulled together a company of 40 of the most jaw-droppingly amazing young performers, the majority of whom were black, but there were a handful of white performers.
Bây giờ tôi sẽ nói về một trải nghiệm có thể nói là rất căn bản và hệ trọng đối với tôi trong lĩnh vực âm nhạc, đó là chuyến đi của tôi tới Nam Phi, một đất nước mà theo ý kiến của tôi, cuộn tròn trong âm nhạc, nhưng đó là nơi, thông qua văn hóa âm nhạc, đã dạy tôi một bài học căn bản nhất: đó là thông qua chơi nhạc ta có thể chạm tới những tầng lớp sâu hơn của việc trao gửi niềm tin cuộc sống nhớ lại năm 2000, khi tôi có cơ hội tới Nam Phi để xây dựng một công ty opera mới. Tôi đã đến đó, và tổ chức những buổi thử giọng, chủ yếu là ở những vùng nông thôn trên khắp đất nước. Tôi đã nghe khoảng 2000 cả sĩ hát và sau kéo tất cả về một công ty gồm 40 nghệ sĩ trẻ tuyệt vời nhất, và phần đông trong số đó là người da đen, nhưng vẫn có một số người da trắng.
Now it emerged early on in the first rehearsal period that one of those white performers had, in his previous incarnation, been a member of the South African police force. And in the last years of the old regime, he would routinely be detailed to go into the township to aggress the community. Now you can imagine what this knowledge did to the temperature in the room, the general atmosphere. Let's be under no illusions. In South Africa, the relationship most devoid of trust is that between a white policeman and the black community. So how do we recover from that, ladies and gentlemen? Simply through singing. We sang, we sang, we sang, and amazingly new trust grew, and indeed friendship blossomed. And that showed me such a fundamental truth, that music making and other forms of creativity can so often go to places where mere words cannot.
Và có một điều xuất hiện ở ngay buổi tập dượt đầu tiên đó là một trong những người da trắng hồi trước đã là một thành viên của lực lượng công an Nam Phi. Và vào những năm cuối của chế độ cũ, anh ấy thường được ra lệnh tới những thành phố nhỏ để gây hấn với người dân ở đây Bây giờ bạn có thể tưởng tượng điều này ảnh hưởng như thế nào tới nhiệt độ trong phòng, tới không khí chung. Và thực tế, ở Nam Phi, mối quan hệ không có niềm tin nhất là mối quan hệ giữa những cảnh sát da trắng và cộng đồng da đen. Vậy chúng vượt qua khó khăn này như thế nào, thưa quý ông và quý bà? Đơn giản là thông qua ca hát. Chúng tôi hát, hát, hát, và niềm tin mới lớn dần lên một cách đáng ngạc nhiên, và tình bạn đã nở rộ. Và điều đó cho tôi mấy một sự thật cơ bản, đó là âm nhạc và những hình thức sáng tạo khác có thể đến được những nơi mà lời nói không thể đến được.
So we got some shows off the ground. We started touring them internationally. One of them was "Carmen." We then thought we'd make a movie of "Carmen," which we recorded and shot outside on location in the township outside Cape Town called Khayelitsha. The piece was sung entirely in Xhosa, which is a beautifully musical language, if you don't know it. It's called "U-Carmen e-Khayelitsha" -- literally "Carmen of Khayelitsha." I want to play you a tiny clip of it now for no other reason than to give you proof positive that there is nothing tiny about South African music making.
Chúng tôi có một số bài, và bắt đầu diễn chúng trên quốc tế. Một trong số đó là bản "Carmen". Sau đó chúng tôi nghĩ là sẽ làm 1 bộ phim về "Carmen", Đoạn phim đã được quay tại một địa điểm trong một thành phố nhỏ bên ngoài Capetown, tên là Khayelitsha. Bản nhạc được hoát toàn bộ bằng tiếng Xhosa, đây là một ngôn ngữ âm nhạc tuyệt đẹp, có thể bạn không biết điều này. Nó được gọi là "U-Carmen e-Khayelitsha" -- nghĩa là "Carmen của Khayelitsha". Tôi muốn cho các bạn xem một phần nhỏ của đoạn clip lý do chính là tôi muốn cho các bạn thấy bằng chứng chứng minh là làm âm nhạc ở Nam Phi không hề tầm thường chút nào
(Music)
(Âm nhạc)
(Applause)
(Vỗ tay)
Something which I find utterly enchanting about South African music making is that it's so free. South Africans just make music really freely. And I think, in no small way, that's due to one fundamental fact: they're not bound to a system of notation. They don't read music. They trust their ears. You can teach a bunch of South Africans a tune in about five seconds flat. And then, as if by magic, they will spontaneously improvise a load of harmony around that tune because they can. Now those of us that live in the West, if I can use that term, I think have a much more hidebound attitude or sense of music -- that somehow it's all about skill and systems. Therefore it's the exclusive preserve of an elite, talented body. And yet, ladies and gentlemen, every single one of us on this planet probably engages with music on a daily basis.
Một điều mà tôi thấy rất thích thú về âm nhạc Nam Phí đó là nó miễn phí. Âm nhạc Nam Phi hoàn toàn miễn phí. Và tôi nghĩ rằng, một cách không nhỏ, đó là do một thực tế quan trọng: họ không bị bó buộc bởi hệ thống nốt nhạc. Họ không đọc nhạc. Họ tin vào đôi tai của mình. Bạn có thể dạy một vài người Nam Phi một giai điệu chỉ trong 5 giây ngắn ngủi. Và sau đó, như thể là có phép lạ, họ sẽ tự động ứng biến với một đoạn nhạc xung quanh giai điệu đó bởi họ có thể làm vậy. Những người ở phương Tây như chúng ta, hy vọng là tôi có thể dùng cách gọi này tôi nghĩ là chúng ta có một thái độ, hoặc là cảm giác về âm nhạc bị bó hẹp -- với chúng ta, âm nhạc là vấn đề về kỹ năng và hệ thống. Và do đó nó chỉ dành cho một số ít những người tài năng, có năng khiếu. Nhưng thưa quý ông và quý bà, bất cứ người nào trong chúng ta sống trên hành tinh này có lẽ đều có mối liên hệ với âm nhạc hằng ngày.
And if I can broaden this out for a second, I'm willing to bet that every single one of you sitting in this room would be happy to speak with acuity, with total confidence, about movies, probably about literature. But how many of you would be able to make a confident assertion about a piece of classical music? Why is this? And what I'm going to say to you now is I'm just urging you to get over this supreme lack of self-confidence, to take the plunge, to believe that you can trust your ears, you can hear some of the fundamental muscle tissue, fiber, DNA, what makes a great piece of music great. I've got a little experiment I want to try with you.
Và nếu tôi có thể nới rộng điều này trong 1 giây nữa, tôi cá rằng mỗi người người trong phòng này sẽ rất vui khi được nói với một sự tự tin và cái nhìn sắc sảo về phim ảnh, hoặc có thể là về văn học. Nhưng có bao nhiêu trong số các bạn có thể quyết đoán nói về một bản nhạc giao hưởng? Tại sao lại như vậy? Và những gì tôi muốn nói bây giờ là muốn thôi thúc các bạn hãy vượt qua sự thiếu tự tin to lớn đó đi, để lao vào, tin tưởng rằng bạn có thể tin vào đôi tai của mình, bạn có thể thấy nghe một vài lớp cơ bắp quan trọng, chất xơ, ADN, mà khiến cho một bản nhạc trở nên tuyệt vời. Tôi có một thí nghiệm nho nhỏ mà tôi muốn cho các bạn thấy.
Did you know that TED is a tune? A very simple tune based on three notes -- T, E, D. Now hang on a minute. I know you're going to say to me, "T doesn't exist in music." Well ladies and gentlemen, there's a time-honored system, which composers have been using for hundreds of years, which proves actually that it does. If I sing you a musical scale: A, B, C, D, E, F, G -- and I just carry on with the next set of letters in the alphabet, same scale: H, I, J, K, L, M, N, O, P, Q, R, S, T -- there you go. T, see it's the same as F in music. So T is F. So T, E, D is the same as F, E, D. Now that piece of music that we played at the start of this session had enshrined in its heart the theme, which is TED. Have a listen.
Các bạn có biết rằng từ TED có một giai điệu? Một giai điệu rất đơn giản dựa trên 3 nốt -- T, E, D. Giờ hãy đợi một chút. Tôi biết rằng các bạn sẽ nói rằng, "Nốt T không hề có trong âm nhạc." Thưa quý ông và quý bà, có một hệ thống từ rất lâu, mà các nhạc sĩ đã sử dụng từ hàng trăm năm nay, chứng minh rằng nốt T có tồn tại trong âm nhạc Nếu tôi hát trong thang âm nhạc: A, B, C, D, E, F, G -- và tôi tiếp tục với những chữ cái tiếp theo trong bản chữ cái, cùng một gam: H, I, J, K, L, M, N, O, P, Q, R, S, T -- và đây. T, nó giống với nốt F trong âm nhạc. Vậy T chính là F. Do đó T, E, D cũng giống với F, E, D. Bây giờ bản nhạc mà chúng tôi đã chơi ở phần đầu của buổi nói chuyện này nằm rất sâu ở giữa chủ đề, đó là TED. Hãy nghe này.
(Music)
(Âm nhạc)
Do you hear it? Or do I smell some doubt in the room? Okay, we'll play it for you again now, and we're going to highlight, we're going to poke out the T, E, D. If you'll pardon the expression.
Bạn có nghe thấy không? Hay tôi ngửi thấy mùi của sự nghi ngờ trong khán phòng? Được rồi, chúng tôi sẽ chơi lại từ đầu ngay bây giờ, và chúng tôi sẽ làm nổi bật, sẽ thọc chữ TED ra. Các bạn sẽ thông cảm với điệu bộ của tôi.
(Music)
(Âm nhạc)
Oh my goodness me, there it was loud and clear, surely. I think we should make this even more explicit. Ladies and gentlemen, it's nearly time for tea. Would you reckon you need to sing for your tea, I think? I think we need to sing for our tea. We're going to sing those three wonderful notes: T, E, D. Will you have a go for me?
Ôi trời ơi, nó rất to và rõ ràng, chắc chắn đấy. Tôi nghĩ tôi nên khiến cho nó được bộc lộ rõ ràng hơn. Thưa quý ông và quý bà, sắp đền giờ uống trà rồi. Các bạn cso nghĩ là chúng ta nên hát để uống trà không? Tôi nghĩ là chúng ta cần hát để uống trà. Chúng ta sẽ hát 3 nốt nhạc kỳ diệu này: T, E, D. Các bạn sẽ hát theo tôi chứ?
Audience: T, E, D.
Khán giả: T, E, D.
Charles Hazlewood: Yeah, you sound a bit more like cows really than human beings. Shall we try that one again? And look, if you're adventurous, you go up the octave. T, E, D.
Charles Hazlewood: Vâng, các bạn hát giống những con bò hơn là con người. Chúng ta sẽ thử lại lần nữa nhé? Và xem này, nếu bạn thích phiêu lưu, bạn sẽ hát tới quãng này. T, E, D.
Audience: T, E, D.
Khán giả: T, E, D.
CH: Once more with vim. (Audience: T, E, D.)
CH: Một lần nữa, mạnh hơn. (Khán giả: T, E, D.)
There I am like a bloody windmill again, you see. Now we're going to put that in the context of the music. The music will start, and then at a signal from me, you will sing that. (Music) One more time, with feeling, ladies and gentlemen. You won't make the key otherwise. Well done, ladies and gentlemen. It wasn't a bad debut for the TED choir, not a bad debut at all.
Vâng bây giờ tôi lại như một cái cối xay gió một lần nữa, bạn thấy đấy. Giờ chúng ta sẽ đặt nó vào trong ngữ cảnh âm nhạc. Nhạc sẽ nổi lên, và khi nhận được tín hiệu từ tôi, các bạn sẽ hát nốt đó nhé (Âm nhạc) Một lần nữa, thêm cảm xúc nữa đi, thưa quý ông và quý bà. Các bạn đã không vào đúng điệu rồi. Đúng rồi, thưa quý ông và quý bà. Không phải là buổi ra mắt quá tệ cho dàn nhạc TED, không tệ chút nào.
Now there's a project that I'm initiating at the moment that I'm very excited about and wanted to share with you, because it is all about changing perceptions, and, indeed, building a new level of trust. The youngest of my children was born with cerebral palsy, which as you can imagine, if you don't have an experience of it yourself, is quite a big thing to take on board. But the gift that my gorgeous daughter has given me, aside from her very existence, is that it's opened my eyes to a whole stretch of the community that was hitherto hidden, the community of disabled people. And I found myself looking at the Paralympics and thinking how incredible how technology's been harnessed to prove beyond doubt that disability is no barrier to the highest levels of sporting achievement. Of course there's a grimmer side to that truth, which is that it's actually taken decades for the world at large to come to a position of trust, to really believe that disability and sports can go together in a convincing and interesting fashion.
Bây giờ, có một dự án mà tôi đang bắt đầu mà tôi cảm thấy rất háo hức và muốn chia sẻ cho các bạn, bởi nó là dự án về thay đổi sự nhận thức, và, thực ra, là xây dựng một tầm cao mới của niềm tin. Đứa con nhỏ nhất của tôi khi sinh ra đã bị chứng liệt não, mà bạn có thể tưởng tượng rằng, nếu bạn chưa trải qua nó bao giờ, đó là một thứ rất kinh khủng mà ta phải chấp nhận. Nhưng món quà mà cô con gái xinh xắn đó đã cho tôi, ngoài việc mà cháu được sinh ra, chính là việc cháu đã đã mở rộng tầm mắt tôi đến với một cộng đồng vốn luôn bị bỏ quên, cộng đồng những người khuyết tật. Và khi tôi nhìn vào những cuộc thi Paralympics, tôi nghĩ rằng thật khó tin công nghệ đã phát triển để chứng tỏ rằng sự tàn tật không còn là rào cản đến với trình độ cao nhất của thành tích thể thao. Tất nhiên có một khía cạnh ác nghiệt hơn về sự thực này, rằng thực sự phải mất hàng thập kỷ, thế giới mới có thể đến được vị trí của sự tin tưởng, để hoàn toàn tin rằng người khuyết tật và thể thao có thể đến được với nhau theo một cách rất thú vị và thuyết phục.
So I find myself asking: where is music in all of this? You can't tell me that there aren't millions of disabled people, in the U.K. alone, with massive musical potential. So I decided to create a platform for that potential. It's going to be Britain's first ever national disabled orchestra. It's called Paraorchestra.
Do đó tôi tự hỏi: thế còn âm nhạc thì ở đâu? Các bạn sẽ không thể nói với tôi rằng chẳng có hàng triệu người khuyết tật, chỉ tính riêng ở Anh, có khả năng lớn về âm nhạc. Do đó tôi quyết định tạo ra một bệ đỡ cho các tài năng âm nhạc đó. Nó sẽ trở thành dàn nhạc giao hưởng quốc gia đầu tiên dành cho người khuyết tật đầu tiên ở Anh. Dàn nhạc có tên là Paraorchestra.
I'm going to show you a clip now of the very first improvisation session that we had. It was a really extraordinary moment. Just me and four astonishingly gifted disabled musicians. Normally when you improvise -- and I do it all the time around the world -- there's this initial period of horror, like everyone's too frightened to throw the hat into the ring, an awful pregnant silence. Then suddenly, as if by magic, bang! We're all in there and it's complete bedlam. You can't hear anything. No one's listening. No one's trusting. No one's responding to each other. Now in this room with these four disabled musicians, within five minutes a rapt listening, a rapt response and some really insanely beautiful music.
Tôi sẽ cho các bạn xem một đoạn clip về buổi tập ứng biến đầu tiên mà chúng tôi có. Đó quả là một khoảnh khắc đặc biệt. Chỉ có tôi và bốn nhạc công khuyết tật nhưng đầy tài đến kinh ngạc. Bình thường khi bạn ứng biến -- và tôi làm thế mọi lúc trên thế giới -- sẽ có một khoảnh khắc đầu sợ hãi, như nỗi sợ sẽ bị ném những chiếc mũ lên sân khấu, có thể sẽ là một khoảng lặng buồn. Và đột nhiên, như thể có phép màu, bùm! Chúng ta ở trong đó và nó trở nên hoàn toàn hỗn loạn. Bạn không thể nghe bất cứ thứ gì. Không một ai nghe. Không một ai tin. Không một ai hưởng ứng ai. Và trong căn phòng này với bốn nhạc công khuyết tật, trong vòng 5 phút nữa các bạn sẽ lắng nghe rất say sưa, và hưởng ứng nhiệt tình những đoạn âm nhạc đẹp tuyệt diệu
(Video) (Music)
(Video) (Âm nhạc)
Nicholas:: My name's Nicholas McCarthy. I'm 22, and I'm a left-handed pianist. And I was born without my left hand -- right hand. Can I do that one again?
Nicholas:: Tên tôi là Nicholas McCarthy. Tôi 22 tuổi và là một nghệ sĩ piano chơi bằng tay trái/ Và tôi được sinh ra không có tay trái -- tay phải. Tôi làm lại một lần nữa được không?
(Music)
(Âm nhạc)
Lyn: When I'm making music, I feel like a pilot in the cockpit flying an airplane. I become alive.
Lyn: Khi tôi chơi nhạc, tôi cảm giác như một phi công đang lái máy bay Tôi cảm thấy như mình đang sống.
(Music)
(Âm nhạc)
Clarence: I would rather be able to play an instrument again than walk. There's so much joy and things I could get from playing an instrument and performing. It's removed some of my paralysis.
Clarence: Tôi muốn lại được chơi một loại nhạc cụ hơn cả ước mong có thể đi được. Có rất nhiều niềm vui và nhiều thứ tôi có được nhờ chơi nhạc và biểu diễn. Nó giúp tôi thoát khỏi một vài chứng bại liệt.
(Music)
(Âm nhạc)
(Applause)
(Vỗ tay)
CH: I only wish that some of those musicians were here with us today, so you could see at firsthand how utterly extraordinary they are. Paraorchestra is the name of that project. If any of you thinks you want to help me in any way to achieve what is a fairly impossible and implausible dream still at this point, please let me know. Now my parting shot comes courtesy of the great Joseph Haydn, wonderful Austrian composer in the second half of the 18th century -- spent the bulk of his life in the employ of Prince Nikolaus Esterhazy, along with his orchestra. Now this prince loved his music, but he also loved the country castle that he tended to reside in most of the time, which is just on the Austro-Hungarian border, a place called Esterhazy -- a long way from the big city of Vienna.
CH: Tôi ước rằng một vài nhạc công này có thể đến với chúng ta ngày hôm nay, để bạn có thể trực tiếp thấy được họ tuyệt vời như thế nào. Tên của dự án là Dàn giao hưởng cho người khuyết tật (Paraorchestra) Nếu bất cứ ai trong số các bạn muốn giúp tôi bằng cách nào đó để đạt được giấc mơ mà vào thời điểm này khá là khó khăn và có vẻ không khả thi, xin hãy cho tôi biết nhé Bây giờ phần kết thúc của tôi là một bản nhạc của Joseph Haydn, nhạc sĩ thiên tài người Áo sống ở nửa sau của thế kỷ 18 -- đã dành cả đời mình làm việc cho Hoàng tử Nikolaus Esterhazy, cùng với dàn giao hưởng của ông ấy. Vị hoàng tử này rất yêu âm nhạc, nhưng ông ấy cũng yêu tòa lâu đài ở vùng nông thôn mà ông ấy đã sống suốt cả cuộc đời, nằm ở biên giới giữa Áo và Hungary, đó là nơi có tên gọi là Esterhazy -- rất xa thành phố Vienna rộng lớn.
Now one day in 1772, the prince decreed that the musicians' families, the orchestral musicians' families, were no longer welcome in the castle. They weren't allowed to stay there anymore; they had to be returned to Vienna -- as I say, an unfeasibly long way away in those days. You can imagine, the musicians were disconsolate. Haydn remonstrated with the prince, but to no avail. So given the prince loved his music, Haydn thought he'd write a symphony to make the point.
Vào một ngày nọ, năm 1772, vị hoàng tử ra lệnh rằng gia đình của những nhạc công, gia đình của nhạc công dàn nhạc giao hưởng, không được sống trong lâu đài nữa. Họ không được phép ở đây nữa, họ phải trở về Vienna -- mà như tôi đã nói, đó là cả một chặng đường dài vào thời đó. Bạn có thể tưởng tượng, các nhạc công đã hết sức thất vọng. Haydn khuyên can hoàng tử, nhưng không được. Do biết rằng vị hoàng tử yêu âm nhạc, Haydn quyết định sẽ viết một bản giao hưởng để nói lên suy nghĩ.
And we're going to play just the very tail end of this symphony now. And you'll see the orchestra in a kind of sullen revolt. I'm pleased to say, the prince did take the tip from the orchestral performance, and the musicians were reunited with their families. But I think it sums up my talk rather well, this, that where there is trust, there is music -- by extension life. Where there is no trust, the music quite simply withers away.
Và chúng tôi sẽ chơi đoạn cuối của bản giao hưởng ngay bây giờ. Và bạn sẽ thấy dàn nhạc như đang chống lại một cách buồn bã. Và tôi rất vui khi nói rằng, vị hoàng tử đã thấu hiểu sự tình từ bài biểu diễn của dàn nhạc, và các nhạc công đã được đoàn tụ với gia đình của họ. Nhưng tôi nghĩ câu chuyện này đúc rút lại bài nói chuyện của tôi rất hay rằng ở đâu có niềm tin, ở đó có âm nhạc -- mở rộng ra cuộc sống. Ở đâu không có niềm tin, ở đó âm nhạc sẽ biến mất.
(Music)
(Âm nhạc)
(Applause)
(Vỗ tay)