Good afternoon, everybody. I've got something to show you. (Laughter) Think about this as a pixel, a flying pixel. This is what we call, in our lab, sensible design. Let me tell you a bit about it. Now if you take this picture -- I'm Italian originally, and every boy in Italy grows up with this picture on the wall of his bedroom -- but the reason I'm showing you this is that something very interesting happened in Formula 1 racing over the past couple of decades. Now some time ago, if you wanted to win a Formula 1 race, you take a budget, and you bet your budget on a good driver and a good car. And if the car and the driver were good enough, then you'd win the race. Now today, if you want to win the race, actually you need also something like this -- something that monitors the car in real time, has a few thousand sensors collecting information from the car, transmitting this information into the system, and then processing it and using it in order to go back to the car with decisions and changing things in real time as information is collected. This is what, in engineering terms, you would call a real time control system. And basically, it's a system made of two components -- a sensing and an actuating component.
Xin chào quý vị khán giả. Tôi muốn các bạn xem thứ này. (Tiếng cười) Hãy xem nó như một điểm ảnh, một điểm ảnh biết bay. Trong phòng thí nghiệm của chúng tôi, thứ này gọi là thiết kế biết cảm nhận. Hãy để tôi kể bạn nghe đôi chút về nó. Giờ nếu bạn lấy bức ảnh này - Tôi thuần gốc Ý, và mỗi thằng nhóc ở Ý đều lớn lên với bức ảnh này trên tường phòng ngủ của nó. Nhưng lý do tôi muốn cho các bạn xem thứ này là bởi vì có một điều rất thú vị đã xảy ra ở cuộc đua Formula 1 trong một vài thập kỷ qua. Cách đây một khoảng thời gian, nếu bạn muốn thắng giải cuộc đua Formula 1, bạn kiếm tiền, và bạn đặt cược tiền của bạn vào một tay đua cừ và một chiếc xe đua tốt. Và nếu chiếc xe và tay đua đủ xuất sắc, thì bạn sẽ thắng giải. Ngày nay, nếu bạn muốn thắng giải, thật ra bạn lại cần thêm một thứ như vầy -- một thứ có thể điều khiển chiếc xe đua theo thời gian thực, có một vài ngàn thiết bị cảm biến để thu nhận thông tin từ chiếc xe, chuyển thông tin này vào hệ thống, và rồi xử lý nó và sử dụng nó với mục đích đưa ra quyết định sẽ làm gì với chiếc xe và thay đổi mọi thứ trong thời gian thực khi có được thông tin. Theo ngôn ngữ kỹ thuật, đây là thứ mà bạn có thể gọi là hệ thống quản lý thời gian thực. Và cơ bản thì, hệ thống này bao gồm hai phần - một bộ phận cảm ứng và một bộ phận kích hoạt.
What is interesting today is that real time control systems are starting to enter into our lives. Our cities, over the past few years, just have been blanketed with networks, electronics. They're becoming like computers in open air. And, as computers in open air, they're starting to respond in a different way to be able to be sensed and to be actuated. If we fix cities, actually it's a big deal. Just as an aside, I wanted to mention, cities are only two percent of the Earth's crust, but they are 50 percent of the world's population. They are 75 percent of the energy consumption -- up to 80 percent of CO2 emissions. So if we're able to do something with cities, that's a big deal. Beyond cities, all of this sensing and actuating is entering our everyday objects.
Ngày hôm nay điều thú vị chính là các hệ thống quản lý thời gian thực đang dần đi vào cuộc sống của chúng ta. Các thành phố, trải qua vài năm gần đây, đã được phủ đầy đủ các mạng, các lưới điện. Chúng đang trở nên giống như các máy điện toán ở ngoài trời vậy. Và, cũng giống như các máy điện toán ở ngoài trời, chúng cũng dần phản ứng theo một cách khác để có thể được cảm nhận và được kích hoạt Nếu chúng ta chỉnh sửa các thành phố này, chắc hẳn sẽ là một việc lớn đây. Tôi cũng muốn nói thêm rằng các thành phố chỉ chiếm hai phần trăm bề mặt Trái Đất, nhưng lại chiếm đến 50 phần trăm dân số thế giới. Người thành thị sử dụng đến 75% tổng năng lượng - và chiếm đến 80% tổng lượng khí CO2 thải ra. Vậy nên nếu chúng ta đủ sức làm điều gì đó đối với các thành phố này, đó chắc hẳn phải là công việc vĩ đại. Ngoài các thành phố ra, tất cả những thứ cảm ứng và kích hoạt này đang đi dần vào những vật dụng thường ngày của chúng ta.
That's from an exhibition that Paola Antonelli is organizing at MoMA later this year, during the summer. It's called "Talk to Me." Well our objects, our environment is starting to talk back to us. In a certain sense, it's almost as if every atom out there were becoming both a sensor and an actuator. And that is radically changing the interaction we have as humans with the environment out there. In a certain sense, it's almost as if the old dream of Michelangelo ... you know, when Michelangelo sculpted the Moses, at the end it said that he took the hammer, threw it at the Moses -- actually you can still see a small chip underneath -- and said, shouted, "Perché non parli? Why don't you talk?" Well today, for the first time, our environment is starting to talk back to us. And I'll show just a few examples -- again, with this idea of sensing our environment and actuating it.
Cái đó chụp ở cuộc triển lãm Paola Antonelli sẽ tổ chức ở MoMA trong năm nay, trong khoảng mùa hè. Nó gọi là "Nói chuyện với tôi nào". Những vật dụng của chúng ta, môi trường của chúng ta, đang bắt đầu biết nói chuyện với chúng ta đấy. Theo một nghĩa nào đó, nó gần giống như mọi nguyên tử hiện có đều đang trở thành một thiết bị cảm biến và đồng thời là một thiết bị kích hoạt. Và điều đó đang thay đổi căn bản giữa con người chúng ta với môi trường bên ngoài. Theo một nghĩa nào đó, nó gần như giống với ước mơ thuở xưa của Michelangelo ... bạn biết đấy, khi Michelangelo điêu khắc tượng Moses, chuyện kể rằng kết cục thì ông ta lấy một chiếc búa, và quăng thẳng vào tượng Moses -- thật sự ra bạn vẫn có thể nhìn thấy một con chip nhỏ ở bên dưới -- và nói rằng, à không la lên rằng, "Perché non parli? Sao không nói gì đi hả?" Giờ đây thì, lần đầu tiên, môi trường của chúng ta đang bắt đầu biết nói chuyện với chúng ta rồi đấy. Và tôi sẽ cho bạn xem một vài ví dụ -- một lần nữa, cũng với ý tưởng về việc cảm nhận môi trường và kích hoạt nó.
Let's starting with sensing. Well, the first project I wanted to share with you is actually one of the first projects by our lab. It was four and a half years ago in Italy. And what we did there was actually use a new type of network at the time that had been deployed all across the world -- that's a cellphone network -- and use anonymous and aggregated information from that network, that's collected anyway by the operator, in order to understand how the city works. The summer was a lucky summer -- 2006. It's when Italy won the soccer World Cup. Some of you might remember, it was Italy and France playing, and then Zidane at the end, the headbutt. And anyway, Italy won at the end.
Hãy bắt đầu với việc cảm nhận trước nhé. Dự án đầu tiên tôi muốn chia sẻ cùng các bạn thực ra cũng là một trong những dự án đầu tiên của phòng thí nghiệm chúng tôi. Chuyện này xảy ra cách đây 4 năm rưỡi ở Ý. Và những gì chúng tôi đã làm ở đó thực ra là sử dụng một loại mạng mới mà vào thời điểm đó đã được triển khai rộng rãi trên khắp thế giới -- đó chính là mạng điện thoại di động -- và sử dụng các thông tin nặc danh được tập hợp từ mạng này, dù gì thì những thông tin này cũng được tổng đài tổng hợp để có thể hiểu xem thành phố này hoạt động thế nào. Mùa hè năm đó là một mùa hè may mắn - năm 2006. Đó là thời điểm nước Ý thắng giải World Cup bóng đá. Một vài trong số các bạn còn nhớ, đó là trận giữa Ý và Pháp, và rồi cuối cùng Zidane lại va chạm đầu với một cầu thủ đối phương. Và đằng nào đi nữa thì cuối cùng Ý cũng thắng.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Now look at what happened that day just by monitoring activity happening on the network. Here you see the city. You see the Colosseum in the middle, the river Tiber. It's morning, before the match. You see the timeline on the top. Early afternoon, people here and there, making calls and moving. The match begins -- silence. France scores. Italy scores. Halftime, people make a quick call and go to the bathroom. Second half. End of normal time. First overtime, second. Zidane, the headbutt in a moment. Italy wins. Yeah. (Laughter) (Applause) Well, that night, everybody went to celebrate in the center. You saw the big peak. The following day, again everybody went to the center to meet the winning team and the prime minister at the time. And then everybody moved down. You see the image of the place called Circo Massimo, where, since Roman times, people go to celebrate, to have a big party, and you see the peak at the end of the day. Well, that's just one example of how we can sense the city today in a way that we couldn't have done just a few years ago.
Nào hãy nhìn xem điều gì đã xảy ra ngày hôm ấy chỉ bằng việc quan sát các hoạt động diễn ra trên mạng điện thoại. Và đây, bạn có thể thấy thành phố chúng ta như thế nào. Các bạn có thể thấy Đấu trường Colosseum ở giữa, dòng sông Tiber. Đó là vào buổi sáng, trước khi trận đấu bắt đầu. Bạn có thể thấy cột mốc thời gian ở phía trên. Đầu giờ trưa, người người ở nơi nọ nơi kia gọi điện thoại và di chuyển. Trận đấu bắt đầu - mọi thứ im lặng. Pháp ghi bàn. Ý ghi bàn. Giờ giải lao, mọi người tranh thủ gọi điện thoại và đi tắm. Hiệp hai bắt đầu. Hết giờ thi đấu. Hiệp phụ thứ nhất, hiệp phụ thứ hai. Zidane, va chạm vào đầu một cầu thủ đối phương. Ý thắng. Yeah. (Tiếng cười) (Tiếng vỗ tay) Chà, đêm đó, mọi người đổ xô đi ăn mừng ở khu trung tâm. Bạn thấy cái đỉnh to đấy rồi đó. Ngày hôm sau, mọi người ra khu trung tâm để gặp đội vô địch và ngài thủ tướng lúc đó Và rồi mọi người giải tán. Bạn có thể thấy hình ảnh của một nơi gọi là Circo Massimo, nơi mà, từ thời La Mã, người ta hay tụ tập ở đó để ăn mừng -- để tổ chức một bữa tiệc lớn, và bạn có thể thấy đỉnh ở cuối ngày. Đó chỉ là một ví dụ cho thấy ngày nay chúng ta có thể cảm nhận thành phố của chúng ta như thế nào, theo một cách mà trước giờ chúng ta chưa bao giờ cảm nhận chỉ cách đây vài năm thôi.
Another quick example about sensing: it's not about people, but about things we use and consume. Well today, we know everything about where our objects come from. This is a map that shows you all the chips that form a Mac computer, how they came together. But we know very little about where things go. So in this project, we actually developed some small tags to track trash as it moves through the system. So we actually started with a number of volunteers who helped us in Seattle, just over a year ago, to tag what they were throwing away -- different types of things, as you can see here -- things they would throw away anyway. Then we put a little chip, little tag, onto the trash and then started following it. Here are the results we just obtained.
Một ví dụ ngắn khác về cảm nhận: bây giờ không phải là về người nữa, mà là về những thứ mà chúng ta sử dụng và tiêu dùng. Ngày nay, chúng ta biết mọi thứ chúng ta biết các vật dụng từ đâu mà có. Đây là một sơ đồ minh họa cho bạn thấy tất cả những con chip làm nên một chiếc máy tính Mac, chúng đã đến được với nhau bằng cách nào. Nhưng chúng ta lại rất ít biết về nơi mà mọi thứ sẽ đến. Vì vậy trong dự án này, chúng tôi đã phát triển một vài thẻ theo dõi để theo dấu các thứ rác thải khi chúng được chuyển đi qua cả một hệ thống. Vậy nên chúng tôi đã bắt đầu với một số tình nguyện viên các tình nguyện viên này đã giúp chúng tôi ở Seattle, chỉ hơn một năm trước đây thôi, để đeo thẻ theo dõi những thứ mà họ sẽ vứt đi -- đủ loại đồ vật khác nhau, như các bạn có thể thấy ở đây -- những thứ mà dù gì họ cũng sẽ vứt đi. Và rồi chúng tôi gắn một con chip nhỏ, một cái thẻ nhỏ, lên những thứ rác thải này và bắt đầu theo dấu chúng. Đây là những kết quả mà chúng tôi có được.
(Music)
(Tiếng nhạc)
From Seattle ... after one week. With this information we realized there's a lot of inefficiencies in the system. We can actually do the same thing with much less energy. This data was not available before. But there's a lot of wasted transportation and convoluted things happening. But the other thing is that we believe that if we see every day that the cup we're throwing away, it doesn't disappear, it's still somewhere on the planet. And the plastic bottle we're throwing away every day still stays there. And if we show that to people, then we can also promote some behavioral change. So that was the reason for the project.
Từ Seattle... sau một tuần. Với thông tin này chúng tôi nhận ra rằng có rất nhiều lỗ hổng không hiệu quả trong hệ thống này. Thực ra chúng ta có thể làm tương tự như vậy nhưng với ít năng lượng hơn. Trước đây chúng ta không hề có dữ liệu này. Nhưng chúng ta đã phí sức quá nhiều trong khâu vận tải. Nhưng một điều khác nữa đó chính là chúng ta tin rằng nếu hôm nay chúng ta nhìn thấy chiếc tách mà chúng ta vứt đi, chúng không hề biến mất, mà vẫn còn tồn tại đâu đó trên hành tinh này. Và cái chai nhựa chúng ta vứt đi mỗi ngày vẫn còn sờ sờ ra đấy. Và nếu chúng ta có thể cho mọi người thấy sự thật đó, thì chúng ta cũng có thể thúc đẩy mọi người thay đổi hành vi của họ. Và đó cũng là một lý do để thực hiện dự án này.
My colleague at MIT, Assaf Biderman, he could tell you much more about sensing and many other wonderful things we can do with sensing, but I wanted to go to the second part we discussed at the beginning, and that's actuating our environment. And the first project is something we did a couple of years ago in Zaragoza, Spain. It started with a question by the mayor of the city, who came to us saying that Spain and Southern Europe have a beautiful tradition of using water in public space, in architecture. And the question was: How could technology, new technology, be added to that? And one of the ideas that was developed at MIT in a workshop was, imagine this pipe, and you've got valves, solenoid valves, taps, opening and closing. You create like a water curtain with pixels made of water. If those pixels fall, you can write on it, you can show patterns, images, text. And even you can approach it, and it will open up to let you jump through, as you see in this image.
Đồng nghiệp của tôi ở Học viện Công nghệ Masschusetts (MIT), anh Assaf Biderman, anh ấy có thể kể cho các bạn nghe nhiều hơn về cảm nhận và nhiều thứ tuyệt vời khác mà chúng ta có thể làm với cảm ứng, nhưng tôi muốn chúng ta chuyển sang phần thứ hai mà chúng ta đã thảo luận ban đầu, và đó chính là kích hoạt môi trường của chúng ta. Và dự án đầu tiên là dự án mà chúng tôi đã làm vài năm trước đây ở Zaragoza, Tây Ban Nha. Dự án này khởi đầu với một câu hỏi từ ngài thị trưởng, ngài đã bước đến chỗ chúng tôi và nói rằng Tây Ban Nha và miền Nam Châu Âu có một truyền thống tốt đẹp đó là dùng nước ở không gian công cộng, trong một kiến trúc. Và câu hỏi là: Làm sao có thể ứng dụng công nghệ, những công nghệ tiên tiến, để phát huy truyền thống đó? Và một trong những ý tưởng được phát triển từ một xưởng ở MIT đó là, hãy tưởng tượng chiếc ống nước này, và bạn có các van, các van dạng solenoid, những chiếc vòi, mở và đóng. Các bạn có thể tạo ra một thứ giống như một bức màn nước với những điểm nhỏ làm bằng nước. Nếu những điểm nhỏ này rơi xuống, bạn có thể viết lên nó, bạn có thể trình diễn các mẫu trang trí, các bức ảnh, văn bản. Và bạn cũng có thể tiến đến và nó sẽ mở ra và cho phép bạn nhảy vào trong, giống như trong bức ảnh này.
Well, we presented this to Mayor Belloch. He liked it very much. And we got a commission to design a building at the entrance of the expo. We called it Digital Water Pavilion. The whole building is made of water. There's no doors or windows, but when you approach it, it will open up to let you in. (Music) The roof also is covered with water. And if there's a bit of wind, if you want to minimize splashing, you can actually lower the roof. Or you could close the building, and the whole architecture will disappear, like in this case. You know, these days, you always get images during the winter, when they take the roof down, of people who have been there and said, "They demolished the building." No, they didn't demolish it, just when it goes down, the architecture almost disappears. Here's the building working. You see the person puzzled about what was going on inside. And here was myself trying not to get wet, testing the sensors that open the water.
Chúng tôi đem thứ này đến cho Thị trưởng Belloch xem. Và ông ấy rất thích. Và chúng tôi được lệnh phải thiết kế một kiến trúc ở ngay cổng vào cuộc triển lãm. Chúng tôi gọi nó là Digital Water Pavilion (Ngôi nhà nước kỹ thuật số). Toàn bộ kiến trúc này được làm bằng nước. Không có cửa sổ hay cửa ra vào nào cả, nhưng khi bạn đến gần, nó sẽ mở ra cho bạn vào. (Tiếng nhạc) Mái nhà cũng phủ đầy nước. Và nếu có gió, nếu bạn muốn giảm lượng nước bị bắn lên, bạn có thể hạ thấp mái xuống. Hoặc bạn có thể đóng ngôi nhà lại, và toàn bộ kiến trúc này sẽ biến mất, giống như trong trường hợp này đây. Các bạn biết đấy, những ngày này, trong suốt những ngày mùa đông khi mà mái nhà bị dỡ xuống, bạn luôn gắt gặp hình ảnh những người đã từng tham quan ở đó nói rằng "Họ đánh sập cái nhà rồi." Không, họ không hề đánh sập nó, chỉ là khi mái nhà bị dỡ xuống toàn bộ kiến trúc gần như biến mất. Đây là cách kiến trúc này hoạt động. Bạn có thể thấy người ta đang bối rối không biết chuyện gì đang xảy ra bên trong. Và đây là tôi đang cố gắng không để bị ướt, trong lúc đang kiểm tra mấy thiết bị cảm biến mở màn nước.
Well, I should tell you now what happened one night when all of the sensors stopped working. But actually that night, it was even more fun. All the kids from Zaragoza came to the building, because the way of engaging with the building became something different. Not anymore a building that would open up to let you in, but a building that would still make cuts and holes through the water, and you had to jump without getting wet.
Tôi nên kể cho các bạn nghe chuyện gì đã xảy ra vào một đêm đêm đó tất cả các thiết bị cảm ứng đều ngưng hoạt động. Nhưng thực ra thì đêm đó thậm chí còn vui hơn những đêm khác nhiều. Tất cả bọn trẻ ở Zaragoza rủ nhau đến đây chơi, bởi vì cách giao tiếp với kiến trúc này đã trở thành một thứ gì đó khác hẳn. Không còn là cái kiến trúc biết mở ra để cho bạn vào trong nữa, mà là một kiến trúc tạo ra những đường cắt và những lỗ tròn giữa màn nước, và bạn phải nhảy vào sao cho không bị ướt.
(Video) (Crowd Noise)
(Video) (Tiếng ồn của đám đông)
And that was, for us, was very interesting, because, as architects, as engineers, as designers, we always think about how people will use the things we design. But then reality's always unpredictable. And that's the beauty of doing things that are used and interact with people.
Và điều đó, đối với chúng tôi mà nói, rất thú vị, bởi vì, với vai trò là kiến trúc sư, kỹ sư, nhà thiết kế, chúng tôi luôn nghĩ xem người ta sẽ sử dụng những thứ chúng tôi thiết kế ra như thế nào. Nhưng rồi thì thực tế luôn khó lường. Và đó là cái hay của việc làm ra những thứ mà người ta sử dụng và biết tương tác với con người.
Here is an image then of the building with the physical pixels, the pixels made of water, and then projections on them. And this is what led us to think about the following project I'll show you now. That's, imagine those pixels could actually start flying. Imagine you could have small helicopters that move in the air, and then each of them with a small pixel in changing lights -- almost as a cloud that can move in space. Here is the video.
Đây là một tấm hình chụp ngôi nhà lúc ấy. với những điểm nhỏ vật chất, những điểm nhỏ được làm bằng nước, và rồi trình chiếu lên nó. Và đây là điều khiến chúng tôi nghĩ đến những dự án tiếp theo mà tôi sẽ cho các bạn xem ngay bây giờ. Đây, hãy tưởng tượng những điểm ảnh đó có thể thực sự bay lên. Hãy tưởng tượng bạn có những chiếc trực thăng nhỏ có thể bay trong không trung, và rồi từng chiếc với một điểm nhỏ thay đổi ánh sáng -- gần giống một đám mây biết bay trên không vậy. Sau đây là một đoạn video.
(Music)
(Tiếng nhạc)
So imagine one helicopter, like the one we saw before, moving with others, in synchrony. So you can have this cloud. You can have a kind of flexible screen or display, like this -- a regular configuration in two dimensions. Or in regular, but in three dimensions, where the thing that changes is the light, not the pixels' position. You can play with a different type. Imagine your screen could just appear in different scales or sizes, different types of resolution. But then the whole thing can be just a 3D cloud of pixels that you can approach and move through it and see from many, many directions. Here is the real Flyfire control and going down to form the regular grid as before. When you turn on the light, actually you see this. So the same as we saw before. And imagine each of them then controlled by people. You can have each pixel having an input that comes from people, from people's movement, or so and so.
Vậy hãy tưởng tượng một chiếc trực thăng, giống như chiếc chúng ta đã thấy trước đây, bay với những chiếc khác, cùng một lúc. Và như vậy bạn có được đám mây này đây, Bạn có thể có một dạng màn hình linh hoạt, giống như vầy -- một hình thể thông thường trong không gian hai chiều. Hoặc cũng thông thường, nhưng trong không gian ba chiều, nơi mà chỉ có ánh sáng thay đổi, chứ không phải là vị trí của các điểm ảnh. Bạn có thể bày trò với một loại khác. Hãy tưởng tượng màn hình của bạn có thể xuất hiện theo các tỷ lệ và kích thước khác nhau, ở các độ phân giải khác nhau. Nhưng khi đó toàn bộ thứ này có thể chỉ là một đám mấy 3D gồm các điểm nhỏ mà bạn có thể tiến đến và đi xuyên qua nó và nhìn thấy từ rất nhiều hướng khác nhau. Đây là những thứ thực sự điều khiển Flyfire (Lửa bay) và đáp xuống để tạo nên một mạng ô vuông như trước. Khi bạn bật đèn lên, bạn sẽ thấy thứ này. Hệt như thứ chúng ta đã thấy lúc đầu. Và hãy tưởng tượng mỗi chiếc trong số chúng được con người điều khiển. Bạn có thể có mỗi điểm ảnh với dữ liệu đầu vào phụ thuộc vào con người, vào chuyển động của con người, vân vân.
I want to show you something here for the first time. We've been working with Roberto Bolle, one of today's top ballet dancers -- the étoile at Metropolitan in New York and La Scala in Milan -- and actually captured his movement in 3D in order to use it as an input for Flyfire. And here you can see Roberto dancing. You see on the left the pixels, the different resolutions being captured. It's both 3D scanning in real time and motion capture. So you can reconstruct a whole movement. You can go all the way through. But then, once we have the pixels, then you can play with them and play with color and movement and gravity and rotation. So we want to use this as one of the possible inputs for Flyfire.
Tôi muốn cho các bạn xem thứ này lần đầu tiên ngay tại đây. Chúng tôi đã làm việc cùng Roberto Bolle, một trong những diễn viên múa ba lê hàng đầu -- là ngôi sao của Metropolitan ở New York và La Scala ở Milan -- và đã ghi lại chuyển động của anh trong không gian 3D với mục đích sử dụng nó để làm dữ liệu đầu vào cho Flyfire. Và đây bạn có thể xem Roberto múa. Bạn có thể thấy những điểm nhỏ ở bên trái, những độ phân giải khác nhau được ghi lại. Nó vừa là scan 3D trong thời gian thực và là ghi hình chuyển động. Nhờ đó bạn có thể tái hiện lại toàn bộ động tác. Bạn có thể làm tất cả những thứ này. Nhưng khi đó, một khi bạn có được những điểm ảnh, bạn có thể bày trò với chúng và vui đùa với màu sắc và các chuyển động và trọng lực và xoay vòng. Vì vậy chúng tôi muốn dùng thứ này như một dữ liệu đầu vào khả dĩ cho Flyfire.
I wanted to show you the last project we are working on. It's something we're working on for the London Olympics. It's called The Cloud. And the idea here is, imagine, again, we can involve people in doing something and changing our environment -- almost to impart what we call cloud raising -- like barn raising, but with a cloud. Imagine you can have everybody make a small donation for one pixel. And I think what is remarkable that has happened over the past couple of years is that, over the past couple of decades, we went from the physical world to the digital one. This has been digitizing everything, knowledge, and making that accessible through the Internet.
Tôi muốn cho các bạn xem dự án cuối cùng mà chúng tôi đang thực hiện. Đó là dự án cho Thế Vận Hội Olympics tại London. Tên gọi là The Cloud (Đám mây). Và ý tưởng ở đây là, một lần nữa, hãy tưởng tượng, chúng ta có thể lôi kéo mọi người làm điều gì đó và thay đổi môi trường của chúng ta -- hầu như là để tham gia vào thứ mà chúng tôi gọi là tạo mây -- cũng giống như xây khó thóc, nhưng là với một đám mây. Hãy tượng tượng mỗi người đóng góp cho một điểm ảnh. Và tôi nghĩ điều đáng chú ý đã xảy ra trong vài năm qua chính là, trong một vài thập kỷ qua, chúng đã đi từ thế giới vật chất sang thế giới kỹ thuật số. Điều này đã số hóa mọi thứ, kiến thức, và giúp mọi người có thể tiếp cận chúng thông qua Internet.
Now today, for the first time -- and the Obama campaign showed us this -- we can go from the digital world, from the self-organizing power of networks, to the physical one. This can be, in our case, we want to use it for designing and doing a symbol. That means something built in a city. But tomorrow it can be, in order to tackle today's pressing challenges -- think about climate change or CO2 emissions -- how we can go from the digital world to the physical one. So the idea that we can actually involve people in doing this thing together, collectively.
Giờ đây, lần đầu tiên -- và cuộc vận động bầu cử của Obama đã cho chúng ta thấy điều này -- chúng ta có thể đi từ thế giới kỹ thuật số, từ năng lực tự tổ chức của các mạng lưới, đến thế giới vật chất. Điều này là có thể, trong trường hợp của chúng ta, Chúng ta muốn sử dụng nó trong việc thiết kế và làm ra một biểu tượng. Điều đó có nghĩa là một thứ gì đó được xây nên trong một thành phố. Nhưng ngày mai điều này là có thể, nhằm giải quyết những thách thức trong vấn đề tiếp cận ngày nay -- hãy nghĩ đến biến đổi khí hậu hay phát thải CO2 -- làm cách nào chúng ta đi từ thế giới số sang thế giới thực. Vậy nên ý tưởng chúng ta có thể nối kết mọi người để cùng nhau làm việc này.
The cloud is a cloud, again, made of pixels, in the same way as the real cloud is a cloud made of particles. And those particles are water, where our cloud is a cloud of pixels. It's a physical structure in London, but covered with pixels. You can move inside, have different types of experiences. You can actually see from underneath, sharing the main moments for the Olympics in 2012 and beyond, and really using it as a way to connect with the community. So both the physical cloud in the sky and something you can go to the top [of], like London's new mountaintop. You can enter inside it. And a kind of new digital beacon for the night -- but most importantly, a new type of experience for anybody who will go to the top.
Một lần nữa, đám mây là một đám mây, làm từ các điểm nhỏ, cũng giống như một đám mây thật được tạo ra bởi các hạt. Các hạt này là nước, nơi mà đám mây của chúng ta là một đám mây điểm ảnh. Đó là một cấu trúc thực ở London, nhưng được bao phủ bởi các điểm ảnh. Bạn có thể vào trong, cảm nhận những trải nghiệm khác nhau. Bạn có thể nhìn thấy từ bên dưới, chia sẻ những khoảnh khắc chính yếu của Olympics năm 2012 và hơn thế nữa, và có thể sử dụng nó như một cách để kết nối với cộng đồng. Cả đám mây thực trên bầu trời và thứ mà bạn có thể trèo lên đỉnh của nó, giống như đỉnh núi mới của London. Bạn có thể bước vào bên trong. Và một dạng mới của đèn hiệu kỹ thuật số soi đường trong đêm -- nhưng điều quan trọng nhất một loại trải nghiệm mới cho bất kỳ ai leo lên đến đỉnh.
Thank you.
Xin cám ơn các bạn đã lắng nghe
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)