Have you ever wondered what animals think and feel? Let's start with a question: Does my dog really love me, or does she just want a treat? Well, it's easy to see that our dog really loves us, easy to see, right, what's going on in that fuzzy little head. What is going on? Something's going on.
Bạn đã bao giờ tự hỏi động vật nghĩ và cảm thấy điều gì? Hãy bắt đầu với một câu hỏi: Chú cún của tôi có thực sự yêu tôi, hay nó chỉ muốn được thưởng? Ừm, thật dễ dàng để thấy được chó của ta thực sự yêu ta, dễ dể thấy, đúng vậy, điều gì đang diễn ra trong cái đầu xù bé nhỏ đó. Điều gì đang diễn ra? Một điều gì đó đang diễn ra.
But why is the question always do they love us? Why is it always about us? Why are we such narcissists? I found a different question to ask animals. Who are you?
Nhưng tại sao câu hỏi luôn là liệu chúng có yêu ta không? Tại sao luôn là về chúng ta? Tại sao chúng ta lại là những kẻ quá yêu bản thân vậy? Tôi tìm ra một câu hỏi khác để hỏi động vật. Bạn là ai?
There are capacities of the human mind that we tend to think are capacities only of the human mind. But is that true? What are other beings doing with those brains? What are they thinking and feeling? Is there a way to know? I think there is a way in. I think there are several ways in. We can look at evolution, we can look at their brains and we can watch what they do.
Có những khả năng của trí óc con người chúng ta thường nghĩ chỉ của trí óc loài người. Nhưng điều đó có đúng ko? Những loài khác thì làm gì với trí não đó? Chúng đang nghĩ và cảm thấy gì? Có cách nào để biết không? Tôi nghĩ là có một cách. Tôi nghĩ là có một vài cách. Ta có thể nhìn vào sự tiến hóa, ta có thể nhìn vào trí não chúng và ta có thể xem chúng làm gì.
The first thing to remember is: our brain is inherited. The first neurons came from jellyfish. Jellyfish gave rise to the first chordates. The first chordates gave rise to the first vertebrates. The vertebrates came out of the sea, and here we are. But it's still true that a neuron, a nerve cell, looks the same in a crayfish, a bird or you. What does that say about the minds of crayfish? Can we tell anything about that? Well, it turns out that if you give a crayfish a lot of little tiny electric shocks every time it tries to come out of its burrow, it will develop anxiety. If you give the crayfish the same drug used to treat anxiety disorder in humans, it relaxes and comes out and explores. How do we show how much we care about crayfish anxiety? Mostly, we boil them.
Điều đầu tiên cần nhớ là: não của chúng ta là được thừa hưởng. Những dây thần kinh đầu tiên đến từ loài sứa. Sứa khởi nguồn cho những động vật có dây sống đầu tiên. Động vật có dây sống đầu tiên khởi nguồn những động vật có xương sống đầu tiên. Động vật có xương sống ra ngoài biển khơi, và rồi có chúng ta ở đây. Nhưng vẫn đúng rằng một dây thần kinh, một tế bào thần kinh, nhìn giống như trong một con tôm, một con chim hay chính bạn. Điều đó cho thấy gì về trí óc của tôm? Chúng ta có thể nói gì về nó không? Ừm, thì ra là nếu bạn đưa đến một con tôm rất nhiều sốc điện nhỏ tí xíu mỗi lần nó cố ra khỏi hang, nó sẽ dẫn đến bị bồn chồn lo lắng. Nếu bạn cho con tôm đó cùng loại thuốc dùng để chữa rối loạn lo âu ở người, nó sẽ thư giãn và ra khỏi hang và khám phá. Chúng ta thể hiện ta quan tâm thế nào đến chứng lo âu của loài tôm? Hầu như là, ta luộc chúng lên.
(Laughter)
(Tiếng cười)
Octopuses use tools, as well as do most apes and they recognize human faces. How do we celebrate the ape-like intelligence of this invertebrate? Mostly boiled. If a grouper chases a fish into a crevice in the coral, it will sometimes go to where it knows a moray eel is sleeping and it will signal to the moray, "Follow me," and the moray will understand that signal. The moray may go into the crevice and get the fish, but the fish may bolt and the grouper may get it. This is an ancient partnership that we have just recently found out about. How do we celebrate that ancient partnership? Mostly fried. A pattern is emerging and it says a lot more about us than it does about them.
Bạch tuộc sử dụng công cụ, cũng giống như phần lớn loài khỉ và chúng nhận biết được khuôn mặt người. Ta ăn mừng trí thông minh giống-khỉ của động vật không xương sống này thế nào? Hầu như là luộc lên. Nếu như con cá mú đuổi theo một con cá vào một kẽ hở trong rạn san hô, nó sẽ đôi khi đi vào nơi nó biết một con lươn biển Moray đang ngủ và nó sẽ ra hiệu cho con Moray rằng, "Đi theo tôi," và con Moray sẽ hiểu tín hiệu đó. Con Moray có thể đi vào hang và bắt con cá đó, nhưng con cá này có thể lao thật nhanh ra và con cá mú có thể bắt được nó. Đây là một sự hợp tác cổ xưa mà chúng tôi vừa phát hiện ra gần đây. Chúng ta ăn mừng sự hợp tác cổ xưa này thế nào? Hầu như là rán lên. Một kiểu mẫu đang hiện rõ lên và nó nói lên rất nhiều về chúng ta hơn là về chúng.
Sea otters use tools and they take time away from what they're doing to show their babies what to do, which is called teaching. Chimpanzees don't teach. Killer whales teach and killer whales share food.
Rái cá biển sử dụng công cụ và chúng dùng thời gian không làm việc đang làm để chỉ cho con chúng những gì cần làm, gọi là dạy bảo. Tinh tinh không dạy dỗ. Cá voi sát thủ dạy bảo và cá voi sát thủ chia sẻ đồ ăn.
When evolution makes something new, it uses the parts it has in stock, off the shelf, before it fabricates a new twist. And our brain has come to us through the enormity of the deep sweep of time. If you look at the human brain compared to a chimpanzee brain, what you see is we have basically a very big chimpanzee brain. It's a good thing ours is bigger, because we're also really insecure.
Khi sự tiến hóa tạo ra điều gì đó mới, nó dùng những phần đã có sẵn, trước khi chế tạo ra một vòng xoắn mới. Và não chúng ta đã đến với ta qua sự tán ác của sự quét nhanh của thời gian. Nếu bạn nhìn vào não con người so sánh với não của một con tinh tinh, cái bạn nhìn thấy là chúng ta cơ bản có bộ não rất lớn của một con tinh tinh. Thật là tốt khi não chúng ta lớn hơn, bởi vì chúng ta cũng rất bấp bênh.
(Laughter)
(Tiếng cười)
But, uh oh, there's a dolphin, a bigger brain with more convolutions. OK, maybe you're saying, all right, well, we see brains, but what does that have to say about minds? Well, we can see the working of the mind in the logic of behaviors. So these elephants, you can see, obviously, they are resting. They have found a patch of shade under the palm trees under which to let their babies sleep, while they doze but remain vigilant. We make perfect sense of that image just as they make perfect sense of what they're doing because under the arc of the same sun on the same plains, listening to the howls of the same dangers, they became who they are and we became who we are.
Nhưng, ớ ầu, có một con cá heo, một bộ não lớn hơn với nhiều nếp nhăn hơn. Được thôi, có lẽ bạn đang nói rằng, được thôi, ừm, chúng tôi thấy những bộ não, nhưng đó thì nói lên điều gì về trí tuệ? Ừm, chúng ta có thể nhìn thấy sự làm việc của trí óc trong lô-gíc của những hành vi. Vậy nên những chú voi này, bạn thấy được, quá rõ ràng, chúng đang nghỉ ngơi. Chúng đã tìm thấy một mảnh đất có bóng râm dưới những cây cọ để những đứa con của chúng ngủ, trong khi chúng chợp mắt nhưng vẫn giữ cảnh giác. Chúng ta giải thích hoàn toàn hợp lý về hình ảnh đó giống như chúng giải mã hoàn toàn hợp lý về điều chúng đang làm vì dưới vòng cung của cùng một mặt trời trên cùng những đồng bằng, lắng nghe những tiếng tru của cùng những mối nguy, chúng trở nên đúng bản chất chúng, và ta trở nên đúng bản chất ta.
We've been neighbors for a very long time. No one would mistake these elephants as being relaxed. They're obviously very concerned about something. What are they concerned about? It turns out that if you record the voices of tourists and you play that recording from a speaker hidden in bushes, elephants will ignore it, because tourists never bother elephants. But if you record the voices of herders who carry spears and often hurt elephants in confrontations at water holes, the elephants will bunch up and run away from the hidden speaker. Not only do elephants know that there are humans, they know that there are different kinds of humans, and that some are OK and some are dangerous.
Chúng ta đã là láng giềng rất lâu rồi. Không ai có thể nhầm rằng những chú voi này đang thư giãn. Chúng rõ ràng đang rất lo ngại về điều gì đó. Chúng lo ngại về điều gì? Hóa ra nếu chúng ta thu âm giọng nói của khách du lịch và ta mở bản ghi âm đó từ một cái loa giấu trong bụi cây, những chú voi sẽ lờ nó đi, vì du khách chẳng bao giờ làm phiền voi. Nhưng nếu bạn thu âm tiếng của những người chăn thả động vật những người mang theo giáo, mác và thường hại voi khi chạm trán ở xoáy nước, đàn voi sẽ túm tụm lại và chạy xa khỏi cái loa giấu kín. Không chỉ những chú voi biết rằng có người, chúng còn biết có những loại người khác nhau, và rằng một số ổn và một số thì nguy hiểm.
They have been watching us for much longer than we have been watching them. They know us better than we know them. We have the same imperatives: take care of our babies, find food, try to stay alive. Whether we're outfitted for hiking in the hills of Africa or outfitted for diving under the sea, we are basically the same. We are kin under the skin. The elephant has the same skeleton, the killer whale has the same skeleton, as do we. We see helping where help is needed. We see curiosity in the young. We see the bonds of family connections. We recognize affection. Courtship is courtship. And then we ask, "Are they conscious?"
Chúng đã theo dõi ta lâu hơn nhiều so với khi ta theo dõi chúng. Chúng biết về ta nhiều hơn ta biết về chúng. Chúng ta có những nhu cầu như nhau: chăm sóc con ta, tìm thức ăn, cố gắng để tồn tại. Chúng ta được trang bị để leo những ngọn đồi của châu Phi hay trang bị để lặn dưới biển sâu, chúng ta về cơ bản là như nhau. Chúng ta về bản chất là cùng dòng dõi. Loài voi có xương sống tương tự, cá voi sát thủ có xương sống tương tự, như chúng ta vậy. Chúng ta thấy giúp đỡ khi sự giúp đỡ được cần đến. Chúng ta thấy sự tò mò trong con trẻ. Chúng ta thấy sự gắn kết của những mối quan hệ gia đình. Chúng ta nhận ra lòng yêu thương. Sự tìm hiểu là sự tìm hiểu. Và rồi chúng ta hỏi, "Chúng có ý thức không?"
When you get general anesthesia, it makes you unconscious, which means you have no sensation of anything. Consciousness is simply the thing that feels like something. If you see, if you hear, if you feel, if you're aware of anything, you are conscious, and they are conscious.
Khi bạn bị gây mê tổng quát, nó làm bạn bất tỉnh, có nghĩa là bạn không có cảm giác về bất cứ điều gì. Ý thức đơn giản là điều mà cảm giác như thứ gì đó. Nếu bạn nhìn, nếu bạn nghe, nếu bản cảm nhận, nếu bạn nhận thức điều gì đó, bạn có ý thức, và chúng có ý thức.
Some people say well, there are certain things that make humans humans, and one of those things is empathy. Empathy is the mind's ability to match moods with your companions. It's a very useful thing. If your companions start to move quickly, you have to feel like you need to hurry up. We're all in a hurry now. The oldest form of empathy is contagious fear. If your companions suddenly startle and fly away, it does not work very well for you to say, "Jeez, I wonder why everybody just left."
Một số người nói, ừm, có một số thứ nhất định khiến con người làm con người, và một trong số đó là sự đồng cảm. Đồng cảm là khả năng của trí não kết nối tâm trạng phù hợp với những bạn đồng hành. Đó là điều rất hữu ích. Nếu những bạn đồng hành của bạn bắt đầu dịch chuyển nhanh, bạn sẽ phải cảm thấy bạn cần nhanh lên. Tất cả chúng ta đều đang vội vàng. Dạng cổ nhất của đồng cảm là nỗi sợ hãi lây lan. Nếu những người bạn của bạn đột nhiên giật mình và bay đi, nó không làm tốt lắm trong việc để bạn nói, "Trời, tôi tự hỏi tại sao mọi người lại bỏ đi."
(Laughter)
(Tiếng cười)
Empathy is old, but empathy, like everything else in life, comes on a sliding scale and has its elaboration. So there's basic empathy: you feel sad, it makes me sad. I see you happy, it makes me happy.
Đồng cảm có từ lâu, nhưng đồng cảm, như mọi thứ khác trong cuộc sống, hiện diện trên một cầu trượt và có sự tỉ mỉ của nó. Vậy nên có những đồng cảm cơ bản: bạn thấy buồn, nó khiến tôi buồn. Tôi thấy bạn vui, nó khiến tôi vui.
Then there's something that I call sympathy, a little more removed: "I'm sorry to hear that your grandmother has just passed away. I don't feel that same grief, but I get it; I know what you feel and it concerns me."
Rồi có thứ gì đó tôi gọi là đồng cảm, có một chút khác biệt hơn: "Tôi rất tiếc khi biết tin bà bạn vừa mất. Tôi không cảm thấy đau buồn như bạn, nhưng tôi hiểu; tôi biết bạn cảm thấy thế nào và nó khiến tôi quan tâm."
And then if we're motivated to act on sympathy, I call that compassion.
Và rồi nếu ta được thúc đẩy để hành động vì đồng cảm, tôi gọi đó là lòng trắc ẩn.
Far from being the thing that makes us human, human empathy is far from perfect. We round up empathic creatures, we kill them and we eat them. Now, maybe you say OK, well, those are different species. That's just predation, and humans are predators. But we don't treat our own kind too well either. People who seem to know only one thing about animal behavior know that you must never attribute human thoughts and emotions to other species. Well, I think that's silly, because attributing human thoughts and emotions to other species is the best first guess about what they're doing and how they're feeling, because their brains are basically the same as ours. They have the same structures. The same hormones that create mood and motivation in us are in those brains as well. It is not scientific to say that they are hungry when they're hunting and they're tired when their tongues are hanging out, and then say when they're playing with their children and acting joyful and happy, we have no idea if they can possibly be experiencing anything. That is not scientific.
Khác xa so với điều làm chúng ta là con người. lòng đồng cảm con người không hề hoàn hảo. Ta dồn những sinh vật thương cảm lại, ta giết chúng và ta ăn chúng. Giờ thì, có lẽ bạn nói OK, ừm, chúng là những loài khác nhau. Đó đơn giản là sự ăn thịt, và con người là loài ăn thịt. Nhưng ta cũng không đối xử tốt với chính đồng loại mình. Những người có vẻ biết chỉ một điều về thái độ động vật biết rằng bạn phải không bao giờ quy kết suy nghĩ và cảm xúc con người cho các loài khác. Ừm, tôi nghĩ thế là ngốc nghếch, vì quy suy nghĩ và cảm xúc con người cho các loài khác là sự dự đoán đầu tiên tốt nhất về điều chúng đang làm và cảm thấy gì, vì não của chúng về cơ bản là giống chúng ta. Chúng có cấu trúc giống nhau. Hóc-môn giống nhau tạo ra tâm trạng và động lực trong chúng ta, cũng có trong não chúng. Không khoa học khi nói chúng đói khi chúng săn mồi và chúng mệt khi chúng lè lưỡi, và rồi nói khi chúng chơi đùa vói những đứa con và thể hiện niềm vui và hạnh phúc. chúng ta không thể biết gì nếu chúng có thể đang trải qua điều gì đó. Đó không phải là khoa học.
So OK, so a reporter said to me, "Maybe, but how do you really know that other animals can think and feel?" And I started to rifle through all the hundreds of scientific references that I put in my book and I realized that the answer was right in the room with me. When my dog gets off the rug and comes over to me -- not to the couch, to me -- and she rolls over on her back and exposes her belly, she has had the thought, "I would like my belly rubbed. I know that I can go over to Carl, he will understand what I'm asking. I know I can trust him because we're family. He'll get the job done, and it will feel good."
Vậy OK, một phóng viên nói với tôi, "Có thể, nhưng làm sao bạn thực sự hiểu các loài động vật khác có thể nghĩ và cảm nhận? Và tôi bắt đầu rà soát toàn bộ hàng trăm tài liệu khoa học tham khảo mà tôi đưa vào trong sách và tôi nhận ra câu trả lời ở ngay trong phòng cùng tôi. Khi chú cún của tôi đứng dậy khỏi thảm và tiến về phía tôi -- không phải về phía ghế đi-văng, về phía tôi -- và nó lăn qua lăn lại và và giơ bụng ra, nó đã có suy nghĩ, "Mình muốn được gãi bụng. Mình biết có thể ra chỗ Carl, anh ấy sẽ hiểu mình đang muốn gì. Mình biết có thể tin anh ấy vì chúng mình là một gia đình. Anh ấy sẽ làm việc đó, và nó sẽ có cảm giác rất tuyệt."
(Laughter)
(Tiếng cười)
She has thought and she has felt, and it's really not more complicated than that.
Nó đã nghĩ và nó đã cảm nhận, và nó thực sự không phức tạp hơn thế.
But we see other animals and we say, "Oh look, killer whales, wolves, elephants: that's not how they see it."
Nhưng ta nhìn những động vật khác và ta nói, "Ôi nhìn kìa, cá voi sát thủ, chó sói, voi: đó không phải cách chúng nhìn nhận nó."
That tall-finned male is L41. He's 38 years old. The female right on his left side is L22. She's 44. They've known each other for decades. They know exactly who they are. They know who their friends are. They know who their rivals are. Their life follows the arc of a career. They know where they are all the time.
Con đực vây dài kia là L41. Nó 38 tuổi. Con cái ngay bên phía trái của nó là L22. Nó 44 tuổi. Chúng đã biết nhau hàng thập kỉ nay. Chúng biết chính xác chúng là ai. Chúng biết bạn chúng là ai. Chúng biết đối thủ chúng là ai. Cuộc sống của chúng đi theo vòng cung một sự nghiệp. Chúng biết chúng ở đâu mọi lúc.
This is an elephant named Philo. He was a young male. This is him four days later. Humans not only can feel grief, we create an awful lot of it. We want to carve their teeth. Why can't we wait for them to die? Elephants once ranged from the shores of the Mediterranean Sea all the way down to the Cape of Good Hope. In 1980, there were vast strongholds of elephant range in Central and Eastern Africa. And now their range is shattered into little shards. This is the geography of an animal that we are driving to extinction, a fellow being, the most magnificent creature on land.
Đây là chú voi tên Philo. Chú là một con đực non. Đây là nó bốn ngày sau đó. Con người không chỉ cảm thấy đau buồn, ta còn tạo ra rất nhiều cảm giác đó. Ta muốn cắt ngà của chúng. Tại sao ta không thể chờ chúng chết đi? Loài voi đã từng có thời phân bố khắp từ những bờ Biển Địa Trung Hải xuôi xuống tận Mũi Hảo Vọng. Vào năm 1980, có những đồn lũy mênh mông của loài voi ở Trung và Đông Phi. Và giờ phạm vi của chúng bị phân tán thành những vùng rải rác. Đây là địa lý của một loài động vật mà ta đang đưa đến bờ tuyệt chủng, một sự sống gần gũi, sinh vật tráng lệ nhất trên đất liền.
Of course, we take much better care of our wildlife in the United States. In Yellowstone National Park, we killed every single wolf. We killed every single wolf south of the Canadian border, actually. But in the park, park rangers did that in the 1920s, and then 60 years later they had to bring them back, because the elk numbers had gotten out of control. And then people came. People came by the thousands to see the wolves, the most accessibly visible wolves in the world.
Đương nhiên, ta quan tâm nhiều hơn nhiều tới sinh vật hoang dã của ta ở Hoa Kỳ. Tại Công viên Quốc gia Yellowstone, ta giết mọi con sói. Ta giết mọi con sói, thực sự, ở phía nam Biên giới Canada. Nhưng trong công viên, những bảo vệ đã làm điều đó trong những năm 1920, và rồi 60 năm sau đó họ phải đưa chúng trở lại, bởi vì số lượng nai sừng tấm đã vượt quá tầm kiểm soát. Và rồi con người tới. Hàng ngàn người tới để xem những con sói, bầy sói có thể tiếp cận, nhìn thấy được dễ dàng nhất thế giới.
And I went there and I watched this incredible family of wolves. A pack is a family. It has some breeding adults and the young of several generations. And I watched the most famous, most stable pack in Yellowstone National Park. And then, when they wandered just outside the border, two of their adults were killed, including the mother, which we sometimes call the alpha female. The rest of the family immediately descended into sibling rivalry. Sisters kicked out other sisters. That one on the left tried for days to rejoin her family. They wouldn't let her because they were jealous of her. She was getting too much attention from two new males, and she was the precocious one. That was too much for them. She wound up wandering outside the park and getting shot. The alpha male wound up being ejected from his own family. As winter was coming in, he lost his territory, his hunting support, the members of his family and his mate.
Và rồi tôi tới đó và tôi ngắm gia đình sói đáng kinh ngạc này. Một đàn là một gia đình. Nó có một số con sinh sản trưởng thành và những con non của một vài thế hệ. Và tôi ngắm đàn sói nổi tiếng, ổn định nhất ở Vườn Quốc gia Yellowstone. Và rồi, khi chúng lang thang ngay bên ngoài biên giới, hai trong số những con trưởng thành bị giết, gồm cả con sói mẹ, mà ta đôi khi gọi là con cái alpha. Những con còn lại trong gia đình lập tức xuống dốc, tranh giành giữa ruột thịt. Những con chị em đuổi các chị em khác đi. Con bên trái đã cố gắng mấy ngày liền để tái gia nhập gia đình. Chúng không cho phép nó vì chúng ghen tị với nó. Nó đã được chú ý quá nhiều bởi hai con đực mới, và nó là một con sớm phát triển. Điều đó quá sức với chúng. Nó kết thúc sự sống khi lang thang bên ngoài công viên và bị bắn. Con đực alpha kết thúc khi bị chối bỏ bởi chính gia đình mình. Khi mùa đông đang tới, nó mất lãnh thổ, sự hỗ trợ săn mồi, các thành viên trong gia đình và bạn đời của nó.
We cause so much pain to them. The mystery is, why don't they hurt us more than they do? This whale had just finished eating part of a grey whale with his companions who had killed that whale. Those people in the boat had nothing at all to fear. This whale is T20. He had just finished tearing a seal into three pieces with two companions. The seal weighed about as much as the people in the boat. They had nothing to fear. They eat seals. Why don't they eat us? Why can we trust them around our toddlers? Why is it that killer whales have returned to researchers lost in thick fog and led them miles until the fog parted and the researchers' home was right there on the shoreline? And that's happened more than one time.
Chúng ta đã gây ra quá nhiều nỗi đau cho chúng. Bí ẩn là, vì sao chúng không hại ta nhiều hơn chúng? Con cá voi này vừa mới ăn xong một phần con cá voi xám cùng với các bạn nó đã giết con cá voi kia. Những người trên thuyền kia không có gì phải sợ cả. Con cá voi này là T20. Nó vừa xé xong một con hải cẩu thành ba mảnh cùng với hai bạn nó. Con hải cẩu nặng tương đương những người trên thuyền. Chúng chẳng có gì phải sợ. Chúng ăn hải cẩu. Tại sao chúng không ăn ta? Tại sao ta có thể tin chúng khi chúng ở quanh con nhỏ của ta? Tại sao cá voi sát thủ quay lại với những nhà thám hiểm lạc trong sương mù dày và dẫn họ đi hàng dặm đến khi sương mù tan đi và nhà những người thám hiểm thì ngay ở đó trên bờ? Và điều đó xảy ra nhiều hơn một lần.
In the Bahamas, there's a woman named Denise Herzing, and she studies spotted dolphins and they know her. She knows them very well. She knows who they all are. They know her. They recognize the research boat. When she shows up, it's a big happy reunion. Except, one time showed up and they didn't want to come near the boat, and that was really strange. And they couldn't figure out what was going on until somebody came out on deck and announced that one of the people onboard had died during a nap in his bunk. How could dolphins know that one of the human hearts had just stopped? Why would they care? And why would it spook them? These mysterious things just hint at all of the things that are going on in the minds that are with us on Earth that we almost never think about at all.
Tại Bahamas, có một người phụ nữ tên Denise Herzing, và cô ấy nghiên cứu cá heo đốm và chúng biết cô. Cô hiểu chúng rất rõ. Cô hiểu tất cả chúng là ai. Chúng biết cô. Chúng nhận ra tàu nghiên cứu. Khi cô ấy xuất hiện, đó là sự đoàn tụ hạnh phúc lớn lao. Ngoại trừ, một lần cô xuất hiện và chúng không muốn đến gần con tàu, và điều đó rất kỳ lạ. Và họ không thể hiểu điều gì đang diễn ra tới tận khi một ai đó đi ra trên boong tàu và thông báo rằng một người trên tàu đã chết khi đang chợp mắt trên giường. Làm thế nào cá heo biết được một trong những trái tim của con người đã vừa ngừng lại? Tại sao chúng lại quan tâm? Và tại sao nó lại làm chúng sợ hãi? Những điều bí ẩn này vừa gợi ý tất cả những thứ đang diễn ra trong những trí óc ở cùng chúng ta trên Trái Đất mà ta hầu như không bao giờ nghĩ tới.
At an aquarium in South Africa was a little baby bottle-nosed dolphin named Dolly. She was nursing, and one day a keeper took a cigarette break and he was looking into the window into their pool, smoking. Dolly came over and looked at him, went back to her mother, nursed for a minute or two, came back to the window and released a cloud of milk that enveloped her head like smoke. Somehow, this baby bottle-nosed dolphin got the idea of using milk to represent smoke. When human beings use one thing to represent another, we call that art.
Ở bể nuôi cá và loài thủy sinh tại Nam Phi có một cô cá heo mũi-chai nhỏ tên Dolly. Nó đang được cho bú, và một ngày người trông coi nghỉ giải lao để hút thuốc và anh ấy nhìn qua cửa sổ, nhìn vào bể, hút thuốc. Dolly lại gần và nhìn anh ấy, quay lại với mẹ, bú mẹ trong một hoặc hai phút, quay lại cửa sổ và nhả ra một đám mây sữa bao quanh đầu như khói vậy. Bằng cách nào đó, chú cá heo mũi chai mới sinh này có ý nghĩ sử dụng sữa để tượng trưng cho làn khói. Khi loài người dùng một thứ để biểu trưng cho thứ khác, ta gọi đó là nghệ thuật.
(Laughter)
(Tiếng cười)
The things that make us human are not the things that we think make us human. What makes us human is that, of all these things that our minds and their minds have, we are the most extreme. We are the most compassionate, most violent, most creative and most destructive animal that has ever been on this planet, and we are all of those things all jumbled up together. But love is not the thing that makes us human. It's not special to us. We are not the only ones who care about our mates. We are not the only ones who care about our children.
Những điều làm ta thành con người không phải những điều mà ta nghĩ làm ta thành con người. Điều khiến ta thành con người là, trong tất cả những điều trí não ta và trí não chúng có, chúng ta cực độ nhất. Chúng ta là loài vật có lòng trắc ẩn nhất, bạo lực nhất, sáng tạo nhất và sức hủy diệt lớn nhất từng tồn tại trên hành tinh này, và ta là tất cả những thứ đó lộn xộn lẫn vào nhau. Nhưng tình yêu không phải điều khiến ta là con người. Nó không riêng biệt với ta. Chúng ta không phải loài duy nhất quan tâm đến bạn ta. Chúng ta không phải loài duy nhất quan tâm đến con cái ta.
Albatrosses frequently fly six, sometimes ten thousand miles over several weeks to deliver one meal, one big meal, to their chick who is waiting for them. They nest on the most remote islands in the oceans of the world, and this is what it looks like. Passing life from one generation to the next is the chain of being. If that stops, it all goes away. If anything is sacred, that is, and into that sacred relationship comes our plastic trash. All of these birds have plastic in them now. This is an albatross six months old, ready to fledge -- died, packed with red cigarette lighters.
Loài hải âu lớn thường bay sáu, đôi khi mười ngàn dặm qua vài tuần để vận chuyển một bữa ăn, một bữa ăn lớn, về cho con chúng đang đợi chúng. Chúng làm tổ trên những đảo xa xôi nhất ở những đại dương của thế giới, và nó trông như thế này. Truyền sự sống từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo là chuỗi sự sống. Nếu nó dừng lại, mọi thứ sẽ biến mất. Nếu bất cứ thứ gì là linh thiêng, và vào trong mối quan hệ linh thiêng đó xuất hiện rác ni-lông của chúng ta. Toàn bộ những chú chim này giờ có ni-lông trong chúng. Đây là một chú hải âu lớn sáu tháng tuổi, sẵn sàng đủ lông đủ cánh để bay -- đã chết, chứa đầy bật lửa thuốc lá đỏ.
This is not the relationship we are supposed to have with the rest of the world. But we, who have named ourselves after our brains, never think about the consequences. When we welcome new human life into the world, we welcome our babies into the company of other creatures. We paint animals on the walls. We don't paint cell phones. We don't paint work cubicles. We paint animals to show them that we are not alone. We have company. And every one of those animals in every painting of Noah's ark, deemed worthy of salvation is in mortal danger now, and their flood is us.
Đây không phải mối quan hệ ta đáng ra phải có với phần còn lại của thế giới. Nhưng ta, những người đã đặt tên chính bản thân theo trí óc mình, không bao giờ nghĩ về những hậu quả. Khi ta chào đón sinh mệnh con người mới đến với thế giới, ta chào đón những đứa con ta vào sự bầu bạn của những sinh vật khác. Ta sơn hình những con vật trên tường. Ta không sơn điện thoại di động. Ta không sơn phòng ngủ nhỏ nơi làm việc. Ta sơn hình động vật để chúng thấy ta không hề đơn độc. Ta có bạn đồng hành. Và mọi động vật trong số đó ở mọi bức vẽ trên thuyền Noah, tưởng như xứng đáng sự cứu tế giờ đang trong nguy hiểm sống còn, và nạn lụt của chúng là chúng ta.
So we started with a question: Do they love us? We're going to ask another question. Are we capable of using what we have to care enough to simply let them continue?
Vậy ta bắt đầu với một câu hỏi: Chúng có yêu ta không? Ta sẽ hỏi một câu hỏi khác. Liệu ta có khả năng sử dụng thứ ta có để đủ quan tâm để đơn giản khiến chúng tiếp tục?
Thank you very much.
Cảm ơn rất nhiều.
(Applause)
(Tiếng vỗ tay)