I would like to share with you this morning some stories about the ocean through my work as a still photographer for National Geographic magazine. I guess I became an underwater photographer and a photojournalist because I fell in love with the sea as a child. And I wanted to tell stories about all the amazing things I was seeing underwater, incredible wildlife and interesting behaviors. And after even 30 years of doing this, after 30 years of exploring the ocean, I never cease to be amazed at the extraordinary encounters that I have while I'm at sea. But more and more frequently these days I'm seeing terrible things underwater as well, things that I don't think most people realize. And I've been compelled to turn my camera towards these issues to tell a more complete story. I want people to see what's happening underwater, both the horror and the magic.
Sáng hôm nay tôi muốn chia sẻ với các bạn một vài câu chuyện về đại dương qua công việc của tôi-một nhiếp ảnh gia của tạp chí Địa Lý Quốc Gia (National Geographic) Tôi nghĩ rằng tôi trở thành một nhà nhiếp ảnh dưới lòng đại dương và một phóng viên ảnh bởi tôi yêu đại dương như một đứa trẻ vậy. Và tôi muốn kể một vài câu chuyện về tất cả những gì tuyệt vời mà tôi đã trông thấy dưới nước cuộc sống hoang dã và các hành vi đáng kinh ngạc thú vị. Và sau 30 năm làm công việc này, sau 30 năm quan sát đại dương, tôi chưa bao giờ hết ngạc nhiên với những cuộc gặp gỡ bất thường trong khi đang trên biển. Nhưng gần đây tôi cũng thấy ngày càng nhiều hơn những thứ tồi tệ dưới đại dương, những thứ mà tôi không nghĩ đa số mọi người nhận ra. Và tôi buộc phải hướng máy ảnh của mình về phía những thứ tồi tệ này nhằm mục đích kể một câu chuyện toàn diện hơn. Tôi muốn mọi người thấy những gì đang diễn ra dưới đại dương cả khía cạnh kinh hoàng lẫn kỳ diệu.
The first story that I did for National Geographic, where I recognized the ability to include environmental issues within a natural history coverage, was a story I proposed on harp seals. The story I wanted to do initially was just a small focus to look at the few weeks each year where these animals migrate down from the Canadian arctic to the Gulf of St. Lawrence in Canada to engage in courtship, mating and to have their pups. And all of this is played out against the backdrop of transient pack ice that moves with wind and tide. And because I'm an underwater photographer, I wanted to do this story from both above and below, to make pictures like this that show one of these little pups making its very first swim in the icy 29-degree water. But as I got more involved in the story, I realized that there were two big environmental issues I couldn't ignore. The first was that these animals continue to be hunted, killed with hakapiks at about eight, 15 days old. It actually is the largest marine mammal slaughter on the planet, with hundreds of thousands of these seals being killed every year.
Câu chuyện đầu tiên mà tôi thực hiện cho tạp chí Địa Lý Quốc Gia (NatGeo) ở đó tôi nhận ra khả năng có thể bao hàm những vấn đề môi trường trong phạm vi lịch sử tự nhiên là một câu chuyện tôi đã đề xuất về hải cẩu bắc cực. Bây giờ câu chuyện tôi muốn kể, đầu tiên, là chỉ tập trung quan sát vài tuần mỗi năm ở đó những loài này di trú xuống từ bắc cực của Canada đến vịnh St. Lawrence của Canada để kết đôi, giao phối và đẻ con. Và tất cả những điều này diễn ra trong bối cảnh các tảng băng trôi di chuyển theo gió và thủy triều. Và vì tôi là nhiếp ảnh gia dưới nước, nên tôi muốn thực hiện câu chuyện này từ cả phía trên lẫn phía dưới, để chụp hình giống như này, bức hình một trong số những con non thực hiện lần bơi đầu tiên trong nước băng đá ở nhiệt độ -29 độ. Nhưng khi tôi để hết tâm trí vào câu chuyện, tôi nhận ra rằng có hai vấn đề môi trường lớn tôi không thể bỏ qua. Đầu tiên là những sinh vật này đang tiếp tục bị săn bắn, bị giết hại bằng như cây dùi hakapik khi mới được 8, 15 ngày tuổi. Đó thực tế là sát hại động vật biển có vú lớn nhất trên hành tinh, vơi số lượng hàng trăm ngàn con bị giết hằng năm.
But as disturbing as that is, I think the bigger problem for harp seals is the loss of sea ice due to global warming. This is an aerial picture that I made that shows the Gulf of St. Lawrence during harp seal season. And even though we see a lot of ice in this picture, there's a lot of water as well, which wasn't there historically. And the ice that is there is quite thin. The problem is that these pups need a stable platform of solid ice in order to nurse from their moms. They only need 12 days from the moment they're born until they're on their own. But if they don't get 12 days, they can fall into the ocean and die. This is a photo that I made showing one of these pups that's only about five or seven days old -- still has a little bit of the umbilical cord on its belly -- that has fallen in because of the thin ice, and the mother is frantically trying to push it up to breathe and to get it back to stable purchase. This problem has continued to grow each year since I was there. I read that last year the pup mortality rate was 100 percent in parts of the Gulf of St. Lawrence. So, clearly, this species has a lot of problems going forward. This ended up becoming a cover story at National Geographic. And it received quite a bit of attention.
Nhưng đáng lo ngại hơn thế là, tôi nghĩ vấn đề lớn hơn cho hải cẩu bắc cực là sự mất đi của băng đá do tình trạng ấm lên của trái đất. Đây là một hình ảnh từ trên không mà tôi chụp được cho thấy vịnh St. Lawrence vào mùa hải cẩu bắc cực. Và mặc dù chúng ta thấy rất nhiều băng trong bức ảnh này, nhưng cũng thấy rất nhiều nước, mà trong quá khứ không có. Và lớp băng khá mỏng. Vấn đề là những con non này cần một nền băng vững chắc để được nuôi bởi mẹ chúng. Chúng chỉ cần 12 ngày từ khi sinh ra tới khi chúng có thể tự lập. Nhưng nếu chúng ko có 12 ngày trên băng, chúng có thể ngã xuống biển và chết. Đây là bức ảnh tôi chụp cho thấy một trong số những con non này mới 5 hay 7 ngày tuổi -- vẫn có một ít dây rốn trên bụng của nó - bị ngã xuống biển do lớp băng quá mỏng, và con mẹ đang cố gắng trong điên cuồng đẩy nó lên để nó có thể thở và đưa nó lại chỗ bám ổ định. Vấn đề này vấn đang tiếp tục trầm trọng thêm mỗi năm. Tôi đã đọc được rằng, năm ngoái, tỷ lệ tử vong các con non là 100 phần trăm ở các khu vực thuộc vịnh St Lawrence. Vì vậy, rõ ràng, loài này sẽ rất khó để sinh tồn trong tương lai. Dự án này kết thúc đã trở thành một câu chuyện đăng trên trang bìa của tạp chí. Và đã nhận được khá nhiều sự chú ý.
And with that, I saw the potential to begin doing other stories about ocean problems. So I proposed a story on the global fish crisis, in part because I had personally witnessed a lot of degradation in the ocean over the last 30 years, but also because I read a scientific paper that stated that 90 percent of the big fish in the ocean have disappeared in the last 50 or 60 years. These are the tuna, the billfish and the sharks. When I read that, I was blown away by those numbers. I thought this was going to be headline news in every media outlet, but it really wasn't, so I wanted to do a story that was a very different kind of underwater story. I wanted it to be more like war photography, where I was making harder-hitting pictures that showed readers what was happening to marine wildlife around the planet.
Và với thành công đó, tôi thấy được tiềm năng cho việc bắt đầu thực hiện các câu chuyện khác về các vấn đề đại dương. Vì vậy tôi đề nghị một chủ đề về khủng hoảng cá toàn cầu, một phần bởi vì tôi đã đích thân chứng kiến rất nhiều sự suy giảm trong đại dương trong vòng 30 năm qua, mà còn bởi vì tôi đọc một bài báo khoa học trong đó chỉ ra 90 % các loại cá lớn trong đại dương đã biến mất trong 50 hay 60 năm vừa qua. Đây là những con cá ngừ, cá kiếm và những con cá mập. Và khi tôi đọc nó, tôi vô cùng ngạc nhiên bởi các con số ! Tôi nghĩ đây sẽ là tiêu đề tin tức trong mọi phương tiện truyền thông. Nhưng thực tế không như vậy, vì vậy tôi muốn thực hiện một câu chuyện khác hoàn toàn với các câu chuyện về cuộc sống dưới nước. Tôi muốn nó gần giống với nhiếp ảnh chiến trường, ở đó tôi sẽ chụp những bức ảnh trong điều kiện như đang ở chiến trường chúng cho độc giả thấy được thực trạng đang diễn ra với động vật biển trên khắp hành tinh.
The first component of the story that I thought was essential, however, was to give readers a sense of appreciation for the ocean animals that they were eating. You know, I think people go into a restaurant, and somebody orders a steak, and we all know where steak comes from, and somebody orders a chicken, and we know what a chicken is, but when they're eating bluefin sushi, do they have any sense of the magnificent animal that they're consuming? These are the lions and tigers of the sea. In reality, these animals have no terrestrial counterpart; they're unique in the world. These are animals that can practically swim from the equator to the poles and can crisscross entire oceans in the course of a year. If we weren't so efficient at catching them, because they grow their entire life, would have 30-year-old bluefin out there that weigh a ton. But the truth is we're way too efficient at catching them, and their stocks have collapsed worldwide.
Phần đầu tiên của câu chuyện mà tôi nghĩ là cần thiết, tuy nhiên, là để cho độc giả cảm thấy đánh giá cao những động vật biển mà họ đã ăn. Bạn biết đấy, tôi nghĩ rằng mọi người tới nhà hàng, một số người gọi món thịt bò hầm, và chúng ta đều biết rõ nguyên liệu để làm món đó lấy từ đâu, một số người gọi món gà, và chúng ta cũng đều biết rõ con gà nó như nào, nhưng khi họ ăn món sushi cá ngừ vây xanh, thì họ không hề biết về các động vật tuyệt đẹp mà họ đang tiêu thụ ? Bây giờ, đây là những con sư tử và hổ biển. Trong thực tế, những động vật này không có bản sao trên đất liền; chúng là duy nhất trên thế giới. Đây là những động vật có thể bơi từ xích đạo đến các cực và có thể lan tỏa khắp các đại dương trong toàn bộ quá trình một năm. Nếu chúng ta không đánh bắt chúng, chúng sẽ không ngừng lớn lên trong suốt cuộc đời, và sẽ có những con cá ngừ vây xanh 30 tuổi nặng hàng tấn. Nhưng sự thực là chúng ta có cách đánh bắt quá hiệu quả ! nên nguồn cá đã bị suy giảm nghiêm trọng trên phạm vi toàn thế giới.
This is the daily auction at the Tsukiji Fish Market that I photographed a couple years ago. And every single day these tuna, bluefin like this, are stacked up like cordwood, just warehouse after warehouse. As I wandered around and made these pictures, it sort of occurred to me that the ocean's not a grocery store, you know. We can't keep taking without expecting serious consequences as a result.
Đây là phiên đấu giá hàng ngày tại chợ cá Tsukiji đó là bức ảnh tôi chụp 2 năm trước. Và mỗi ngày những con cá ngừ vây xanh này, được xếp thành đống như đống gỗ, trong các nhà kho san sát. Và tôi đi lang thang quanh khu vực chọ và chụp những bức ảnh này, trong tâm trí tôi xuất hiện ý nghĩ đại dương không phải là một cửa hàng tạp hóa, bạn biết đấy. Chúng ta không thể tiếp tục dùng mà không nghĩ tới hậu quả nghiêm trọng.
I also, with the story, wanted to show readers how fish are caught, some of the methods that are used to catch fish, like a bottom trawler, which is one of the most common methods in the world. This was a small net that was being used in Mexico to catch shrimp, but the way it works is essentially the same everywhere in the world. You have a large net in the middle with two steel doors on either end. And as this assembly is towed through the water, the doors meet resistance with the ocean, and it opens the mouth of the net, and they place floats at the top and a lead line on the bottom. And this just drags over the bottom, in this case to catch shrimp. But as you can imagine, it's catching everything else in its path as well. And it's destroying that precious benthic community on the bottom, things like sponges and corals, that critical habitat for other animals.
Qua câu chuyện, tôi cũng muốn chỉ cho người đọc thấy cá được đánh bắt như thế nào, một số phương pháp được sử dụng để đánh bắt cá, như là một tàu đánh cá dưới, đó là một trong những phương pháp phổ biến nhất trên thế giới. Đây là một tấm lưới nhỏ được sử dụng ở Mexico để bắt tôm, nhưng cách thức hoạt động cơ bản là giống nhau ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bạn có một cái lưới lớn ở giữa với 2 cửa ở một trong 2 đầu. Và khi chiếc lưới này được kéo dưới nước hai cửa gặp phải lực cản của nước, và nó mở miệng lưới ra, và họ đặt nổi ở phía trên và một đường dẫn ở phía đáy. Và chỉ kéo lê phía trên của đáy, trong trường hợp này để bắt tôm. Nhưng như bạn có thể tưởng tượng, nó cũng bắt tất cả các loài khác trên đường đi của nó. Và nó đang phá hủy cộng đồng sinh vật quý hiếm dưới đáy biển, những thứ như bọt biển và san hô, đó là môi trường sống quan trọng của các động vật khác.
This photograph I made of the fisherman holding the shrimp that he caught after towing his nets for one hour. So he had a handful of shrimp, maybe seven or eight shrimp, and all those other animals on the deck of the boat are bycatch. These are animals that died in the process, but have no commercial value. So this is the true cost of a shrimp dinner, maybe seven or eight shrimp and 10 pounds of other animals that had to die in the process. And to make that point even more visual, I swam under the shrimp boat and made this picture of the guy shoveling this bycatch into the sea as trash and photographed this cascade of death, you know, animals like guitarfish, bat rays, flounder, pufferfish, that only an hour before, were on the bottom of the ocean, alive, but now being thrown back as trash.
Bức hình này tôi chụp một người đánh cá đang giữ con tôm mà anh ta bắt được sau khi kéo lưới khoảng một giờ. Vì vậy, ông đã bắt được một nhúm tôm, có thể bảy hoặc tám con, và tất cả những sinh vật đó trên boong tàu cũng đồng thời bị lưới kéo lên. Những sinh vật này đã chết trong quá trình này, nhưng không hề có giá trị về mặt kinh tế. VÌ vậy đây là cái giá thực của một bữa tối với món tôm, có thể 7 hoặc 8 con tôm và 10 lbs các sinh vật khác đã phải chết trong quá tinh này. Và để nhấn mạnh điểm này, tôi đã bơi phía dưới con tầu đánh bắt tôm và chụp bức ảnh này của một gã đang xúc những sinh vật bị bắt nhầm này đổ ra biển như là rác và chụp được dòng thác của cái chết, Bạn biết đấy, các sinh vật thuộc họ cá đuối, cá bơn, cá nóc, mà chỉ một giờ trước đây, còn đang ở dưới đáy của đại dương, còn sống, nhưng giờ đây bị ném trở lại như là rác
I also wanted to focus on the shark fishing industry because, currently on planet Earth, we're killing over 100 million sharks every single year. But before I went out to photograph this component, I sort of wrestled with the notion of how do you make a picture of a dead shark that will resonate with readers You know, I think there's still a lot of people out there who think the only good shark is a dead shark. But this one morning I jumped in and found this thresher that had just recently died in the gill net. And with its huge pectoral fins and eyes still very visible, it struck me as sort of a crucifixion, if you will. This ended up being the lead picture in the global fishery story in National Geographic. And I hope that it helped readers to take notice of this problem of 100 million sharks.
Tôi cũng muốn tập trung vào ngành công nghiệp đánh bắt cá mập bởi vì hiện nay trên hành tinh, chúng ta đang giết hại 100 triệu con cá mập mỗi năm. Nhưng trước khi tôi ra ngoài để chụp về nó, tôi đã vật lộn với các ý niệm về làm thế nào để chụp hình ảnh của một con cá mập chết mà sẽ làm rung động độc giả. Bạn biết đấy, tôi nghĩ vẫn còn có rất nhiều người ở ngoài kia nghĩ rằng tốt nhất là cho mấy con cá mập chết hết đi. Nhưng một buổi sáng tôi nhảy vào và tìm thấy con cá nhám đuôi dài này nó vừa mới bị chết trong lưới dạng mang. Và với vây ngực rất lớn và đôi mắt của nó vẫn còn rất rõ ràng, nó làm tôi cảm thấy nhói lòng như bị đóng đinh. Điều này cuối cùng lại trở thành những hình ảnh chính trong câu chuyện thuỷ sản toàn cầu trong tạp chí NatGeo. Và tôi hi vọng rằng nó giúp người đọc chú ý tới vấn đề 100 triệu con cá mập.
And because I love sharks -- I'm somewhat obsessed with sharks -- I wanted to do another, more celebratory, story about sharks, as a way of talking about the need for shark conservation. So I went to the Bahamas because there're very few places in the world where sharks are doing well these days, but the Bahamas seem to be a place where stocks were reasonably healthy, largely due to the fact that the government there had outlawed longlining several years ago. And I wanted to show several species that we hadn't shown much in the magazine and worked in a number of locations.
Và bởi vì tôi yêu quý cá mập -- Tôi hơi bị ám ảnh bởi cá mập -- Tôi muốn thực hiện một dự án khác, mang nhiều tính dấu ấn hơn, câu chuyện về cá mập, như một cách để nói về sự cần thiết phải bảo tồn cá mập. Vì vậy tôi đã đến Bahamas do ngày nay có rất ít nơi trên trái đất mà ở đó cá mập có được môi trường sống tốt, Bahamas dường như là một nơi mà quần thể sinh vật biển sống tốt, chủ yếu là do thực tế là chính phủ ở đó đã cấm đánh bắt cá mập từ vài năm về trước. Và tôi muốn thể hiện một số loài mà chúng tôi đã không thể hiện nhiều trong tạp chí và thực hiện tại một số địa điểm.
One of the locations was this place called Tiger Beach, in the northern Bahamas where tiger sharks aggregate in shallow water. This is a low-altitude photograph that I made showing our dive boat with about a dozen of these big old tiger sharks sort of just swimming around behind. But the one thing I definitely didn't want to do with this coverage was to continue to portray sharks as something like monsters. I didn't want them to be overly threatening or scary. And with this photograph of a beautiful 15-feet, probably 14-feet, I guess, female tiger shark, I sort of think I got to that goal, where she was swimming with these little barjacks off her nose, and my strobe created a shadow on her face. And I think it's a gentler picture, a little less threatening, a little more respectful of the species.
Một trong số các địa điểm là nơi này có tên là Bãi Biển Hổ (Tiger Beach), nằm ở phía bắc của Bahamas nơi mà cá mập Hổ sống tập chung trong vùng nước nông. Đây là bức ảnh tôi đã thực hiện ở độ cao thấp cho thấy thuyền lặn của chúng tôi được vây quanh bởi hàng chục con cá mập Hổ già rất lớn đang bơi xung quanh phía dưới. Nhưng một điều tôi hoàn toàn không muốn đưa ra là tiếp tục xem cá mập như là những con quái vật. Tôi không muốn chúng trở thành như một cái gì đó quá nguy hiểm hay đáng sợ. và với bức ảnh tuyệt đẹp này dài khoản 4,5m có thể là 4m. tôi đoán vậy, một con cá mập Hổ cái, Tôi có suy nghĩ là tôi đã đạt được mục tiêu, con cá mập đang bơi với mấy con cá barjack nhỏ lởn vởn trước mặt, và ánh đèn flash của máy ảnh tạo một cái bóng trên mặt nó. Và tôi nghĩ đó là một hình ảnh nhẹ nhàng hơn, ít sợ hãi hơn, thêm một chút tôn trọng với các loài này.
I also searched on this story for the elusive great hammerhead, an animal that really hadn't been photographed much until maybe about seven or 10 years ago. It's a very solitary creature. But this is an animal that's considered data deficient by science in both Florida and in the Bahamas. You know, we know almost nothing about them. We don't know where they migrate to or from, where they mate, where they have their pups, and yet, hammerhead populations in the Atlantic have declined about 80 percent in the last 20 to 30 years. You know, we're losing them faster than we can possibly find them.
Tôi cũng nghiên cứu câu chuyện này với loài cá mập đầu búa lớn hay ẩn nấp. Một loài vật chưa được chụp hình nhiều cho tới khoảng 7 hay 10 năm về trước. Nó là một loài sinh vật rất cô độc. Nhưng đó là một loài vật được coi là thiếu dữ liệu khoa học ở cả Florida và ở Bahamas. Mọi người biết đấy, chúng ta gần như không biết gì về chúng. Chúng ta không biết nơi chúng di cư tới đâu hay đến từ đâu, nơi chúng kết đôi giao phối, nơi chúng đẻ con, và chưa biết rằng số lượng cá mập đầu búa trong Đại Tây Dương đã giảm mạnh tới 80% trong khoảng 20 đến 30 năm gần đây. Mọi người biết đấy, chúng ta đang mất dần chúng nhanh hơn cả khả năng chúng ta tìm thấy chúng.
This is the oceanic whitetip shark, an animal that is considered the fourth most dangerous species, if you pay attention to such lists. But it's an animal that's about 98 percent in decline throughout most of its range. Because this is a pelagic animal and it lives out in the deeper water, and because we weren't working on the bottom, I brought along a shark cage here, and my friend, shark biologist Wes Pratt is inside the cage. You'll see that the photographer, of course, was not inside the cage here, so clearly the biologist is a little smarter than the photographer I guess.
Đây là con cá mập Trắng đại dương, Là một sinh vật được xếp hạng thứ tư trong số những loài vật nguy hiểm nhất, nếu bạn quan tâm tới danh sách đó. Nhưng nó là sinh vật giảm tới 98 % số lượng. Bởi vì nó là loài sống xa bờ ở tầng nước sâu hơn, và bởi vì chúng ta đang không làm việc ở dưới đáy, Tôi mang theo một lồng cá mập, và bạn của tôi, nhà sinh vật học chuyên nghiên cứu về cá mập Wes Pratt đang ở trong lồng. Bạn sẽ thấy người chụp ảnh, dĩ nhiên, không ở trong lồng, vậy rõ ràng là nhà sinh vật học thông minh hơn nhà nhiếp ảnh một chút, tôi đoán vậy.
And lastly with this story, I also wanted to focus on baby sharks, shark nurseries. And I went to the island of Bimini, in the Bahamas, to work with lemon shark pups. This is a photo of a lemon shark pup, and it shows these animals where they live for the first two to three years of their lives in these protective mangroves. This is a very sort of un-shark-like photograph. It's not what you typically might think of as a shark picture. But, you know, here we see a shark that's maybe 10 or 11 inches long swimming in about a foot of water. But this is crucial habitat and it's where they spend the first two, three years of their lives, until they're big enough to go out on the rest of the reef. After I left Bimini, I actually learned that this habitat was being bulldozed to create a new golf course and resort.
Và cuối cùng với câu chuyện này, Tôi cũng muốn tập trung vào cách nuôi dưỡng cá mập con. Và tôi tới đảo Bimini, ở Bahamas, để chụp hình cá mập Chanh (Lemon) con. Đây là một bức ảnh của một con cá mập Chanh, và nó cho thấy loài cá này sống trong vùng có các cây đước bảo vệ trong vòng 2 đến 3 năm đầu đời Đây là một số bức ảnh không giống hình dạng cá mập. Nó không phải là những gì mọi người thường nghĩ về hình ảnh cá mập. Nhưng, bạn biết đấy, ở đây chúng ta thấy một con cá mập dài khoảng 25-28 cm đang bơi trong vùng nước nông. Nhưng điều này là môi trường sống rất quan trọng và đó là nơi chúng sống trong hai, ba năm đầu, cho tới khi chúng đủ lớn để có thể ra sống ở phần còn lại của dải đá ngầm. Sau khi tôi rời khỏi Bimini, tôi đã học được rằng môi trường sống này đang bị san phẳng để tạo ra một sân golf và khu nghỉ dưỡng mới.
And other recent stories have looked at single, flagship species, if you will, that are at risk in the ocean as a way of talking about other threats. One such story I did documented the leatherback sea turtle. This is the largest, widest-ranging, deepest-diving and oldest of all turtle species. Here we see a female crawling out of the ocean under moonlight on the island of Trinidad. These are animals whose lineage dates back about 100 million years. And there was a time in their lifespan where they were coming out of the water to nest and saw Tyrannosaurus rex running by. And today, they crawl out and see condominiums. But despite this amazing longevity, they're now considered critically endangered. In the Pacific, where I made this photograph, their stocks have declined about 90 percent in the last 15 years.
Và những câu chuyện khác gần đây về các loài đơn lẻ đang gặp nhiềurủi ro trong đại dương. như là một cách để nói về các mối đe dọa khác. Một trong những câu chuyện như thế tôi đã thực hiện về loài rùa biển da lưng. Đây là loài rùa thọ lâu nhất, lặn sâu nhất và có vùng hoạt động rộng nhất. Trên hình chúng ta thấy một con rùa cái đang bò lên từ biển dưới ánh trăng trên đảo Trinidad. Đây là loài vật đã có mặt trên trái đất từ hàng 100 triệu năm. Và có một thời điểm trong lịch sử phát triển của chúng chúng đã lên bờ và làm tổ và chứng kiến Tyrannosaurus rex (khủng long bạo chúa) tuyệt chủng. Và ngày nay, chúng bò lên bờ và thấy các chung cư cao tầng. Nhưng, mặc dù có lịch sử đáng kinh ngạc như thế, chúng đang được coi là cực kỳ nguy cấp. Trong Đại Tây Dương, nơi tôi chụp bức ảnh này, số lượng của chúng đã giảm khoảng 90 % trong vòng 15 năm qua.
This is a photograph that shows a hatchling about to taste saltwater for the very first time beginning this long and perilous journey. Only one in a thousand leatherback hatchlings will reach maturity. But that's due to natural predators like vultures that pick them off on a beach or predatory fish that are waiting offshore. Nature has learned to compensate with that, and females have multiple clutches of eggs to overcome those odds. But what they can't deal with is anthropogenic stresses, human things, like this picture that shows a leatherback caught at night in a gill net. I actually jumped in and photographed this, and with the fisherman's permission, I cut the turtle out, and it was able to swim free. But, you know, thousands of other leatherbacks each year are not so fortunate, and the species' future is in great danger.
Đây là một bức ảnh cho thấy một con non mới nở nếm vị mặn của nước biển lần đầu tiên bắt đầu hành trình dài và nguy hiểm này. Chỉ 1 trong 1000 con rùa con mai da sống sót đến khi trưởng thành. Nhưng đó là do động vật ăn thịt tự nhiên như chim kền kên ăn thịt chúng trên bãi biển hay các loài cá ăn thịt đang chờ đợi ở phía ngoài khơi. Tự nhiên đã đền bù cho việc này với việc các con rùa cái đẻ rất nhiều trứng để vượt qua sự mất mát này. Nhưng chúng không thể giải quyết được những vấn đề đến từ con người giống như bức ảnh này cho thấy loài rùa bị bắt trong đêm với chiếc lưới mang. Tôi đã nhảy vào và chụp tấm này, và với sự cho phép của những người đánh cá, Tôi bắt các con rùa ra và nó có thể bơi tự do. Nhưng bạn biết đây, hàng ngàn con rùa mai da mỗi năm không có được vận may như thế, và tương lai những loài vật này là cực kỳ nguy hiểm.
Another charismatic megafauna species that I worked with is the story I did on the right whale. And essentially, the story is this with right whales, that about a million years ago, there was one species of right whale on the planet, but as land masses moved around and oceans became isolated, the species sort of separated, and today we have essentially two distinct stocks. We have the Southern right whale that we see here and the North Atlantic right whale that we see here with a mom and calf off the coast of Florida. Now, both species were hunted to the brink of extinction by the early whalers, but the Southern right whales have rebounded a lot better because they're located in places farther away from human activity.
Một loài động vật lớn có sức lôi cuốn mà tôi đã nghiên cứu là loài cá voi. Và về cơ bản, đây là câu chuyện về loài cá voi, hàng triệu năm trước, đã có loài cá voi trên trái đất, nhưng các lục địa di chuyển và các đại dương trở thành vật ngăn cách, các loài vật này phân chia, và ngày nay chúng ta có về cơ bản 2 khối riêng biệt. Chúng ta có cá voi phía Nam như chúng ta thấy đây và cá voi phía Bắc Đại Tây Dương như ta thấy đây với một con mẹ và con con ngoài khơi bờ biển Florida. Bây giờ, cả hai loài đều bị săn bắt đến bờ vực sự tuyệt chủng bởi các tầu săn cá voi, nhưng cá voi phía Nam đã hồi phục tốt hơn bởi vì chúng sống trong vùng xa tầm hoạt động của con người.
The North Atlantic right whale is listed as the most endangered species on the planet today because they are urban whales; they live along the east coast of North America, United States and Canada, and they have to deal with all these urban ills. This photo shows an animal popping its head out at sunset off the coast of Florida. You can see the coal burning plant in the background. They have to deal with things like toxins and pharmaceuticals that are flushed out into the ocean, and maybe even affecting their reproduction. They also get entangled in fishing gear. This is a picture that shows the tail of a right whale. And those white markings are not natural markings. These are entanglement scars. 72 percent of the population has such scars, but most don't shed the gear, things like lobster traps and crab pots. They hold on to them, and it eventually kills them. And the other problem is they get hit by ships. And this was an animal that was struck by a ship in Nova Scotia, Canada being towed in, where they did a necropsy to confirm the cause of death, which was indeed a ship strike. So all of these ills are stacking up against these animals and keeping their numbers very low.
Cá voi phía Bắc Đại Tây Dương bị liệt vào danh sách nhưng loài vật có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất trên hành tinh ngày nay bởi chúng là cá voi đô thị; chúng sống dọc theo bờ biển phía đông của Bắc Mỹ, Hoa Kỳ và Canada, và chúng phải đối mặt với mặt xấu của thành thị. Bức ảnh này cho thấy một con vật nhô đầu lên khỏi mặt nước vào lúc hoàng hôn ở bờ biển Florida. Bạn có thể thấy các nhà máy đốt than trong nền của tấm ảnh. Chúng phải đối phó với những thứ như độc tố và dược phẩm được xả ra ngoài đại dương, và có thể ảnh hưởng tới việc sinh sản của chúng. Chúng cũng bị mắc vào các ngư cụ. Đây là bức ảnh cho thấy đuôi của con cá voi. và vết sẹo mầu trắng là không phải vết tự nhiên. Có một số vết sẹo do bị mắc ngư cụ. 72 % số các con cá voi có vết sẹo kiểu như vậy, nhưng phần lớn không phải va chạm với bánh lái mà là với các thứ như bẫy tôm hùm và cua. Chúng dính vào người cá voi và cuối cùng giết chúng. Và vấn đề khác là chúng va chạm với các con tầu biển. Và đây là một con vật bị một con tầu đâm phải tại Nova Scotia, Canada đang được kéo vào, ở đây họ tiến hành phẫu nghiệm xác chết để xác định nguyên nhân của cái chết, đó thực sự đã bị tầu đâm phải. Vì vậy, tất cả những vấn đề này chống lại các loài cá và làm giảm số lượng nghiêm trọng.
And to draw a contrast with that beleaguered North Atlantic population, I went to a new pristine population of Southern right whales that had only been discovered about 10 years ago in the sub-Antarctic of New Zealand, a place called the Auckland Islands. I went down there in the winter time. And these are animals that had never seen humans before, and I was one of the first people they probably had ever seen. And I got in the water with them, and I was amazed at how curious they were. This photograph shows my assistant standing on the bottom at about 70 feet and one of these amazingly beautiful, 45-foot, 70-ton whales, like a city bus just swimming up, you know. They were in perfect condition, very fat and healthy, robust, no entanglement scars, the way they're supposed to look. You know, I read that the pilgrims, when they landed at Plymouth Rock in Massachusetts in 1620, wrote that you could walk across Cape Cod Bay on the backs of right whales. And we can't go back and see that today, but maybe we can preserve what we have left.
Và để đưa ra sự tương phản với số lượng loài quanh Bắc Đại Tây Dương, Tôi tới phía nam một vùng mới có số lượng cá voi còn khá nguyên sơ nó mới chỉ được khám phá khoảng 10 năm trước tại Sub Antarctic của New Zealand, một nơi được gọi là quần đảo Auckland. Tôi đến đó trong thời gian mùa đông. Và đây là những động vật chưa bao giờ thấy con người. Và tôi là một trong số những người đầu tiên chúng thấy. Và tôi xuống nước với chúng, và tôi bị ngạc nhiên bởi sự tò mò của chúng. Tấm hình này cho thấy người phụ tá của tôi đứng ở đáy sâu khoảng 70 feet và một trong số những bức hình tuyệt đẹp này, gần 14m, nhưng con cá voi nặng tới 70 tấn, giống như một chiếc xe Bus đang bơi lên. Chúng sống trong một điều kiện hoàn hảo, rất béo và khỏe mạnh, cường tráng, và không có các vết sẹo, cá voi thì nên trông như vậy. Bạn biết đấy, tôi đọc thấy rằng những người hành hương, khi họ đặt chân tới Plymouth Rock ở Massachusetts năm 1620, viết rằng bạn có thể đi bộ qua vịnh Cape Cod trên lưng của những con cá voi. Và chúng ta không thể trở lại và chứng kiến điều đó ngày nay, nhưng có thể chúng ta có thể gìn giữ những gì còn lại.
And I wanted to close this program with a story of hope, a story I did on marine reserves as sort of a solution to the problem of overfishing, the global fish crisis story. I settled on working in the country of New Zealand because New Zealand was rather progressive, and is rather progressive in terms of protecting their ocean. And I really wanted this story to be about three things: I wanted it to be about abundance, about diversity and about resilience. And one of the first places I worked was a reserve called Goat Island in Leigh of New Zealand. What the scientists there told me was that when protected this first marine reserve in 1975, they hoped and expected that certain things might happen.
Và tôi muốn đóng chưng trình với một câu chuyện của hy vọng, một câu chuyện tôi đã thực hiện trên khu bảo tồn như là một giải pháp cho vấn đề săn bắt quá mức các loài cá, câu chuyện khủng hoảng cá toàn cầu. Tôi quyết định thực hiện tại New Zealand bởi vì New Zealand là khá tiến bộ, và khá tiến bộ trong việc bảo vệ đại dương của họ. Và tôi thực sự muốn câu chuyện này làm về 3 chủ đề. Tôi muốn nó thể hiện được sự phong phú, về sự đa dạng và về khả năng phục hồi. Và một trong những nơi tôi làm việc là khu bảo tồn có tên Đảo Goat tại Leigh, New Zealand. Những nhà khoa học ở đó nói với tôi rằng khi bảo vệ khu bảo tồn đầu tiên năm 1975, họ hy vọng và mong rằng những điều cụ thể sẽ xảy ra.
For example, they hoped that certain species of fish like the New Zealand snapper would return because they had been fished to the brink of commercial extinction. And they did come back. What they couldn't predict was that other things would happen. For example, these fish predate on sea urchins, and when the fish were all gone, all anyone ever saw underwater was just acres and acres of sea urchins. But when the fish came back and began predating and controlling the urchin population, low and behold, kelp forests emerged in shallow water. And that's because the urchins eat kelp. So when the fish control the urchin population, the ocean was restored to its natural equilibrium. You know, this is probably how the ocean looked here one or 200 years ago, but nobody was around to tell us.
Ví dụ, họ hy vọng những loài cá cụ thể như là cá chỉ vàng New Zealand sẽ quay trở lại bởi vì chúng đã bị đánh bắt tới bờ vực tuyệt chủng thương mại. Và chúng đã trở lại. Những gì họ không thể dự đoán là những điều khác cũng sẽ xảy ra. Ví dụ, loại cá này nhím biển. Và khi loài này biến mất, tất cả ai đã từng nhìn thấy dưới nước chỉ là nghĩa địa và nghĩa địa của nhím biển. Nhưng khi chúng quay lại và bắt đầu kiểm soát số lượng nhím biển, thấp và có thể trông thấy, rừng tảo bẹ xuất hiện trong vùng nước nông. Và đó là bởi vì nhím ăn tảo bẹ. Vì vậy khi loài cá kiểm soát số lượng nhím, đại dương đã được khôi phục lại trạng thái cân bằng tự nhiên của nó. Bạn biết đấy, đây là những gì đại dương ở đây có một hay 200 năm trước, nhưng không ai quanh đây có thể nói cho chúng ta.
I worked in other parts of New Zealand as well, in beautiful, fragile, protected areas like in Fiordland, where this sea pen colony was found. Little blue cod swimming in for a dash of color. In the northern part of New Zealand, I dove in the blue water, where the water's a little warmer, and photographed animals like this giant sting ray swimming through an underwater canyon. Every part of the ecosystem in this place seems very healthy, from tiny, little animals like a nudibrank crawling over encrusting sponge or a leatherjacket that is a very important animal in this ecosystem because it grazes on the bottom and allows new life to take hold.
Tôi cũng làm việc tại các nơi khác của New Zealand , trong các khu bảo tồn mỏng manh và xinh đẹp giống như ở Fiordland, nơi mà bầy tảo sea pen này được tìm thấy. Cá tuyết xanh nhỏ bơi như nét vẽ của mầu sắc. Ở phía Bắc của New Zealand, Tôi lặn trong làn nước xanh, nơi nước ấm hơn một chút, và chụp những loài vật như con cá đuối khổng lồ này bơi qua một hẻm núi dưới nước. Mỗi một phần của hệ sinh thái ở nơi này dường như rất khỏe mạnh, từ những con vật bé nhỏ như nudibrank đang bò trên lớp bọt biển hay một con leatherjacket đó là một sinh vật rất quan trọng trong hệ sinh thái này bởi vì nó bảo đảm những sinh vật mới nở được bảo vệ.
And I wanted to finish with this photograph, a picture I made on a very stormy day in New Zealand when I just laid on the bottom amidst a school of fish swirling around me. And I was in a place that had only been protected about 20 years ago. And I talked to divers that had been diving there for many years, and they said that the marine life was better here today than it was in the 1960s. And that's because it's been protected, that it has come back.
Và tôi muốn kết thúc với tấm hình này, một bức ảnh tôi chụp vào một ngày đầy mưa bão ở New Zealand khi tôi nằm ở đáy giữa một đàn cá xoáy xung quanh tôi. Và tôi đã ở nơi chỉ được bảo vệ khoảng 20 năm trước Và tôi đã nói chuyện với các thợ lặn đã hành nghề ở đó trong nhiều năm, và họ nói rằng cuộc sống của các sinh vật biển ở đây ngày nay đã tốt hơn so với những năm 1960. Và đó là bởi vì nó đã được bảo vệ, nó đã trở lại.
So I think the message is clear. The ocean is, indeed, resilient and tolerant to a point, but we must be good custodians. I became an underwater photographer because I fell in love with the sea, and I make pictures of it today because I want to protect it, and I don't think it's too late.
Vì vậy tôi nghĩ thông điệp là rất rõ ràng. Đại dương là, thực sự, kiên cường và độ lượng đến một mức độ nào đó, nhưng chúng ta phải là người bảo quản tốt. Tôi trở thành một người chụp ảnh cuộc sống dưới nước bởi tôi yêu biển, và tôi chụp những bức ảnh về biển ngày nay bởi vì tôi muốn bảo vệ nó, và tôi không nghĩ là quá muộn.
Thank you very much.
Cảm ơn.