So, I'll start with this: a couple years ago, an event planner called me because I was going to do a speaking event. And she called, and she said, "I'm really struggling with how to write about you on the little flyer." And I thought, "Well, what's the struggle?" And she said, "Well, I saw you speak, and I'm going to call you a researcher, I think, but I'm afraid if I call you a researcher, no one will come, because they'll think you're boring and irrelevant."
Tôi sẽ bắt đầu với điều này: vài năm trước, một nhà tổ chức sự kiện gọi cho tôi bởi lúc đó tôi đang tính tổ chức một buổi nói chuyện. Và cô ấy đã gọi, cô ấy nói, "Tôi thực sự thấy khó để có thể viết về cô trên một tờ rơi nhỏ." Và tôi nói, "Vậy thì điều khó khăn đó là gì vậy?" Và cô ấy trả lời, "À, tôi đã thấy cô nói chuyện, và tôi tính là sẽ gọi cô là một nhà nghiên cứu, tôi nghĩ, nhưng tôi lo là nếu tôi gọi cô như là một nhà nghiên cứu thì không ai sẽ đến dự, bởi vì họ sẽ nghĩ cô thật là tẻ nhạt và không thực tế." (Cười lớn)
(Laughter)
OK.
And I was like, "Okay." And she said, "But the thing I liked about your talk is you're a storyteller. So I think what I'll do is just call you a storyteller." And of course, the academic, insecure part of me was like, "You're going to call me a what?" And she said, "I'm going to call you a storyteller." And I was like, "Why not 'magic pixie'?"
Và cô ấy nói, "Nhưng điều làm tôi thích ở những buổi nói chuyện của cô đó là cô là một người kể chuyện." Vì thế tôi nghĩ tôi chỉ cần gọi cô là người kể chuyện." Và dĩ nhiên con người học thuật trong tôi phản ứng như là, "Cô tính gọi tôi là cái gi?" Và cô ấy nói, "Tôi tính sẽ gọi cô là người kể chuyện." Và tôi nói, "Sao không gọi là phù thủy đi?" (Cười lớn)
(Laughter)
I was like, "Let me think about this for a second." I tried to call deep on my courage. And I thought, you know, I am a storyteller. I'm a qualitative researcher. I collect stories; that's what I do. And maybe stories are just data with a soul. And maybe I'm just a storyteller. And so I said, "You know what? Why don't you just say I'm a researcher-storyteller." And she went, "Ha ha. There's no such thing."
Tôi tự nhủ "Hãy nghĩ về điều này trong giây lát." tôi cố lấy hết dũng khí. Và tôi nghĩ, tôi là người kể chuyện. Tôi là một nhà nghiên cứu về bản chất của sự việc. Tôi nhặt nhạnh những câu chuyên; đó là những gì tôi làm. Và có lẽ những câu chuyện chỉ là những dữ liệu có tâm hồn. Và có lẽ tôi chỉ là một người kể chuyện. Và thế là tôi nói, "Cô biết không? Tại sao cô không gọi tôi là nhà nghiên cứu-người kể chuyện." Và cô cười, "Haha. Không có cách gọi đó."
(Laughter)
(Cười lớn)
So I'm a researcher-storyteller, and I'm going to talk to you today -- we're talking about expanding perception -- and so I want to talk to you and tell some stories about a piece of my research that fundamentally expanded my perception and really actually changed the way that I live and love and work and parent.
Vì thế tôi là nhà nghiên cứu-người kể chuyện, và điều tôi tính nói với các bạn ngày hôm nay -- chúng ta sẽ nói về việc mở rộng sự cảm nhận -- và vì thế tôi muốn chia sẻ với các bạn và kể một số câu chuyện về một mảng trong nghiên cứu của tôi về cơ bản, đã mở rộng cảm nhận của chính tôi và quả thực đã thay đổi cách tôi sống và yêu thương và làm việc cũng như làm mẹ.
And this is where my story starts. When I was a young researcher, doctoral student, my first year, I had a research professor who said to us, "Here's the thing, if you cannot measure it, it does not exist." And I thought he was just sweet-talking me. I was like, "Really?" and he was like, "Absolutely." And so you have to understand that I have a bachelor's and a master's in social work, and I was getting my Ph.D. in social work, so my entire academic career was surrounded by people who kind of believed in the "life's messy, love it." And I'm more of the, "life's messy, clean it up, organize it and put it into a bento box."
Và sau đây là nơi mà câu chuyện của tôi bắt đầu. Khi tôi là một nhà nghiên cứu trẻ, một nghiên cứu sinh vào năm đầu tiên, tôi có một giáo sư hướng dẫn nghiên cứu người đã nói vói chúng tôi rằng, Và đây là điều quan trọng, nếu bạn không thể đo lường một thứ gì đó, nghĩa là thứ đó không tồn tại." Và tôi đã nghĩ ông ấy chỉ nói bông đùa với tôi. Tôi hỏi lại, "Thật hả?" và ông ấy trả lời "Hoàn toàn đúng." Bạn cũng nên biết là tôi đã tốt nghiệp đại học với chuyên ngành xã hội học, có bằng thạc sỹ xã hội học và tôi đang chuẩn bị để lấy bằng tiến sỹ về xã hội học, vì thế toàn bộ con đường học vấn của tôi được bao quanh bởi những người khá tin tưởng rằng cuộc sống thật lộn xộn, hãy chấp nhận nó. Và tôi thì cho là cuộc sống thì lộn xộn thật gột rửa nó, sắp xếp nó lại và đặt nó vào trong một cái hộp đựng cơm
(Laughter)
(Cười lớn)
And so to think that I had found my way, to found a career that takes me -- really, one of the big sayings in social work is, "Lean into the discomfort of the work." And I'm like, knock discomfort upside the head and move it over and get all A's. That was my mantra. So I was very excited about this. And so I thought, you know what, this is the career for me, because I am interested in some messy topics. But I want to be able to make them not messy. I want to understand them. I want to hack into these things that I know are important and lay the code out for everyone to see.
để thấy là tôi đã tìm ra con đường của mình, để tìm được ngành nghề dành cho tôi -- một trong những quan điểm lớn trong xã hội học là len lỏi vào trong những vấn đề nan giải của công việc đó. Và tôi giống như là, giữ chặt những thứ khó khăn đó trong đầu và xem xét nó và được toàn điểm A Đó chính là công thức của tôi. Và thế là tôi đã rất thích thú về điều đó. Và tôi nghĩ, bạn biết không, đây là nghề nghiệp của tôi, bởi vì tôi thích những vấn đề hóc búa. Nhưng tôi muốn khiến chúng không còn là vấn đề nan giải nữa. Tôi muốn hiểu chúng. Tôi muốn đi sâu vào những điều này Tôi biết điều này là quan trọng và cố phơi bày nó ra cho mọi người được thấy.
So where I started was with connection. Because, by the time you're a social worker for 10 years, what you realize is that connection is why we're here. It's what gives purpose and meaning to our lives. This is what it's all about. It doesn't matter whether you talk to people who work in social justice, mental health and abuse and neglect, what we know is that connection, the ability to feel connected, is -- neurobiologically that's how we're wired -- it's why we're here.
Và chỗ mà tôi bắt đầu đó là với sự kết nối. Bởi vì, khi mà bạn là nhà xã hội học trong 10 năm trời, điều mà bạn nhận ra đó là sự kết nối là lý do tại sao chúng ta ở đây. Nó là điều mang lại mục tiêu và ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta. Đó là tất cả những gì về nó. Không phân biệt bạn khi nói chuyện với những người làm việc về công bằng xã hội, sức khỏe tâm thần, hay lạm dụng, bỏ rơi, chúng ta luôn nhận thấy rằng sự kết nối, cái khả năng cảm nhận được kết nối -- về mặt thần kinh thì đúng là chúng ta được nối với nhau -- đó chính là lý do tại sao chúng ta ở đây.
So I thought, you know what, I'm going to start with connection. Well, you know that situation where you get an evaluation from your boss, and she tells you 37 things that you do really awesome, and one "opportunity for growth?"
Vì thế tôi nghĩ, tôi sẽ bắt đầu với sự kết nối. Chắc hẳn bạn biết rõ tính huống khi mà bạn nhận được đánh giá từ bà chủ của mình, và bà ấy chỉ cho bạn 37 thứ bạn làm thực sự tốt, và một thứ -- một cơ hội để làm tốt hơn?
(Laughter)
(Cười lớn)
And all you can think about is that opportunity for growth, right? Well, apparently this is the way my work went as well, because, when you ask people about love, they tell you about heartbreak. When you ask people about belonging, they'll tell you their most excruciating experiences of being excluded. And when you ask people about connection, the stories they told me were about disconnection.
Và tất cả mọi thứ bạn có thể nghĩ tới là cơ hội để cải thiện, phải không? Rõ ràng đó cũng là cách mà công việc của tôi đã vận hành, bởi vì, khi bạn hỏi mọi người về tình yêu, họ nói cho bạn về sự đổ vỡ. Khi bạn hỏi mọi người về sự gắn kết, họ nói cho bạn những kinh nghiệm khủng khiếp nhất của việc bị loại bỏ ra ngoài. Và khi bạn hỏi mọi người về sự kết nối, những câu chuyện mà họ kể cho tôi là về sự chia ly.
So very quickly -- really about six weeks into this research -- I ran into this unnamed thing that absolutely unraveled connection in a way that I didn't understand or had never seen. And so I pulled back out of the research and thought, I need to figure out what this is. And it turned out to be shame. And shame is really easily understood as the fear of disconnection: Is there something about me that, if other people know it or see it, that I won't be worthy of connection?
Và rất nhanh -- chỉ khoảng 6 tuần nghiên cứu -- tôi đã tìm một thứ không tên mà hoàn toàn làm sáng tỏ sự kết nối theo cái cách mà tôi không hiểu được và chưa từng thấy. Tôi đã rút khỏi nghiên cứu và suy nghĩ, tôi cần phải hiểu được nó là gì. Và nó hóa ra là sự xấu hổ. Và xấu hổ thì thật dễ hiểu như là nỗi sợ bị chia cắt. Có những điều gì về tôi nếu những người khác biết hoặc thấy nó, thì tôi sẽ không còn đáng để kết bạn.
The things I can tell you about it: It's universal; we all have it. The only people who don't experience shame have no capacity for human empathy or connection. No one wants to talk about it, and the less you talk about it, the more you have it. What underpinned this shame, this "I'm not good enough," -- which, we all know that feeling: "I'm not blank enough. I'm not thin enough, rich enough, beautiful enough, smart enough, promoted enough." The thing that underpinned this was excruciating vulnerability. This idea of, in order for connection to happen, we have to allow ourselves to be seen, really seen.
Những điều tôi có thể nói với bạn về nó: nó mang tính đại chúng; ai cũng gặp phải cả. Chỉ những người không trải qua sự xấu hổ không có khả năng chia sẻ và gắn kết. Không ai muốn nói về điều đó, và bạn càng ít nói về nó, bạn càng có nó nhiều hơn. Điều đằng sau sự xấu hổ này, đó là "Tôi không đủ tốt," -- chúng ta đều biết cảm giác này: "Tôi không đủ trắng. Tôi không đủ mảnh mai, đủ giàu có, đủ đẹp, đủ thông minh, đủ thăng tiến." Điều ẩn sâu dưới chún là cảm giác khủng khiếp vì có thể bị tổn thương, ý tưởng mà, để sự kết nối hình thành, chúng ta phải cho phép chính mình được nhìn rõ, thực sự được nhìn rõ.
And you know how I feel about vulnerability. I hate vulnerability. And so I thought, this is my chance to beat it back with my measuring stick. I'm going in, I'm going to figure this stuff out, I'm going to spend a year, I'm going to totally deconstruct shame, I'm going to understand how vulnerability works, and I'm going to outsmart it. So I was ready, and I was really excited. As you know, it's not going to turn out well.
Và bạn biết tôi cảm thấy thế nào về sự tổn thương không. Tôi ghét sự tổn thương. Và rồi tôi nghĩ, đây là cơ hội của mình để đánh bại nó với cây thước đo của mình. Tôi đi vào, tôi cố hình dung những thứ đó, Tôi tính dùng một năm để giải mã sự xấu hổ, Tôi muốn hiểu cảm giác có thể bị tổn thương hoạt động như thế nào, và tôi muốn khôn hơn nó. Vì tôi đã sẵn sàng, và tôi đã rất hứng khởi. Chắc các bạn đoán ra rồi, việc đó sẽ không thành công.
(Laughter)
(Cười lớn)
You know this. So, I could tell you a lot about shame, but I'd have to borrow everyone else's time. But here's what I can tell you that it boils down to -- and this may be one of the most important things that I've ever learned in the decade of doing this research.
Bạn biết không. Vì thế tôi có thể kể cho bạn thật nhiều về sự xấu hổ, nhưng tôi đã phải mượn lấy thời gian của người khác. Nhưng tôi có thể nói với bạn thực chất của nó -- và điều này có thể là một trong những điều quan trọng nhất mà tôi đã học được trong một thập kỷ nghiên cứu.
My one year turned into six years: Thousands of stories, hundreds of long interviews, focus groups. At one point, people were sending me journal pages and sending me their stories -- thousands of pieces of data in six years. And I kind of got a handle on it. I kind of understood, this is what shame is, this is how it works. I wrote a book, I published a theory, but something was not okay -- and what it was is that, if I roughly took the people I interviewed and divided them into people who really have a sense of worthiness -- that's what this comes down to, a sense of worthiness -- they have a strong sense of love and belonging -- and folks who struggle for it, and folks who are always wondering if they're good enough.
Một năm trời hóa ra lại tới 6 năm, hàng ngàn câu chuyện, hàng trăm những buổi phỏng vấn dài, những nhóm chuyên đề. Có thời điểm người ta gửi cho tôi những trang nhật ký và gửi tôi những câu chuyện của họ -- hàng ngàn mẩu thông tin trong 6 năm trời. Và tôi gần như nắm giữ được nó. Tôi gần như hiểu được, sự xấu hổ là gì, nó vận hành như thế nào. Tôi đã viết một quyển sách, Tôi đã công bố một lý thuyết, nhưng một thứ gì đó vẫn không ổn -- và đó là điều này, nếu tôi đơn thuần mang những người tôi đã phỏng vấn và chia họ ra thành nhóm những người có ý thức rằng họ đáng được trân trọng -- và điều đó dẫn tới, ý thức về sự trân trọng -- họ có một ý thức mạnh mẽ về tình yêu và sự gắn kết -- và nhóm kia là những người đang khổ sở để có được nó, những người luôn tự hỏi liệu họ có đủ tốt.
There was only one variable that separated the people who have a strong sense of love and belonging and the people who really struggle for it. And that was, the people who have a strong sense of love and belonging believe they're worthy of love and belonging. That's it. They believe they're worthy. And to me, the hard part of the one thing that keeps us out of connection is our fear that we're not worthy of connection, was something that, personally and professionally, I felt like I needed to understand better. So what I did is I took all of the interviews where I saw worthiness, where I saw people living that way, and just looked at those.
Chỉ có một thứ tách biệt những người có một ý thức mạnh mẽ về tình yêu và sự gắn kết với những người vẫn đang cố gắng đạt được nó, Đó là, những người có một ý thức mạnh mẽ về tình yêu và sự gắn kết tin rằng họ xứng đáng để yêu thương và gắn kết. Chính nó đó. Họ tin rằng họ xứng đáng. Với tôi, phần khó nhất của điều khiến chúng ta rời xa sự kết nối là chúng ta sợ rằng chúng ta không xứng đáng để gắn kết, đó là điều, về mặt cá nhân và nghề nghiệp, Tôi đã muốn hiểu nhiều hơn nữa. Và những gì tôi làm đó là tôi lấy hết các cuộc phỏng vấn mà ở đó tôi thấy sự xứng đáng, ở đó tôi thấy người ta sông theo cách như thế và chỉ nhìn vào những trường hợp này.
What do these people have in common? I have a slight office supply addiction, but that's another talk. So I had a manila folder, and I had a Sharpie, and I was like, what am I going to call this research? And the first words that came to my mind were "whole-hearted." These are whole-hearted people, living from this deep sense of worthiness. So I wrote at the top of the manila folder, and I started looking at the data. In fact, I did it first in a four-day, very intensive data analysis, where I went back, pulled the interviews, the stories, pulled the incidents. What's the theme? What's the pattern? My husband left town with the kids because I always go into this Jackson Pollock crazy thing, where I'm just writing and in my researcher mode.
Những gì mà những người này có chung? Tôi có hơi nghiện những đồ dùng văn phòng, nhưng đó là một chủ đề khác. tôi có một tập đựng hồ sơ, và tôi có một Sharpie, và tôi nghĩ, tôi nên gọi nghiên cứu này là gì? Và những từ đầu tiên nảy ra trong suy nghĩ của tôi là bằng cả trái tim. Đây là những người sống bằng cả trái tim từ chính cảm nhận sâu thẳm của cảm giác đáng được trân trọng. Vì thế tôi viết lên trên tập đựng hồ sơ, và tôi bắt đầu xem xét dữ liệu. Thật ra, tôi đã thực hiện nó trước trong bốn ngày liền phân tích dữ liệu thật kỹ lưỡng, khi tôi xem lại, lấy ra những bài phỏng vấn, những câu chuyện, những sự cố. Bức họa chính là gì? Những khuôn mẫu nằm ở đâu? Chồng tôi đã đi khỏi thành phố với lũ trẻ bởi vì tôi luôn luôn chú tâm vào cái thứ khùng điên Jackson Pollock này, nơi mà tôi chỉ luôn viết và trong trạng thái nghiên cứu của tôi.
And so here's what I found. What they had in common was a sense of courage. And I want to separate courage and bravery for you for a minute. Courage, the original definition of courage, when it first came into the English language -- it's from the Latin word "cor," meaning "heart" -- and the original definition was to tell the story of who you are with your whole heart. And so these folks had, very simply, the courage to be imperfect. They had the compassion to be kind to themselves first and then to others, because, as it turns out, we can't practice compassion with other people if we can't treat ourselves kindly. And the last was they had connection, and -- this was the hard part -- as a result of authenticity, they were willing to let go of who they thought they should be in order to be who they were, which you have to absolutely do that for connection.
Và đây là cái mà tôi tìm được. Cái mà họ có chung đó là lòng can đảm. Và tôi muốn phân biệt dũng khí và sự can đảm cho bạn trong giây lát. Can đảm, định nghĩa ban đầu của can đảm khi nó xuất hiện lần đầu trong tiếng Anh -- nó xuất phát từ tiếng Latin cor, có nghĩa là trái tim -- và định nghĩa ban đầu là kể câu chuyện về bạn là ai với cả trái tim của mình. Vậy những người này rất đơn giản, có dũng khí để là người không hoàn hảo. Họ có lòng thương cảm để trở nên tử tế với chính họ trước và sau đó là với người khác, bởi vì, hóa ra là, chúng ta không thể thương cảm người khác nếu chúng ta không đối xử với chính mình một cách tử tế. Và điều cuối cùng đó là họ có sự liên kết, và -- đây là phần khó -- kết quả của sự chân thành là, họ có thể từ bỏ khuôn mẫu mà họ nghĩ mình phải đạt tới, để trở thành chính bản thân mình, bạn phải hoàn toàn làm điều này để kết nối.
The other thing that they had in common was this: They fully embraced vulnerability. They believed that what made them vulnerable made them beautiful. They didn't talk about vulnerability being comfortable, nor did they really talk about it being excruciating -- as I had heard it earlier in the shame interviewing. They just talked about it being necessary. They talked about the willingness to say, "I love you" first ... the willingness to do something where there are no guarantees ... the willingness to breathe through waiting for the doctor to call after your mammogram. They're willing to invest in a relationship that may or may not work out. They thought this was fundamental.
Những điều khác họ có chung là điều này. Họ hoàn toàn chấp nhận sự tổn thương. Họ tin là những điều khiến họ có thể bị tổn thương khiến họ trở nên đẹp hơn. Họ không nói về sự tổn thương là cảm giác thoải mái, hoặc là họ cũng không nói về việc bị chà đạp -- như là tôi đã nghe được trước đây trong cuộc phỏng vấn về sự xấu hổ. Họ chỉ nói về nó như là điều cần thiết. Họ nói về sự sẵn lòng để nói "Tôi yêu bạn" trước, sự sẵn lòng để làm điều gì đó mà không hề có gì đảm bảo, sự sẵn lòng để chờ đợi bác sỹ gọi sau khi xét nghiệm tuyến vú. Họ sẵn lòng để đầu tư vào một mối quan hệ có thể hoặc không thể đi đến đâu. Họ nghĩ đó là điều cơ bản.
I personally thought it was betrayal. I could not believe I had pledged allegiance to research, where our job -- you know, the definition of research is to control and predict, to study phenomena for the explicit reason to control and predict. And now my mission to control and predict had turned up the answer that the way to live is with vulnerability and to stop controlling and predicting. This led to a little breakdown --
Cá nhân tôi nghĩ đó là sự biểu lộ. Tôi không thể tin là tôi đã cam kết trung thành để nghiên cứu -- định nghĩa của việc nghiên cứu là để điều khiển và dự đoán, để tìm hiểu những hiện tượng, cho một lý do cụ thể để điều khiển và dự đoán. Và giờ nhiêm vụ của tôi là điều khiển và dự đoán đã mở ra câu trả lời là cách để sống đó là với sự tổn thương và ngừng việc điều chỉnh và dự đoán. Điều này dẫn đến một chút suy sụp --
(Laughter)
(Cười lớn)
-- which actually looked more like this.
-- mà thực sự có thể xem như thế này.
(Laughter)
(Cười lớn)
And it did.
Và quả thật thế.
I call it a breakdown; my therapist calls it a spiritual awakening.
Tôi gọi nó là suy sụp, nhà vật lý trị liệu của tôi gọi đó là sự thức tỉnh về mặt nhận thức.
(Laughter)
Thức tỉnh về mặt nhận thức nghe hay hơn là suy sụp,
A spiritual awakening sounds better than breakdown, but I assure you, it was a breakdown. And I had to put my data away and go find a therapist. Let me tell you something: you know who you are when you call your friends and say, "I think I need to see somebody. Do you have any recommendations?" Because about five of my friends were like, "Wooo, I wouldn't want to be your therapist."
nhưng tôi đảm bảo với bạn đó là suy sụp. Và tôi đã phải đặt dữ liệu của tôi qua một bên và đi tìm một nhà vật lý trị liệu. Để tôi nói với bạn điều này: bạn biết mình là ai khi bạn gọi cho bạn của mình và nói. "Tôi nghĩ là tôi cần gặp ai đó. Bạn có giới thiệu ai đấy được không?" Bởi vì năm người bạn của tôi đã phản ứng thế này, "Oh. Tôi không muốn là nhà trị liệu cho bạn." (Cười lớn)
(Laughter)
Tôi đã như, "Như thế nghĩa là sao chứ?"
I was like, "What does that mean?" And they're like, "I'm just saying, you know. Don't bring your measuring stick."
Và họ nói như, "Tôi chỉ nói, bạn biết đấy. Đừng mang thước đo của bạn thôi." Tôi trả lời, "OK."
(Laughter)
I was like, "Okay." So I found a therapist. My first meeting with her, Diana -- I brought in my list of the way the whole-hearted live, and I sat down. And she said, "How are you?" And I said, "I'm great. I'm okay." She said, "What's going on?" And this is a therapist who sees therapists, because we have to go to those, because their B.S. meters are good.
Và thế là tôi tìm thấy một nhà trị liệu. Buổi gặp đầu tiên của tôi với cô ấy, Diana -- Tôi đã mang tới danh sách của mình về cách mà những người sống bằng cả trái tim sống, và tôi ngồi xuống. Và cô ấy hỏi, "Bạn thế nào?" Và tôi nói, "Tôi tốt lắm. Tôi ổn cả." Cô ấy hỏi, "Điều gì xảy ra thế?" Và đây là một nhà trị liệu đến gặp những nhà trị liệu khác, bởi vì chúng tôi phải đi qua những thứ này, bởi vì các thang đo B.S. đều tốt cả.
(Laughter)
(Cười lớn)
And so I said, "Here's the thing, I'm struggling." And she said, "What's the struggle?" And I said, "Well, I have a vulnerability issue. And I know that vulnerability is the core of shame and fear and our struggle for worthiness, but it appears that it's also the birthplace of joy, of creativity, of belonging, of love. And I think I have a problem, and I need some help." And I said, "But here's the thing: no family stuff, no childhood shit."
Và thế là tôi nói, "Đây là vấn đề, Tôi đang gặp rắc rối." Và cô ấy hỏi, "Rắc rối gì vậy?" Và tôi nói, "Ờ, tôi có vấn đề về cảm giác có thể bị tổn thương. Và tôi biết rằng sự tổn thương là nguồn gốc chính của sự xấu hổ và nỗi sợ hãi và chúng ta đều phải đánh vật cho giá trị của mình, nhưng nó cho thấy nó cũng chính là nơi sản sinh của niềm vui, của sự sáng tạo, của sự gắn kết, của tình yêu Và tôi nghĩ tôi có vấn đề, và tôi cần sự giúp đỡ." Và tôi nói, "Nhưng ở đây nói rõ điều này, không hề có vấn đề về gia đình, không rắc rối về tuổi thơ."
(Laughter)
(Cười lớn)
"I just need some strategies."
"Tôi cần một số giải pháp."
(Laughter)
(Cười lớn)
(Applause)
(Vỗ tay)
Thank you. So she goes like this.
Cảm ơn. Và cô ấy tỏ ra thế này.
(Laughter)
(Cười lớn)
And then I said, "It's bad, right?" And she said, "It's neither good nor bad."
Và tôi nói, "Tệ quá, phải không?" Và cô ấy nói, "Nó không tốt cũng chẳng xấu."
(Laughter)
(Cười lớn)
"It just is what it is." And I said, "Oh my God, this is going to suck."
"Nó chỉ là chính nó." Và tôi nói, "Ồ Chúa ơi, chắc là nó sẽ tệ lắm đây."
(Laughter)
(Cười lớn)
And it did, and it didn't. And it took about a year. And you know how there are people that, when they realize that vulnerability and tenderness are important, that they surrender and walk into it. A: that's not me, and B: I don't even hang out with people like that.
Và nó đúng thế thật, và cũng không phải thế thật. Và mất khoảng một năm. Và bạn biết có những người khi mà họ nhận ra là sự tổn thương và sự dịu dàng là quan trọng, và thế là họ chấp nhận và bước đi cùng nó. A: đó không phải tôi, và B: tôi thậm chí không giao du với những người như thế.
(Laughter)
(Cười lớn)
For me, it was a yearlong street fight. It was a slugfest. Vulnerability pushed, I pushed back. I lost the fight, but probably won my life back.
Đối với tôi, đó là một năm dài tranh đấu. Đó là một cuộc đấu đầy gian khó. Sự tổn thương đẩy một cái, tôi đẩy lại Tôi đã thua trong cuộc đấu, nhưng có lẽ đã lấy lại được cuộc sống của mình.
And so then I went back into the research and spent the next couple of years really trying to understand what they, the whole-hearted, what choices they were making, and what we are doing with vulnerability. Why do we struggle with it so much? Am I alone in struggling with vulnerability? No.
Và sau đó tôi trở lại nghiên cứu và dành vài năm trời thực sự cố gắng để hiểu những người sống bằng cả trái tim là ai những lựa chọn họ đã làm và ta làm gì với sự tổn thương. Tại sao chúng ta lại phải vật lộn với nó nhiều như thế? Có phải tôi đơn độc trong đối đầu với sự tổn thương? Không.
So this is what I learned. We numb vulnerability -- when we're waiting for the call. It was funny, I sent something out on Twitter and on Facebook that says, "How would you define vulnerability? What makes you feel vulnerable?" And within an hour and a half, I had 150 responses. Because I wanted to know what's out there. Having to ask my husband for help because I'm sick, and we're newly married; initiating sex with my husband; initiating sex with my wife; being turned down; asking someone out; waiting for the doctor to call back; getting laid off; laying off people. This is the world we live in. We live in a vulnerable world. And one of the ways we deal with it is we numb vulnerability.
Và điều mà tôi đã học được. Chúng ta làm tê cứng sự tổn thương khi chúng ta chờ đợi một cuộc gọi. Điều đó thật buồn cười, tôi đã viết ra vài thứ tren Twitter và Facebook nói là, "Bạn định nghĩa sự tổn thương như thế nào? Điều gì khiến bạn cảm thấy bị thương tổn?" Và trong vòng 1 tiếng rưỡi, tôi đã có 150 câu trả lời. Bởi vì tôi muốn biết điều gì ngoài kia. Đã yêu cầu chồng của tôi giúp, bởi vì tôi bị ốm, và chúng tôi chỉ mới cưới; khơi mào chuyện quan hệ với chồng tôi; khơi mào chuyện quan hệ với vợ tôi; bị từ chối; mời ai đó đi chơi; chờ bác sỹ gọi lại; bị sa thải; sa thải người khác -- đó là thế giới mà chúng ta đang sống. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy tổn thương. Và một trong những cách chúng ta giải quyết nó là chúng ta ghìm nén sự tổn thương.
And I think there's evidence -- and it's not the only reason this evidence exists, but I think it's a huge cause -- We are the most in-debt ... obese ... addicted and medicated adult cohort in U.S. history. The problem is -- and I learned this from the research -- that you cannot selectively numb emotion. You can't say, here's the bad stuff. Here's vulnerability, here's grief, here's shame, here's fear, here's disappointment. I don't want to feel these. I'm going to have a couple of beers and a banana nut muffin.
Và tôi nghĩ có những dấu hiệu -- và nó không phải là nguyên nhân suy nhất dấu hiệu này tồn tại, nhưng tôi nghĩ đó là lý do chính -- chúng ta nợ nần cực độ, béo phì, nghiện ngập và dùng thuốc băng đảng trong lịch sử Mỹ. Vấn đề là -- và tôi học được điều này từ nghiên cứu -- bạn không thể đóng băng cảm xúc một cách chọn lọc. Bạn không thể nói, đây là vấn đề xấu. Đây là sự tổn thương, đây là sự đau buồn, đây là sự xấu hổ, đây là nỗi sợ, đây là sự thất vọng, Tôi không muốn cảm thấy những điều này. Tôi muốn một vài ly bia và bánh ngọt nhân chuối.
(Laughter)
(Cười lớn)
I don't want to feel these. And I know that's knowing laughter. I hack into your lives for a living. God.
Tôi không muốn cảm thấy những điều này. Và tôi biết là sự nhận biết đó thật buồn cười Tôi đi vào trong cuộc sống của bạn để kiếm sống. Chúa ơi.
(Laughter)
(Cười lớn)
You can't numb those hard feelings without numbing the other affects, our emotions. You cannot selectively numb. So when we numb those, we numb joy, we numb gratitude, we numb happiness. And then, we are miserable, and we are looking for purpose and meaning, and then we feel vulnerable, so then we have a couple of beers and a banana nut muffin. And it becomes this dangerous cycle.
Bạn không thể đóng băng những cảm giác khó chịu này mà không đóng băng những tác động, những cảm xúc của mình. bạn không thể đóng băng một cách chọn lọc. Vì thế khi chúng ta đóng băng những thứ này, chúng ta đóng băng niềm vui, chúng ta đóng băng sự biết ơn, chúng ta đóng băng niềm hạnh phúc. Và sau đó chúng ta thật đáng thương, và chúng ta tìm kiếm mục tiêu và ý nghĩa, và sau đó chúng ta cảm thấy bị tổn thương, và sau đó chúng ta muốn có một vài ly bia và bánh ngọt nhân chuối. Và nó trở thành một vòng xoay nguy hiểm.
One of the things that I think we need to think about is why and how we numb. And it doesn't just have to be addiction. The other thing we do is we make everything that's uncertain certain. Religion has gone from a belief in faith and mystery to certainty. "I'm right, you're wrong. Shut up." That's it. Just certain. The more afraid we are, the more vulnerable we are, the more afraid we are. This is what politics looks like today. There's no discourse anymore. There's no conversation. There's just blame. You know how blame is described in the research? A way to discharge pain and discomfort. We perfect. If there's anyone who wants their life to look like this, it would be me, but it doesn't work. Because what we do is we take fat from our butts and put it in our cheeks.
Một trong những thứ mà tôi nghĩ chúng ta cần phải suy nghĩ đó là tại sao và làm thế nào chúng ta đóng băng cảm giác. Và nó không phải chỉ là sự nghiện ngập. Một điều khác chúng ta làm là chúng ta tạo ra những thứ không chắc chắn thành chắc chắn. Tôn giáo đã đi từ niềm tin vào tín ngưỡng và sự huyền bí đến tính xác thực. Tôi đúng, anh sai. Câm miệng lại. Thế đó. Đơn giản, rất chắc chắn. Chúng ta càng sợ, chúng ta càng dễ bị tổn thương, và chúng ta càng lo sợ. Đó là thứ giống như chính trị ngày hôm nay. Không có bất kỳ thảo luận nào thêm nữa. Không hề có đối thoại. Chỉ có đỗ lỗi. Bạn có biết đổ lỗi cho điều gì đó được diễn tả thế nào trong nghiên cứu không? Là cách để giảm bớt đau đớn và phiền muộn. Chúng ta hoàn hảo. Nếu có bất cứ ai muốn cuộc sống của họ trong như thế này thì đó chính là tôi, nhưng nó không giúp ích gì. Bởi điều chúng ta làm là lấy mỡ từ mông chúng ta và đặt nó vào gò má.
(Laughter)
(Cười lớn)
Which just, I hope in 100 years, people will look back and go, "Wow."
Mà xem như, tôi hi vọng trong 100 năm nữa, người ta sẽ nhìn lại và thốt lên, "Ồ"
(Laughter)
(Cười lớn)
And we perfect, most dangerously, our children. Let me tell you what we think about children. They're hardwired for struggle when they get here. And when you hold those perfect little babies in your hand, our job is not to say, "Look at her, she's perfect. My job is just to keep her perfect -- make sure she makes the tennis team by fifth grade and Yale by seventh." That's not our job. Our job is to look and say, "You know what? You're imperfect, and you're wired for struggle, but you are worthy of love and belonging." That's our job. Show me a generation of kids raised like that, and we'll end the problems, I think, that we see today. We pretend that what we do doesn't have an effect on people. We do that in our personal lives. We do that corporate -- whether it's a bailout, an oil spill ... a recall. We pretend like what we're doing doesn't have a huge impact on other people. I would say to companies, this is not our first rodeo, people. We just need you to be authentic and real and say ... "We're sorry. We'll fix it."
Và chúng ta hoàn thiện, một cách nguy hiểm nhất, con cái của chúng ta. Để tôi nói cho bạn điều mà tôi nghĩ về đám trẻ. Chúng bị buộc chặt để sống còn khi chúng sinh ra. Và khi bạn ôm những đứa bé mới sinh hoàn hảo trong tay bạn, công việc của chúng ta không phải là nói, "Nhìn nó kìa, nó thật hoàn hảo. Công việc của tôi là giữ cho nó hoàn hảo -- đảm bảo rằng nó có thể vào đội quần vợt vào lớp năm và Yale vào lớp bảy." Đó không phải công việc của chúng ta. Công việc của chúng ta là nhìn ra và nói, "Con biết không? Con không hoàn hảo, và con phải tranh đấu, nhưng con đáng được trân trọng với tình yêu và sự gắn kết." Đó là công việc của chúng tôi. Cho tôi thấy một thế hệ những đứa trẻ được nuôi lớn như thế, và chúng ta sẽ kết thúc được những vấn đề mà tôi nghĩ chúng ta đang đối diện ngày hôm nay. Chúng ta giả bộ rằng những thứ mà chúng ta làm không hề có một ảnh hưởng lên người khác. Chúng ta làm những điều đó trong cuộc sống cá nhân Chúng ta cho rằng sự liên kết -- cho dù nó là sự cứu trợ, một bãi dầu loang, thu hồi sản phẩm -- chúng ta giả bộ như điều mà chúng ta đang làm không hề có một tác động lớn lên người khác. Tôi sẽ nói với các công ty đó, Chúng tôi chỉ cần bạn tin cậy và xác thực và nói, "Chúng tôi xin lỗi. Chúng tôi sẽ sửa nó."
But there's another way, and I'll leave you with this. This is what I have found: To let ourselves be seen, deeply seen, vulnerably seen ... to love with our whole hearts, even though there's no guarantee -- and that's really hard, and I can tell you as a parent, that's excruciatingly difficult -- to practice gratitude and joy in those moments of terror, when we're wondering, "Can I love you this much? Can I believe in this this passionately? Can I be this fierce about this?" just to be able to stop and, instead of catastrophizing what might happen, to say, "I'm just so grateful, because to feel this vulnerable means I'm alive." And the last, which I think is probably the most important, is to believe that we're enough. Because when we work from a place, I believe, that says, "I'm enough" ... then we stop screaming and start listening, we're kinder and gentler to the people around us, and we're kinder and gentler to ourselves.
Nhưng có một cách khác, và tôi sẽ để nó cho bạn suy nghĩ. Đây là điều mà tôi đã tìm được: đó là để cho chính chúng ta được nhìn thấy, nhìn thấy trong sâu thẳm, nhìn thấy một cách đầy tổn thương; để yêu thương với cả trái tim của mình, mặc dù không hề có sự đảm bảo -- và thực sự là rất khó, và tôi có thể nói với bạn rằng, là một người mẹ, điều này thực khó vô cùng -- khi phải tập luyện sự biết ơn và niềm vui sướng trong những thời khắc của sự kinh hãi, khi mà chúng ta đang tự hỏi, "Tôi có thể yêu bạn nhiều đến thế không? Tôi có thể tin vào điều đó một cách đầy nhiệt thành? Tôi có thể mãnh liệt như thế về điều đó không? chỉ để có thể ngừng lại và, thay vì nghĩ về những thảm họa có thể xảy ra, chỉ nói là "Tôi thật biết ơn, bởi vì khi cảm nhận được sự tổn thương này nghĩa là tôi vẫn đang sống." Và điều cuối cùng, điều mà tôi cho là quan trọng bậc nhất, đó là tin rằng chúng ta đủ rồi. Bởi vì khi chúng ta làm việc từ một nơi Tôi tin là khi nói, "Tôi cảm thấy đầy đủ" thì chúng ta sẽ ngừng la hét và bắt đầu lắng nghe, chúng ta sẽ tử tế và thân ái với những người xung quanh chúng ta, và chúng ta cũng tử tế và thân ái với chính mình.
That's all I have. Thank you.
Đó là tất cả những gì tôi muốn nói. Cảm ơn
(Applause)
(Vỗ tay)